Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TỔNG hợp các bài VIẾT CHUYÊN đề CHỦ NGHĨA yêu nước TRONG TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ nước của ÔNG CHA TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.96 KB, 30 trang )

TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT CHUYÊN ĐỀ: "chủ
nghĩa yêu nước trong truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc ta"
1. Khái quát điều kiện địa lý, lịch sử, con người của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam nằm ở khu vực Đơng Nam Á, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây và Tây
Nam giáp các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, phía
Đơng và phía Nam giáp Biển Đơng (Thái Bình Dương) với 3260 km đường bờ biển và
khoảng trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam có diện tích khoảng 331.590 km 2 đất liền và
khoảng 700.000 km2 thềm lục địa, phần biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền. Do
có vị thế tự nhiên đặc biệt như vậy nên Việt Nam sớm trở thành cửa ngõ, yết hầu giao
thông quan trọng, là chiếc cầu nối giữa Châu Á và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam Á
lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các luồng đường, luồng hàng từ Đông
sang Tây, từ Nam lên Bắc, nơi tiếp xúc và giao thoa của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn
trên thế giới.
Địa hình Việt Nam khá đặc biệt: hai đầu phình ra (Bắc Bộ và Nam Bộ) ở giữa thu hẹp
lại và kéo dài (Trung Bộ). Thiên nhiên Việt Nam đa dạng bao gồm các vùng đồng bằng, ven
biển, trung du, cao nguyên và núi rừng, với hàng loạt sơng ngịi lớn nhỏ, khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Hơn nữa Việt Nam lại nằm ở vị trí có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
“rừng vàng, biển bạc”, đất đai phì nhiêu, màu mỡ… và cùng với bản tính của người dân Việt
Nam là rất cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, đã tạo ra cho đất nước Việt
Nam có đầy đủ những điều kiện để phát triển một nền kinh tế toàn diện. Bên cạnh những
thuận lợi do thiên nhiên “hào phóng” đem lại, cịn có hàng loạt những khó khăn như bão,
lụt, áp thấp nhiệt đới và gió mùa đơng bắc khắc nghiệt. Chính trong cuộc đấu tranh với
những thiên tai đó, để không ngừng tồn tại, sản xuất, phát triển, con người Việt Nam đã gắn
bó sâu sắc với quê hương, đất nước mình, đồn kết chặt chẽ với nhau, vươn lên khơng
ngừng về trí tuệ và sự năng động. Đồng thời, qua hàng ngàn năm đấu tranh với thiên nhiên,
lao động sản xuất đã hun đúc nên tâm hồn cốt cách con người Việt Nam. Đó là những con
người chất phác, giản dị, yêu lao động, yêu thiên nhiên, yêu con người, u hịa bình, u
cuộc sống, bền bỉ dẻo dai, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, đấu tranh anh dũng kiên
cường bất khuất…
Từ cổ xưa, miền Đông của Châu Á đã là nơi sinh sống của những con người đầu


tiên trên trái đất (người vượn Giava, người Bắc Kinh). Những di tích, di vật khảo cổ học
phong phú, đa dạng và liên tục đã xác nhận một thực tế hiển nhiên là cùng với quá trình
hình thành đất nước, con người Việt Nam, tổ tiên ta đã đồng thời khai chiếm cả núi rừng,
đồng bằng và biển cả, đã triệt để khai thác và thích nghi với điều kiện tự nhiên, tạo nên thế
mạnh căn bản của cộng đồng ngay từ thuở khai sinh. Nước Việt Nam nằm ở khu vực nối
liền hai đại dương: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, vùng hải đảo và lục địa châu Á


nên cũng là nơi tụ cư của nhiều tộc người khác nhau. Cho đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam
có 54 tộc người sinh sống với 8 nhóm ngơn ngữ khác nhau như: Việt- Mường, Tày- Thái,
H’mông- Dao, Tạng- Miến, Hán, Môn- Khơme, Mã lai- Đa đảo và hỗn hợp Nam Á. Lãnh
thổ và cư dân Việt Nam được hình thành và định hình trong tiến trình lịch sử đất nước. Lịch
sử Việt Nam là lịch sử của một cộng đồng cư dân nhiều tộc người, có tộc người đa số, có các
tộc người thiểu số, có tộc người đến trước, có tộc người đến sau, nhưng một khi đã hịa
chung vào cộng đồng dân tộc Việt thì chung sức chung lòng cùng nhau dựng nước và giữ
nước. Suốt trong chiều dài lịch sử, nhân dân các dân tộc cả đa số và thiểu số, cả miền núi và
miền xuôi đã cùng nhau xây đắp nên phẩm chất, cốt cách của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam, tạo dựng nên một nền văn hóa, văn hiến Việt Nam độc đáo, với nhiều giá trị cao
đẹp.
Do có những điều kiện tự nhiên- xã hội thuận lợi và nằm ở vị trí địa lý chiến lược
quan trọng nên Việt Nam sớm trở thành mục tiêu xâm lược, nơ dịch, đồng hóa của nhiều
nước lớn trong khu vực và trên thế giới từ trước đến nay. Bởi vậy, ngay từ buổi đầu dựng
nước, chống giặc ngoại xâm đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết, dựng nước đi đôi với giữ
nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Trong chiều dài lịch sử hàng
ngàn năm của dân tộc, nhân dân ta đã phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lược hung
hãn, có lúc phải đối đầu lịch sử với đội quân xâm lược vào loại hùng mạnh nhất của thế
giới đương đại. Song thời nào cũng vậy, nhân dân Việt Nam luôn nêu cao cảnh giác, chuẩn
bị lực lượng đề phòng giặc ngay từ thời bình; trong chiến tranh, vừa chiến đấu, vừa sản
xuất, xây dựng đất nước và sẵn sàng đối phó với âm mưu của kẻ thù. Vì vậy, đánh giặc,
giữ nước là nhiệm vụ thường xuyên, cấp thiết và luôn luôn gắn liền với nhiệm vụ xây dựng

đất nước.
Đặc biệt, Việt Nam ở một vị trí mà biên giới của chúng ta gắn liền với Trung Quốcmột nước lớn, khổng lồ, luôn ln có tư tưởng “bành trướng” xuống phía Nam, nên nước
ta thường xuyên bị các thế lực bành trướng ngoại bang phía Bắc nhịm ngó và tiến hành
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, thơn tính. Tất cả các triều đại phong kiến thống trị ở
Trung Quốc: Tần, Triệu, Hán, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường, Nguyên, Minh, Thanh... đã
mở nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, bành trướng, đồng hoá dân tộc Việt Nam, nhưng cuối
cùng chúng đều thất bại trước truyền thống đánh giặc giữ nước độc đáo của dân tộc Việt
Nam. Có thể thấy lịch sử dân tộc Việt Nam không những trong thời trung cổ bị các đế chế
phong kiến phương Bắc xâm lược mà bước sang thời kỳ cận đại, hiện đại các thế lực đế
quốc thực dân phương Tây tiếp tục với ý đồ xâm lược hoặc trực tiếp xâm lược thống trị
nước ta như: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và trực tiếp là Pháp, Nhật, Mỹ sang
xâm lược nước ta.
Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử, kể cả những lúc phát triển cao vẫn là một
đất nước không rộng, người khơng đơng, tiềm lực kinh tế, quốc phịng có hạn. Nhưng thật
hiếm có một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới có đặc điểm lịch sử như Việt Nam. Trong
mấy nghìn năm lịch sử đã có hơn một nghìn năm phải trực tiếp cầm vũ khí chống ngoại


xâm. Nếu chỉ tính từ khi có sử liệu ghi chép rõ ràng thì từ cuộc kháng chiến chống Tần xâm
lược đến nay là 22 thế kỷ, dân tộc ta đã phải trực tiếp kháng chiến suốt 13 thế kỷ. Quá trình
chống kẻ thù xâm lược, giữ nước hoặc giải phóng dân tộc hoặc bảo vệ tổ quốc ở mỗi thời
đại lịch sử có khác nhau, song rốt cuộc thì dù dài, dù ngắn, nhân dân ta đều đánh bại kẻ thù
xâm lược, giải phóng được dân tộc. Vận nước có lúc thịnh, lúc suy, song mỗi khi có kẻ thù
xâm lược, nhân dân ta lại cố kết cùng nhau đứng lên chiến đấu chống bọn xâm lăng, bảo tồn
giống nịi, văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính từ lịch sử ấy, truyền thống ấy qua mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc và hình thành một cách tự
nhiên truyền thống đánh giặc giữ nước và nó trở thành truyền thống quý báu và độc nhất vô
nhị của dân tộc Việt Nam mà trên thế giới không một dân tộc, quốc gia nào có được.

1.2. Q trình hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước trong truyền

thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở của sự
thống nhất biện chứng giữa những điều kiện khách quan và chủ quan gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử.
Trong thời đại Văn Lang, giai đoạn hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Văn
Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Nước Văn Lang thành lập từ năm 284 (TCN).
Khi đó nước Văn Lang đã có một lãnh thổ xác định. Lãnh thổ Văn Lang chải dài trên lưu
vực bốn sơng: sơng Hồng, sơng Thái Bình, sơng Mã, sơng Lam; phía Đơng là biển rộng;
Tây, Nam, Bắc là núi cao. Đó cũng là lãnh thổ của Việt Nam khi Ngô Quyền giành lại độc
lập năm 938; người Văn Lang thuộc dân tộc Lạc Việt, vốn là một dân tộc định cư. Điều đó
làm cho người Lạc Việt gắn bó với quê hương hơn những người du canh, du cư. Tình cảm
yêu nước bắt đầu từ lúc các bộ tộc thuộc nòi giống Lạc Việt hợp lại thành nhà nước Văn
Lang.
Nhà nước Văn Lang được thống nhất từ 15 bộ tộc cũng lãnh thổ, cùng tiếng nói,
cùng phong tục, hợp nhau thành cộng đồng lớn, trong một chế độ trật tự, trên có vua Hùng,
giữa có Lạc hầu, Lạc tướng, dưới có Lạc dân, tất cả hội họp trong tiếng trống đồng, đuổi
giặc ngoại xâm bằng mũi tên đồng. Lúc này nhà nước Văn Lang chưa hẳn là một nhà nước
chủ nô hay phong kiến tập trung, nhưng đã là một quốc gia cổ đại. Nhà nước Văn Lang
khơng phải ở một trình độ liên minh bộ lạc hợp rồi tan, tan rồi lại hợp, mà đã thành một
cộng đồng xã hội, chính trị có đời sống lâu dài, đã cho phép nảy nở một nền tảng tâm lý
văn hóa chung, trong đó bắt đầu xuất hiện những yếu tố tuy sơ khai nhưng khá rõ, đó là tư
tưởng yêu nước, mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.


Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã khắc phục được những yếu tố phân tán, chia
cắt, nhanh chóng tập hợp lực lượng nhờ việc liên minh các bộ lạc giữa các vùng, hình
thành một khối cố kết vững chắc trong cộng đồng và nó đã mang những dấu hiệu đặc trưng
của một dân tộc. Nhờ đó, dân cư Lạc Việt đã có một cuộc sống ổn định với một nền văn
hóa vật chất và tinh thần đặc sắc, phát triển cao. Chính vì thế, ngay từ buổi đầu tiên, nước
Văn Lang đã là một đối tượng bị xâm lược thường xuyên của các thế lực phong kiến

phương Bắc. Để tồn tại và phát triển dân tộc ta không có cách nào khác là phải đồn kết
dân tộc, dũng cảm đứng lên dù phải hy sinh gian khổ, nhất định không chịu khuất phục,
không chịu làm nô lệ, quyết tâm đánh giặc, cứu nước, cứu nhà. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam đã hình thành từ đó.
Tuy nhiên việc làm rõ tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc hình thành như thế nào
ở giai đoạn dựng nước và giữ nước đầu tiên của tổ tiên ta là một việc rất khó khăn. Bởi lẽ
thời đó nước Văn Lang – Âu Lạc “dường như” chưa có chữ viết, khơng có bản văn tự nào
ghi lại lịch sử quốc gia dân tộc. Cho đến gần đây, khi thầy giáo Đỗ Văn Xuyên sau nửa
cuộc đời nghiên cứu đã công bố những phát hiện mới nhất về “Hỏa tự”, kiểu chữ “Khoa
đẩu” và sự xuất hiện của một nền giáo dục với thầy giáo, cố giáo và học trò trong những
buổi đầu dựng nước của cha ông. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số các tài liệu hiện có là do
những người sau ghi lại dựa trên cơ sở truyền thuyết thần thoại và văn hóa dân gian. Vì
vậy, nghiên cứu và khẳng định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam thời đại Văn Lang – Âu Lạc chủ yếu dựa vào nền văn hóa vật chất được ngành khảo
cổ học khai quật, phân tích đánh giá và hệ thống. Truyện cổ Văn Lang phản ánh sinh động
cuộc sống của dân cư Lạc Việt trong lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai, chinh
phục thiên nhiên, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Những chuyện này hầu hết là những
chuyện mang tư tưởng dân tộc, yêu nước, yêu dân, yêu giống nòi con cháu, tổ
tơng,...Trong đó, có những chuyện cổ điển hình đã nói lên cái cốt lõi những nguyên lý sơ
khởi của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Truyện “Vua Hùng dựng nước” kể rằng, nước Văn Lang thành lập bằng sự đoàn kết
thống nhất của 15 bộ lạc để tạo thành sức mạnh chống thiên tai và kẻ thù xâm lược. Văn
Lang được thành lập không phải bằng chiến tranh giữa các bộ tộc, bộ lạc thơn tính lẫn nhau
như nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Đoàn kết dựng nước – đây là nguyên lý sơ khởi của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
đã được hình thành cùng buổi đầu hình thành dân tộc Việt Nam. Truyện “Bọc trăm trứng”
– Mẹ Âu Cơ (giống tiên) sanh duyên với Lạc Long Quân (giống rồng) sinh một bọc trăm
trứng, nở trăm con, 50 người con theo cho xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi, hình
thành dân tộc, quốc gia Việt Nam nói lên tất cả chúng ta đều cùng một giống nòi, một gốc
rễ, tổ tông đều là con Lạc, cháu Rồng. Cho nên dù ở miền xuôi hay miền ngược, miền Bắc

hay miền Nam đều là anh em một nhà; sống chết, phải có nhau, phái biết yêu thương, đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau, lúc “tắt lửa tối đèn”, “hỏa hoạn gian nan” cũng như khi yên ả, thanh
bình. Như vậy ngay từ buổi khai thiên lập địa, tổ tiên ta đã thấy sức mạnh của đoàn kết
cộng đồng, biết dựa vào “lịng người, tình người” để tồn tại và phát triển, qua đó phê phán
sự xa cách, phân tán, chia lìa, gạt bỏ thứ tình cảm cá nhân, hẹp hịi…Truyện là lời tâm
huyết của tổ tiên dặn dị con cháu mn đời phải thương yêu đùm bọc nhau như ruột thịt
thì mới tồn tại được mãi mãi, phải bảo vệ lấy giống nịi của mình. Ở đây, u nước đi đơi


với thương nòi, yêu nước gắn liền với yêu dân, đó là cái nghĩa đồng bào. Vẹn nghĩa đồng
bào là một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ
thủa Văn Lang. Từ thực tiễn cuộc sống cha ông ta đã đúc kết thành lẽ sống. Khi nào có sự
thống nhất, đồn kết thì khi đó có sức mạnh; có sức mạnh đồn kết thống nhất thì mọi khó
khăn thử thách đều vượt qua, mọi kẻ thù dù chúng hùng mạnh đến mấy ta cũng đánh
thắng.
Truyện Ơng Gióng là đỉnh cao của tư tưởng yêu nước thời đại Văn Lang. Đời Hùng
Vương thứ 7, bờ cõi Văn Lang bị giặc Ân xâm phạm, vua HÙng truyền hịch cứu nước. Làng
Phù Đổng có một đứa trẻ sinh ra mấy năm rồi mà khơng nói, không cười. Nhưng khi vua kêu
gọi chống giặc cứu nước thì đứa trẻ ấy nói lên lời đầu tiên: tình nguyện ra đánh giặc giữ nước.
Với hình tượng Thánh Gióng bỗng dưng trở thành người khổng lồ, khi đất nước lâm nguy,
khơng phải ai khác chính là sự vùng dậy của toàn dân tạo nên sức mạnh thần kỳ để chiến
thắng giặc ngoại xâm. Rõ ràng, tổ tiên ta phải có lịng u nước sâu sắc, ý thức độc lập dân
tộc và chủ quyền quốc gia, có khát vọng thiết tha yêu đời, mới có sức mạnh phi thường để trở
nên “thiên thần” như vậy; lòng yêu nước ấy trong sáng và cao cả biết bao, nó vơ tư khơng gợn
một chút danh lợi. Như ơng Gióng hết giặc trở về trời, hẹ lúc nào đất nước lâm nguy lại trở về
đánh giặc. Lúc thanh bình cha ơng ta hăng hái chăm lo lao động sản xuất, lúc đất nước có
giặc lại nhất tề đứng lên đánh giặc cứu nước – một nguyên lý được kết hợp trong chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam ngay từ thủa Văn Lang.
Năm tháng qua đi, nhiều sự vật đổi thay, các loại văn hóa vật chất ở thời Văn Lang
có thể bị thời gian bào mịn. Nhưng tình thần đồn kết dựng nước, tình nghĩa đồng bào, xả

thân cứu nước, tạo thành những nguyên lý sơ khởi hình hành phát triển chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam vẫn trường tồn, sống mãi và ngày càng được xây đắp vững bền trong các
thế hệ kế tiếp của người Việt Nam. Sự nghiệp của các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã
trở thành biểu tượng cao đẹp, khắc sâu trong tâm trí của người dân Việt Nam; là cội nguồn
sức mạnh của dân tộc ta tiến lên, khơng bị đồng hóa, mất bản sắc dân tộc, dù hơn một
nghìn năm Bắc thuộc, khơng chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào, dù nó là kẻ thù bành
trướng Đại Hán, hay đế quốc Pháp, Mỹ…
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam kết thành sức mạnh bền bỉ, kiên cường
hàng ngàn năm đấu tranh chống đô hộ, chống đồng hóa của Hán – Đường. Nhà nước Văn
Lang chấm dứt sự tồn tại vào đời vua Hùng thứ 18 (năm 252 TCN). Sau đó 50 năm, nhà
nước Âu Lạc quốc hiệu thứ hai của Việt Nam rơi vào tay giặc phương Bắc. Dân tộc ta đã
mang ách đô hộ cho đến năm 938 mới giành lại độc lập. Sau hơn một nghìn năm bị đơ hộ,
kẻ thù băng mọi thủ đoạn hịng đồng hóa dân tộc Việt Nam; nhưng dân tộc Việt Nam ta
vẫn trường tồn và phát triển. Điều đó được cắt nghĩa cội nguồn sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam đã được giữ gìn tiếp tục phát triển trong thời kỳ này, biểu
hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện ở ý chí quyết tâm bám quê cha đất tổ, một lấc
không đi, một lý không dời. Cuộc xâm lược của nhà Hán đối với dân tộc ta với âm mưu
“dĩ Hoa biến Di” (dùng Hoa làm thay đổi Di) là thực hiện “trách nhiệm” khai hóa, đồng
hóa dân tộc Việt Nam. Họ muốn sát nhập Việt Nam thành một bộ phận của Bắc quốc.Bằng
áp lực về dân số và nhiều thủ đoạn tàn bạo của nhà Hán để ép người Việt Nam di cư xuống
phía Nam. Nhưng cha ơng ta khơng khuất phục, vẫn cương cường bám trụ quê cha đất tổ,


bảo toàn được lãnh thổ ngàn đời. Tinh thần hướng về quê cha đất tổ Hùng Vương vào ngày
10 tháng 3 (âm lịch) đã trở thành phong tục, truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và
vẫn được lưu truyền đến ngày nay.
Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện ở quyết tâm bảo vệ nòi giống Lạc Hồng; sau
hàng ngàn năm dân tộc ta vẫn tồn tại, không bị Hán hóa, khơng bị mất bản sắc dân tộc, đó
cũng là một thành tích kỳ diệu của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam thời kỳ

ngàn năm Bắc thuộc.
Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện ở sức mạnh bảo vệ nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Nêu
dân tộc ta bị đồng hóa về văn hóa, mất bản sắc văn hóa của người Việt Nam hoặc trở thành
bóng mờ, bản sao chép của người Hán, thì dù ta có giữ được dịng máu dân tộc, dù có bám trụ
được q cha đất tổ thì sớm muộn dân tộc ta cũng bị mất hết. Văn hóa là ngun khí quốc gia,
là linh hồn của dân tộc. Người Việt Nam ta chú trọng bảo vệ ngơn ngữ dân tộc mình, ta học
chữ Hán mà đọc bằng tiếng mẹ đẻ. Người Việt Nam học chữ Nho mà ít theo học đạo Nha, đấu
tranh chống tư tưởng “trong hoa hạ, ngoài di dịch” của đạo Nho. Vì dân ta hiểu Nho giáo là
đạo của kẻ thống trị ngoại bang hay dùng làm vũ khí để áp bức dân ta. Đạo Nho đặt Trung
Quốc là trung tâm của thế giới, còn các dân tộc khác đều là man di, mọi dợ; người Việt Nam
bị khinh thị là rợ phương Nam. Mặc dù bị người Hán – Đường chế nhạo, thậm chí chà đạp
nên nhiều phong tục tập qn cổ truyền của mình nhưng cha ơng ta vẫn kiên quyết đấu tranh
bảo vệ, bảo tồn và giữ gìn những thuần phong mỹ tục của dân tộc. Để thủ tiêu văn hóa của
Việt Nam, Mã Viện đã lệnh thu gom các trống đồng Văn Lang để đúc ngựa đồng, chôn cột
đồng và đe dọa “đồng trụ chiết, Gia Chỉ diệt”. Song người Việt Nam quyết tâm bảo vệ văn
hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc trở thành vũ khí để chiến thắng kẻ thù. Sau này khi một sứ thần
triều Nguyên đến Thăng Long phải thốt lên: “Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh”.
Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện ở tình thần cứu nước được hun đúc mãi mãi. Trong
suốt thời kỳ Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam không chịu khuất phục liên tiếp vùng dậy đấu
tranh. Ngay trong sử sách Trung Quốc cũng còn ghi lại biết bao cuộc khởi nghĩa của dân
tộc Việt Nam chống đô hộ, giành độc lập. Có cuộc giành độc lập dân tộc trong thời gian
gian ngắn 3-4 năm (Bà Trưng), có khi giành độc lập trong thời gian dài 60 năm (Lý Bơn).
Điều đó đã khẳng định sự trưởng thành về ý thức, lịng tự hào, tự tơn của dân tộc, chủ
nghĩa yêu nước luôn luôn được hun đúc, kết tinh tạo thành sức mạnh kỳ diệu để dân tộc ta
giành thắng độc lập. Với chiến thắng của Ngô Quyền dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ
văn minh Đại Việt.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam được hình thành từ thời Văn Lang,
được phát triển căn bản trong thời Đại Việt. Thời kỳ Bắc thuộc, tư tưởng yêu nước khơng
bị tàn lụi, trái lại cịn tiếp tục được duy trì. Đến triều Lý (đầu thế kỷ XI) tư tưởng yêu nước
càng được phát triển, biểu hiện nổi bật là tư tưởng của Lý Thường Kiệt với bài thơ “thần”

trên sơng Như Nguyệt; bốn câu mà nói lên hai ngun lý cơ bản của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam. Nguyên lý thứ nhất là:
“Nam quốc sơn hà, nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Sơng núi nước Nam thì hồng đế nước Nam ở, cũng có nghĩa là lãnh thổ Việt Nam thì
dân tộc Việt Nam làm chủ. Quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam không ai có quyền
cướp đi được. Điều đó đã được ghi rõ ở “thiên thư” – sách trời. Tư tưởng đó đã vượt trước


mấy trăm năm so với tuyên ngôn dân quyền của Pháp và tuyên ngôn độc lập của Mỹ sau này.
Nguyên lý thứ hai là:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư”
Cớ sao lũ giặc dám tới xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tơi bời, chuốc lấy bại
vong. Điều đó khẳng định kẻ thù phi nghĩa nhất định sẽ bị thất bại; cuộc chiến đấu của dân
ta là chính nghĩa nhất định sẽ thắng lợi. Với hai nguyên lý trên, bài thơ “thần” của Lý
Thường Kiệt như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được biểu hiện điển hình ở thời nhà Trần với “Hịch
tướng sĩ”, “DI chúc”, Hội nghị Diên hồng, Hội nghị Bình Than… Đó là tinh thần quyết
chiến quyết thắng , khơng sợ địch; đem sức của tồn dân, tồn quân mà kháng chiến thì chắc
chắn sẽ “bêu được đầu của Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cao
Nhai”. “Hịch tướng sĩ” nhắc nhở mọi người phải biết bảo vệ danh dự của nước nhà cà của
mình; phải “biết hổ thẹn” khi nước mình, dân mình bị nhục; phai ln ln cảnh giác khơng
một phút thờ ơ đối với vận mệnh của dân tộc; cần phải tránh lối sống hưởng lạc xa hoa; phải
bồi dưỡng tinh thần thượng võ dân tộc, huấn luyện binh võ, tập dượt cung tên khiến cho
người người đều giỏi, có như vậy chúng ta mới chiến thắng được giặc Nguyên Mông. Khi
sắp từ giã cõi đời, Trần Hưng Đạo đã có những lời tâm huyết căn dặn vua Trần: “Khoan thư
sức dân, lấy kế bền gốc sâu rễ là thượng sách giữ nước”. Đây cũng là một nguyên lý tối
thượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Năm 1428, sau khi khởi nghĩa Lam Sơn tồn thắng, “Đại cáo bình Ngô” của

Nguyễn Trãi là bản “thiên cổ hùng văn”, đã bổ sung vào kho tàng chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam những tư tưởng lớn. Quốc gia dân tộc Việt Nam được khẳng định là một nước văn
hiến lâu đời, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, cùng ngang hàng với các vương
triều Bắc quốc, từ đời nọ qua đời kia “mỗi bên hùng cư một phương, tuy mạnh yếu có lúc
khác nhau mà hịa kiệt đời nào cũng có”. “Đại cáo bình Ngơ” cũng nói lên một triết lý căn
bản trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: chống xâm lược là việc chính nghĩa, cứu nước
cứu dân là việc đại nghĩa, chính nghĩa tất thắng phi nghĩa, đại nghĩa tất thắng cường bạo.
Nguyễn Trãi đã phát triển ý thức tự hào dân tộc – một cơ sở quan trọng của chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam. Một tư tưởng lớn của “Đại cáo bình Ngơ” là: yêu nước là
yêu dân, cứu nước là cứu dân. Mục đích cứu nước cứu dân ở đây đã quyện lại với nhau
làm một và vai trò cứu nước của nhân dân được đề cao, được chính thức tun dương cơng
trạng. Nhân dân lao khổ đã sẵn sàng “dựng gậy làm cờ, tụ họp bốn phương mau lẹ”. Đến
khi khởi nghĩa Lam Sơn tồn thắng, Đại cáo bình Ngơ cịn cẩm trọng ghi công cho quần
chúng nhân dân, chứ không phải ghi công cho thần, cho danh tướng. Ở đây Nguyễn Trãi
đã bổ sung vào kho tàng chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam tính chất nhân dân
sâu sắc.
Trong “Đại cáo bình Ngơ”, tư tưởng u nước Việt Nam cịn hàm chứa trong nó ý
nghĩa nhân văn cao cả: ta không cốt rửa hận trả thù bằng cách giết địch nhiều nhất, ta hiếu
sinh, không hiếu sát. Khi kẻ thù “như hổ đói vẫy đi xin cứu mạng thì thần vũ khơng giết,
ta thể lịng hiếu sinh”. Ta quyết chiến, quyết thắng để có độc lập, tự do, có hịa bình mn
thủa. Chủ nghĩa u nước Việt Nam khơng phải là thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hịi, càng
khơng phải là chủ nghĩa chủng tộc, mà là chủ nghĩa yêu nước chân chính cao cả.


Khi đất nước thái bình trong vương triều xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực, nhà
cầm quyền dần dần xa dân, sa vào lối sống hưởng lạc, Nguyễn Trãi đã đệ trình bản “Tấu
vua Lê”: “Dám mong bệ hạ rủ lịng thương u và chăn ni mn dân khiến trong thân
cùng xóm vắng bặt tiếng hờn giận ốn sầu, đó túc là cái gốc của Nhạc vậy”. Lời tấu này
được các đời sau xem như biểu hiện một nguyên lý của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam,
ngày nay được tiếp nối phát triển ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công

bằng, văn minh”.
Thời Tây Sơn – Nguyễn Huệ - Người “anh hùng áo vải cờ đào” đã có những đóng
góp lớn phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: tư tưởng luôn luôn sẵn sàng chiến đấu,
quyết chiến, quyết thắng, bằng cuộc hành quân “thần tốc”, một trận quyết chiến chỉ trong 5
ngày đêm, toàn bộ 29 vạn quân Thanh bị đánh tan tành, chủ tường Tơn Sĩ Nghị chạy bỏ cả
ấn tín. Nguyễn Huệ có đóng góp lớn vào chủ nghĩa yêu nước Việt Nam về ý thức và sự
nghiệp thống nhất nước nhà; đây là sự kế tục tư tưởng, sự nghiệp từ Đinh Bộ Lĩnh. Khởi
nghĩa Lam Sơn đã dẹp xong sự phân chia Trịnh Nguyễn tồn tại mấy trăm năm, kết thúc
triều đại Lê mạt; người anh hùng áo vải là vì nhân đã khởi xướng và bắt đầu thực hiện sự
nghiệp thống nhất đất nước, tư tưởng đó sau này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển
thành chân lý bất hủ: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sơng có thể cạn,
núi có thể mịn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Sau khi Quang Trung mất (năm 1792) các phe phái lại nổi lên, cuộc đấu đá tranh
giành quyền lợi, địa vị liên tục tiếp diễn. Nhiều người trung nghĩa không được tin dùng,
các nho thần Bắc Hà như Ngơ Thì Nhậm, Ninh Tơn, Phan Huy Ích như “bóng nhạn cơ
đơn” đã lần lượt cáo quan trở ra Bắc về quê ở ẩn. Chính quyền Tây Sơn suy yếu nghiêm
trọng và cuối cùng bị thế lực Gia Long đánh đổ (1802). Nền độc lập thống nhất do phong
trào Tây Sơn đứng đầu là Nguyễn Huệ đạt được chưa lâu đã bị những thế lực phản động
cướp đoạt. Nhân dân lại lâm vào cảnh đau khổ, đất nước hoang tàn. Đó là điều kiện để
năm 1858 thực dân Pháp với con bài “khai hóa văn minh” đã nhảy vào cướp nước ta.
Nước ta đứng trước họa thực dân Pháp xâm lược.
Trong hồn cảnh đó, nhân dân lao động Việt Nam khơng sợ vũ khí tối tân và quân
đội nhà nghề của Pháp, đã nhất tề đứng dậy hưởng ứng chiếu “Cần vương” tập trung dưới
ngọn cờ yêu nước của các văn thân, sĩ phu tiến bộ, quyết tâm đánh giặc giữ nước nhà.
Kể tù khi thực dân Pháp xâm lược cho đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
(1930) phong trào kháng Pháp với hàng chục cuộc khởi nghĩa liên tục nổ ta làm cho quân
Pháp khốn đốn. Điển hình là các cuộc khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phạm
Bành, Đinh Công Tráng, Nguyện Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, v.v…
Tuy các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, nhưng nó đã làm cho kẻ thù khiếp sợ và tổn thất nặng
nề cả về sức người, sức của; bước chân xâm lược của chúng bị chùn lại. Qua đó, nói lên

quyết tâm sắt đá của nhân dân ta: thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nơ lệ. Nó cảnh báo cho qn Pháp rằng: “bao giờ người Tây nhổ hết cỏ
nước Nam, thì mới hết người Nam đánh Pháp”.
Con đường kháng Pháp theo ngọn cờ và tư tưởng phong kiến đã thất bại. Lịch sử
đặt ra sự cần thiết phải đi tìm con đường và giải pháp mới để cứu nước. Đầu thế kỷ XX
xuất phát từ cơ sở hiện thực về kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam lúc đó, một số văn thân
sĩ phu yêu nước tiến bộ đã tìm ý thức hệ tư sản với mục đích dùng ngọn vờ này để cứu


nước. Tiêu biểu là hoạt động của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh với những phong trào
yêu nước như “Đông du”, “Đông kinh nghĩa thục”, “Duy tân”…Nhiều tổ chức chính trị xã hội đã ra đời như Day tân hội, Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng…đã
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào kháng chiến chống Pháp. Nhiều hình thức như: mít tinh,
biều tình rải truyền đơn, viết báo vạch mặt kẻ thù…ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, các phong trào yêu nước theo lập trường tư sản ngày càng bất lực trước
yêu cầu khách quan của lịch sử. Sự khủng hoảng về đường lối ngày càng sâu sắc. Chính trong
điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam; sự kết hợp
của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã
dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Kể từ đây nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn mà chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển đến đỉnh cao ở thời đại Hồ Chí Minh.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã có bước
nhảy vọt về chất, trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh. Những
nguyên lý của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam được dựa vững chắc trên lập
trường giai cấp vô sản đã phát triển rực rỡ và trở thành ngọn nguồn sức mạnh đưa cách
mạng nước ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX: Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi
của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của cơng cuộc đổi mới, tiến hành

cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Lòng yêu nước, đề tài xuyên suốt của báo chí (10/09/2012 13:58)
Chúng ta yêu nước Việt Nam. Lòng yêu nước như ngọc sáng trong tâm mỗi người.
Ngọc càng mài càng sáng. Lòng yêu nước càng mài giũa, trau dồi, càng trong sáng và
cao quý bội phần. Tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước là trách nhiệm và bổn phận của
người làm báo Việt Nam
Dân Việt Nam gọi nước Việt Nam bằng hai tiếng tiếng thiêng liêng: Tổ quốc . Tổ quốc
Việt Nam có lãnh thổ riêng do thiên nhiên ban tặng và được tạo dựng, bồi đắp, giữ gìn
bằng xương máu, mồ hơi của cả dân tộc trong suốt chiều dài của lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nuớc đầy khí phách, anh dũng, ngoan cường. Tổ quốc là đây với đất liền, bầu
trời, biển khơi, hải đảo…phân định rạch ròi với các nước lân bang bằng đường biên giới
trên đất liền, khoảng khơng và ngồi biển khơi. Mỗi tấc đất, tấc biển đều là xương thịt Tổ
quốc.
Nếu như cha ông chúng ta xưa kia đã từng nhắc nhiều đến Tổ quốc với những địa danh ghi
đậm những chiến công hiển hách trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng như Bạch
Đằng, Chi Lăng, Rạch Gầm, Xoài Mút, Điện Biên Phủ, Tây Ninh, Quảng Ninh, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên…thì ngày nay chúng ta cũng thường
nhắc đến Trường Sa và Hoàng Sa với sự kiên định vững vàng về quyền tự chủ về lãnh thổ.
Bởi một chân lý đã trở thành tâm thức của mọi người dân Việt: yêu nước, trước hết là yêu
sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đất nước là cội nguồn hạnh phúc, nơi chung sống của 54
dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đất nước Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam
hôm nay đang vững bước đi lên trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam


khởi xướng và lãnh đạo với một thể chế chính trị và mục tiêu rõ ràng: “Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc”. Thể chế chính trị của chúng ta là thể chế
cộng hịa xã hội chủ nghĩa. Về dân tộc chúng ta độc lập. Về nhân quyền, chúng ta tự do.
Về con người chúng ta hạnh phúc. Trong thể chế chính trị, hiến pháp quy định rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự làm chủ của nhân dân. Chức năng lãnh

đạo, vai trò cầm quyền của Đảng là bất di bất dịch. Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Dân làm chủ đất nước, có nghĩa vụ và quyền lợi đối với đất nước. 67 năm qua, kể từ ngày
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, và đặc biệt là sau những năm thực hiện công
cuộc đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lòng yêu nước là một trong những giá trị tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam phải được
thẩm thấu và trở thành nội dung tư tưởng của mỗi tác phẩm báo chí. Mỗi tên đất, tên làng,
tên núi, tên sông, tên suối, tên biển, tên đảo, tên người của Việt Nam đều thiêng liêng như
tiếng Việt Nam. Khi đăng bản đồ, dự báo thời tiết, báo chí phải cung cấp đủ thơng tin về
địa danh. Đừng qn rằng các thế lực bên ngồi ln ln nhịm ngó, chờ đợi thời cơ,
dùng mọi âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hòng xâm phạm, tranh cướp lãnh thổ, lãnh
hải của ta. Bởi vậy cho nên, khi đăng bản đồ, cần đăng bản đồ do ta sản xuất, khơng đăng
bản đồ do nước có vấn đề tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải với ta. Về địa danh, dứt khốt phải
viết bằng tiếng Việt, khơng sử dụng tiếng nước ngồi, tên gọi do phía nước ngồi mạo đặt.
Báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử rất cần chú ý việc này, đặc biệt là báo điện tử, dù
thông thạo đến mấy cũng không được chủ quan, phải rà soát thật kỹ, khi thấy đủ, đúng, rõ
ràng mới cho đăng phát.
Yêu nước gắn liền với niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Ca ngợi anh hùng và những tấm gương
tiêu biểu khác trong đời sống xã hội cần nêu cao phẩm chất cá nhân nhưng phải gắn với
cộng đồng dân tộc, truyền thống dân tộc, gắn cá nhân với tập thể, ca ngợi tình đồn kết,
thủy chung. Bác Hồ đã từng dạy: “Có anh hùng là vì có tập thể anh hùng. Có tập thể anh
hùng là vì có nhân dân anh hùng, Đảng anh hùng, dân tộc anh hùng”. Thực tế cho thấy, từ
trước đến nay, bất cứ anh hùng nào của Việt Nam cũng gắn với dân tộc, khơng có anh hùng
nào của Việt Nam không gắn với dân tộc. Người Việt Nam càng tự hào, tự tôn dân tộc bao
nhiêu lại càng không bảo thủ, muốn học, muốn tiếp thu các giá trị tinh hoa, tiên tiến mang
tầm nhân loại của các dân tộc, các nước trên thế giới, để rồi từng bước nâng cao, hồn
thiện mình hơn với tầm cao trí tuệ, nâng cấp địa vị văn hóa, địa vị kinh tế, địa vị xã hội và
địa vị nòi giống. Hội nhập thế giới là đúng nhưng càng hội nhập sâu, rộng đến đâu, chúng
ta càng thể hiện rõ mình hơn, vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn, chững chạc hơn, sáng sủa
hơn, bạn rõ bạn, thù rõ thù, không lẫn lộn, không ảo tưởng.

Người cầm bút cũng như người cầm súng, cầm cày, cầm búa, chúng ta thể hiện lòng yêu
nước bằng tinh thần đoàn kết, lao động, sáng tạo, chiến đấu, hy sinh không ngừng không
nghỉ. Riêng đối với người làm báo, chúng ta cùng chung lời nguyền: “Vì Tổ quốc, vì độc
lập, tự do, vì hạnh phúc nhân dân, sáng tạo những tác phẩm báo chí có nội dung và chất
lượng cao nhất”./.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại (*)
19-03-2011
Yêu nước là một tình cảm, một trạng thái tâm lý tự nhiên của con người như tình u
q hương, xứ sở, sự gắn bó với ngơn ngữ và niềm tự hào về truyền thống... Yêu nước
là một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành đối với Tổ quốc,
lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ
quốc. Yêu nước cũng có q trình phát triển cùng với lịch sử phát triển của quốc gia
dân tộc, theo quá trình đó thì tình cảm u nước có tính chất cảm tính ấy dần dần trở
thành lý tính có nội dung tư tưởng, lý luận.


Trong xã hội có giai cấp, chủ nghĩa yêu nước cũng có tính giai cấp, bởi vì mỗi giai cấp
biểu hiện thái độ của mình đối với Tổ quốc thơng qua những lợi ích riêng vốn có của nó.
Gắn liền với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, "chủ nghĩa yêu nước trở thành một bộ phận
không thể tách rời của ý thức xã hội"(1) . Nó là một hình thái ý thức xã hội - hình thái ý
thức yêu nước.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đã được toàn thể dân tộc ta trong thời hiện đại làm giầu thêm bằng vô vàn
những gian khổ, hy sinh suốt hơn 30 năm đấu tranh chống xâm lược và xây dựng đất nước
trong điều kiện chiến tranh. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ấy, Đảng ta, do
Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã từng bước tổng kết và khái quát hoạt động thực tiễn
của cả dân tộc thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại.
Trong chuyên đề này, chúng tôi không thể giải quyết hết mọi vấn đề, mà chỉ tập trung vào
hai nội dung sau: 1) Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại diễn ra
như thế nào? 2) Vì sao lại diễn ra như vậy?

1. Tổng quan về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống
Nhận định về chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã viết:
"Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn
sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh
thần yêu nước của dân ta"(2)
a. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống - cơ sở hình thành và quá trình phát
triển
Việt Nam có vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, tài ngun, sinh thái thuận lợi, khí hậu
nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng. Với vị trí và đặc điểm ấy, Việt Nam đã chứa đựng
nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra khơng ít thử thách đối với con người.
Ở Việt Nam có sự xuất hiện sớm của quốc gia dân tộc trên cơ sở phân hoá xã hội và phân
hoá giai cấp, do yêu cầu xây dựng, quản lý các cơng trình đê điều, thuỷ lợi và yêu cầu
chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt
Nam gắn liền với quá trình thống nhất quốc gia. Điều đó đã tác động sâu sắc đến sự phát
triển của ý thức dân tộc, tạo nên sự cố kết cộng đồng. Tinh thần yêu n¬ước đ¬ược thể hiện
qua ý thức cộng đồng và phát triển trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nư¬ớc. Nó là
sản phẩm riêng của dân tộc Việt Nam.
Hiếm có dân tộc nào trên thế giới trải qua chiến tranh nhiều như dân tộc ta. Kể từ kháng
chiến chống Tần thế kỷ thứ III trước công nguyên đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
vừa kết thúc, trong hơn 22 thế kỷ, tính ra thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh
chống đô hộ ngoại bang đã lên đến trên 12 thế kỷ. Độ dài thời gian, tần xuất các cuộc
kháng chiến quá lớn so với nhiều nước trên thế giới, hơn nữa lại luôn ở thế nhỏ yếu chống
chọi với kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp bội. Điều đó đã tác động sâu sắc đến sự phát triển
của tinh thần yêu n¬ước, truyền thống đồn kết dân tộc, ý chí quật cường bất khuất và
niềm tự tôn dân tộc.


Thời kỳ Bắc thuộc hơn nghìn năm với tất cả âm mưu đồng hoá của ngoại bang là một thử

thách hết sức ác liệt đối với sự tồn vong của đất nước, dân tộc. Chiến thắng Bạch Đằng do
Ngô Quyền lãnh đạo đã giành lại chủ quyền đất nước, giữ được vốn văn hố và bản sắc
dân tộc, khơng bị đồng hoá. Trong cuộc đấu tranh ấy, sự cố kết cộng đồng dân tộc và tinh
thần yêu nước càng được tôi luyện và nâng cao.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV là thời kỳ tồn tại nền độc lập lâu dài của đất nước. Nội dung
bài thơ “ Nam quốc sơn hà” đã chứng tỏ một bước phát triển cao của tinh thần yêu nước và
ý thức độc lập tự chủ. Trải qua ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi cùng với
những bộ Binh thư, Hịch tướng sĩ, Di chúc của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh sự trưởng
thành của tinh thần yêu nước với nhận thức gắn nước với dân và sức mạnh “vua tơi đồng
lịng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức”, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc giữ nước”. Khởi nghĩa Lam Sơn đã phát huy cao độ sức mạnh “nêu hiệu gậy làm cờ,
tụ tập khắp bốn phương manh lệ”, phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
mang tính nhân dân sâu rộng. Những tổng kết trong “Bình Ngơ đại cáo” cho thấy tinh thần
u nước, ý thức dân tộc đã phát triển lên trình độ của chủ nghĩa yêu nước với một nhận
thức mang tính hệ thống, khái qt tương đối tồn diện về sự tồn tại của đất nước và dân
tộc.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang mơ hình chế độ
phong kiến trung ương tập quyền lấy Nho giáo làm nịng cốt. Từ đó, Nho giáo đã có ảnh
hưởng và chi phối ngày càng sâu sắc trong triều đình và xã hội Việt Nam. Phong trào Tây
Sơn (1771) nổi lên ở Đàng Trong rồi tiến ra Bắc. Phong trào đó từ một cuộc khởi nghĩa
nông dân phát triển thành một phong trào dân tộc, đánh đổ các chính quyền phong kiến,
đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh và xố bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong- Đàng
Ngồi.
Có thể nhận định rằng: theo suốt lịch sử, tổ tiên chúng ta đã biết phát huy cao độ sức mạnh
nội sinh, tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của
đất nước và con người Việt Nam. Nhờ đó mới có thể giữ vững nền độc lập, chủ quyền và
xây dựng đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có một số giá trị và nội dung cơ bản là:
Thứ nhất, có tình u q hương, xứ sở và sự gắn bó, cố kết cộng đồng. Trong truyền
thống dân tộc với nền văn minh trồng lúa nước đã lấy nhà ( gia đình) làm đơn vị kinh tế và

làng làm cộng đồng cơ sở. Việc nhà, việc làng, việc nước là công việc chung của mọi
người. Do vậy, con người Việt Nam từ cổ xưa đã sẵn có truyền thống yêu nước gắn liền
với yêu nhà và yêu làng.
Thứ hai, có sự khẳng định lịch sử riêng và bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, khẳng định
về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, và sự bình đẳng của nước ta, vua ta đối với
phương Bắc và các vua phương Bắc.
Thứ ba, khẳng định tính chính nghĩa của những cuộc chiến tranh vệ quốc và quyết tâm
đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ độc lập và sự tồn vẹn lãnh thổ. Tính chất chính nghĩa của những
cuộc chiến tranh vệ quốc đã nâng tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở lên thành ý
thức bảo vệ Tổ quốc và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với một quyết tâm cao độ của cả dân
tộc.


Thứ tư, có tư tưởng coi trọng vai trị của nhân dân và thân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Đó là sản phẩm của tư tưởng Việt Nam, là quan điểm tiến bộ của hệ tư tưởng phong
kiến Việt Nam đại diện cho quyền lợi dân tộc. Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử đã đẩy lên
đỉnh cao nghệ thuật đoàn kết nội bộ, cố kết cộng đồng dân tộc để chống lại kẻ thù bên
ngồi, nó cũng đã đẩy lên tầm cao ý thức dân tộc về vai trò và lực lượng to lớn của nhân
dân trong sự kết hợp lịng u nước với tình đồn kết để bảo vệ nền độc lập, xây dựng đất
nước.
Truyền thống yêu nước - đánh giặc giữ nước, ý nghĩa trong xây dựng quân đội hiện
nay.
Mở đầu
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời với những chiến tích vẻ vang, rất đáng tự hào
của dân tộc đã tạo nên cho nhân dân ta truyền thống yêu nước cao quí. Truyền thống đó là
nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ và động viên mọi người Việt Nam vươn lên trong
sự nghiệp xây dựng đất nước và kháng chiến quyết liệt, bảo vệ Tổ quốc. Chính lịch sử đó,
đã là cái nền móng bền vững của truyền thống vinh quang “Trung với Đảng, hiếu với dân,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng” của quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhưng, không phải tự nhiên với thời gian và thử thách, truyền thống yêu nước Việt
Nam được hình thành, củng cố và phát huy, mà phải trãi qua một quá trình giáo dục chủ
động và bền bỉ, tổ tiên, ông cha chúng ta mới đạt được thành tựu to lớn đó để đến ngày
nay, Đảng và Nhà nước ta kế thừa và không ngừng phát triển ngang tầm với yêu cầu của
thời đại. Giáo dục truyền thống yêu nước là một nhiệm vụ cần được tiến hành thường
xuyên đối với mọi người, đặc biệt là đối với thanh niên. Vì điều dễ hiểu là, lịng u nước
của một con người khơng phải chờ khi có giặc ngoại xâm mới được huy động, phát động;
hơn nữa, chiến tranh dù có lâu dài cũng chỉ chiếm một khoảng thời gian ngắn trong lịch sử
của một dân tộc. Lòng yêu nước của một con người phải được biểu hiện trong suốt cuộc
đời, thời bình cũng như lúc có chiến tranh và cũng chỉ có được trên cơ sở tình u q
hương, đất nước, q trọng thành quả lao động vì đất nước mình, con người đó mới sẵn
sàng chiến đấu xả thân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, quê hương.
Giờ đây, sau nhiều năm chiến tranh cách mạng, giành và giữ nền độc lập, nhân dân ta
đang bắt tay xây dựng một đất nước ngày càng giàu đẹp, khắc phục nghèo nàn, lạc hậu để


hội nhập quốc tế và khu vực. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường, làm giàu chính đáng đang được khích lệ, đang động viên và lơi cuốn nhân dân
ta nói chung và thanh niên nói riêng vào sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Điều
đó khơng phải khơng có khả năng làm phai nhạt ý thức về truyền thống yêu nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, ở bên ngoài, các thế lực thù địch vẫn hàng ngày,
hàng giờ dùng mọi thủ đoạn chống phá bằng “diễn biến hồ bình”, kết hợp với bạo loạn
lật đổ… nhằm thực hiện mưu đồ đem tối, thâm độc của chúng. Do đó, nghiên cứu về
truyền thống yêu nước - đánh giặc giữ nước. Trên cơ sở đó giáo dục truyền thống u
nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc ln ln là một vấn đề quan trọng, là một sự nghiệp cơ bản và
mang tính thời sự cấp thiết. Trong phạm vi bài thu hoạch chỉ xin đề cập đến truyền thống
yêu nước - đánh giặc giữ nước, ý nghĩa trong xây dựng quân đội hiện nay.
1. Truyền thống yêu nước gắn với đánh giặc giữ nước trong lịch sử dân tộc.
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam, mỗi chúng ta đều nhận thấy rằng, trãi qua hàng ngàn
năm trường tồn và phát triển, tổ tiên chúng ta đã từng vượt qua biết bao khó khăn, thử

thách lớn lao trong dựng nước và giữ nước để làm nên những chiến công hiển hách, những
kỳ tích lịch sử, bảo vệ nền độc lập dân tộc và đưa đất nước phát triển đến ngày nay. Những
chiến cơng và sự tích anh hùng đó là nhân tố cơ bản tạo nên rất nhiều truyền thống tốt đẹp,
cũng là niềm tự hào chính đáng để dân tộc ta tiếp tục vươn lên, ngang tầm với thời đại, hoà
nhập nhanh vào thế giới văn minh. Một trong những truyền thống tốt đẹp đó, truyền thống
u nước là tình cảm tư tưởng cao quí nhất, thiêng liêng nhất, cội nguồn của trí tuệ sáng
tạo và lịng dũng cảm của con người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của cả
dân tộc. Truyền thống đó được biểu hiện ở hai mặt chủ yếu là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống không phải là một cái gì có sẵn, nãy sinh trong một thời và bất biến mà là
những chuẩn mực, qui tắc ứng xử xã hội của một cộng đồng lớn hay nhỏ, được lặp đi lặp lại
qua nhiều thế hệ sống trong một không gian ít thay đổi lớn và ăn sâu vào ý thức, tình cảm, tư
tưởng của con người, được dư luận xã hội gìn giữ và phát huy. Truyền thống yêu nước - đánh
giặc giữ nước của dân tộc ta cũng vậy, là một sản phẩm của lịch sử, khởi đầu với lòng yêu
nước.


Khi đề cập đến lòng yêu nước của dân tộc ta, Hồ Chủ tịch đã khẳng định trong báo
cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam tháng
2/1951: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và cướp nước”1. Toàn bộ lịch sử dân tộc ta đã chứng minh chân lý sáng
ngời đó, dân tộc ta đã trãi qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh kiên cường để dựng nước
và giữ nước. Mỗi trang sử của dân tộc đều nói lên ý chí tự lực, tự cường, kiên cường bất
khuất của nhân dân ta bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc của mỗi người dân
Việt Nam.
Từ bao đời nay, để trường tồn và phát triển, dân tộc ta đã phải kiên cường đấu tranh
với thiên nhiên, với kẻ thù xâm lược, để dựng nên một đất nước riêng biệt, giàu đẹp, có
nền văn hố giàu bản sắc, có cương giới rõ ràng như lời bài “thơ thần” thời Lý đã khẳng
định:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đặng hành khan thủ bại hư.”
Cũng chính vì tình cảm gắn bó với q hương đất nước, nơi chơn rau cắt rốn của
mình, nơi mà đơi tay, bộ óc, trái tim của mỗi người Việt Nam đã tạo nên những thành quả
lao động giàu đẹp và một nền văn hoá độc đáo nên nhân dân ta rất thiết tha yêu quê hương,
đất nước của mình, và đã khơng tiếc cơng sức, xương máu để xây dựng đất nước ta thành
một quốc gia riêng và dùng mọi sức mạnh để bảo vệ nó.
Tình cảm và ý thức đó chính là lịng u nước nồng nàn, sâu sắc của dân tộc Việt
Nam. Tinh thần yêu nước nồng nàn đó ln gắn liền với tinh thần yêu tự do, độc lập,
không chịu là nô lệ, không chịu mất nước, khơng chịu áp bức bóc lột. Tinh thân yêu nước
đó là một tinh thần yêu nước rất cao độ, có nội dung phong phú. Do đó, mà dân tộc ta ln

1

Hồ Chí Minh: Về dấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. QĐND, H. 1970, tr.239.


phát triển mạnh mẽ, yêu nước là phải tự lực, tự cường, phải kiên cường, bất khuất, đó là
cội nguồn của sức mạnh trong đánh giặc giữ nước.
Mấy ngàn năm trở lại đây, sự phát triển của lịch sử đã đặt đất nước ta, một nước đất
không rộng, người không đông trong điều kiện thường xuyên bị các thế lực phong kiến
hùng mạnh bên ngồi nhịm ngó. Cuộc sống độc lập, tự chủ thường xun bị đe doạ. Chính
trong hồn cảnh đó, lịng u nước rất cao đã làm cho dân tộc ta sớm có ý thức mạnh mẽ
về quyền làm chủ đất nước, quyền làm chủ vận mệnh của dân tộc mình, đó là tinh thần tự
lực, tự cường, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khất cao độ của dân tộc ta. Tinh thần ấy
được biểu hiện rất rõ trong trong tư tưởng của cha ông ta.
Trong đoạn mở đầu Bình Ngơ đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định:
“Như nước Đại Việt,

Đất văn hiến xưa,
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần, dựng nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đều chủ một phương.
Tuy cường nhược có lúc khác nhau,
Mà hào kiệt bao giờ cũng có…”2
Nhờ có tinh thần tự lực, tự cường rất cao như vậy nên dân tộc ta tuy thường xuyên bị
các thế lực lớn mạnh uy hiếp, xâm lược, nhưng lịng u nước khơng bao giờ bị mai một
mà trái lại vẫn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay. Khơng những thế cịn phát triển lên
tầm cao mới. Mặc dầu trong lịch sử dân tộc có những thời kỳ rất dài, đất nước ta bị nước
ngồi đặt ách thống trị nhưng rồi với lịng u nước nồng nàn dân tộc ta vẫn quật khởi
vùng lên, liên tục đấu tranh kiên quyết nên đã giành được độc lập và giữ vững nó trong
nhiều thế kỷ. Sau này đồng chí Lê Duẩn đã nhận xét: “Nhân dân ta vốn có tinh thần tự
lập, tự cường rất cao. Tinh thần ấy được giữ vững và phát triển qua hàng ngàn năm lịch
sử. Nó đã trở thành một truyền thống sâu sắc, một sức mạnh vật chất kỳ diệu của dân tộc
ta…”.
2

Hồng Minh: Bình Ngơ đại cáo, Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. QĐND, H. 1977, tr. 193.


Vì yêu nước nồng nàn nên trước hoạ ngoại xâm thì cầm vũ khí đứng lên đấu tranh là
con đường sống duy nhất đúng của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, dân tộc ta luôn luôn bị các
thế lực phong kiến và đế quốc lớn mạnh gấp nhiều lần uy hiếp và xâm lược, mưu toan xoá
bỏ quyền làm chủ đất nước, thủ tiêu nền độc lập dân tộc, mưu toan đồng hoá dân tộc, làm
tiêu tan tinh thần u nước, tình cảm dân tộc, mưu toan cướp bóc mọi tài nguyên, chiếm
đoạt những giá trị tinh thần của nhân dân ta.
Kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh đã làm cho tổ tiên ta nhận thức một cách rất
sâu sắc để trường tồn và phát triển, muốn thoát khỏi kiếp nơ lệ ngựa trâu, dân tộc ta khơng

cịn con đường nào khác là phải kiên cường bất khuất, phải cầm vũ khí vùng lên đấu tranh
một mất, một cịn với kẻ thù xâm lược. Đó là một vấn đề rất lớn, có tính chất sống cịn đối
với vận mệnh dân tộc, mà Nguyễn Trãi, đã tổng kết trong hai câu mở đầu của Bình Ngơ
đại cáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;
Quân điếu phạt trước là khử bạo…”3
Muốn “yên dân” thì trước hết phải dùng “quân điếu phạt” để “khử bạo”. Ngồi ra
khơng cịn con đường nào khác. Tất cả các hành vi đầu hàng, thoả hiệp, tin tưởng ở sự “vỗ
về của thượng quốc” cầu xin ở kẻ thù,… đều là phản bội, là ảo tưởng và đều dẫn đến mất
nước. Trong lời kêu gọi tướng sĩ trước khi xuất quân đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đã
nói: “… Từ đời nhà Hán đến nay, chúng (tức phong kiến phương Bắc) đã mấy phen cướp
bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng
muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hồng, Lê Đại
Hành, đời Ngun có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài khơng nỡ ngồi
nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một
trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc… Mọi việc lợi hại, được mất ấy, đều là
chuyện cũ rành rành của các triều đại trước…”.
Đó là kinh nghiệm, là truyền thống, là sự “lợi hại, được mất” của dân tộc ta, thực tiễn
lịch sử đã chứng minh rất rõ rệt. Sớm hiểu như vậy, dân tộc ta đã kiên cường anh dũng, đã
bao lần đứng lên cầm vũ khí kiên quyết đấu tranh đánh bại mọi kẻ thù đến xâm lược hoặc
3

Hoàng Minh: Bình Ngơ đại cáo, Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. QĐND, H. 1977, tr. 193.


đang thống trị, vơ luận đó là kẻ thù nào, dù là phong kiến phương Bắc, là đế chế Mông Cổ
khổng lồ và gần đây là các đế quốc, thực dân sừng sỏ trên thế giới như Pháp, Mỹ…
Khi cầm vũ khí đứng lên diệt giặc cứu nước, nhân dân ta hiểu rằng chiến tranh là vấn đề
mất còn, sống chết trước đối với mọi người và trong chiến tranh sẽ không thể tránh khỏi tổn
thất nhất định, nhưng là sự hy sinh cần thiết. Vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần

độc lập, tự cường rất cao và ý chí kiên cường bất khuất lại trải qua thực tiễn đấu tranh của bao
thế kỷ, nhân dân ta đã nhận thức sâu sắc rằng: trước quân thù hung bạo, trước nguy cơ mất
nước thì phải đặt sự mất, còn của đất nước, của cả dân tộc lên trên hết, phải biết chiến đấu vì
sự sống cịn của cả dân tộc, trong đó có sự sống cịn của chính bản thân, của gia đình mỗi
người dân. Cho nên nhân dân ta dám chịu mọi hy sinh, mọi tổn thất để giành lấy bằng được sự
sống của cả dân tộc. Tinh thần dám hy sinh, dám xả thân vì nước, thà chết chứ nhất định
không chịu làm nô lệ, “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã là động cơ thôi thúc mỗi người
dân ta trải qua bao thế kỷ cầm vũ khí xơng lên kiên quyết chiến đấu chống qn thù.
Nhưng khơng những chỉ có quyết đánh, mà muốn giành và giữ vững độc lập, dân tộc
ta còn phải quyết thắng một cách hết sức vẻ vang. Trong suốt cả quá trình lịch sử, “nền
độc lập của nước ta gắn liền với những chiến công oanh liệt của cha ông ta chống lại
nhiều đạo quân xâm lược rất mạnh…”. Các chiến thắng oanh liệt trên sông Cầu đời Lý; ở
Vạn Kiếp, Bạch Đằng đời Trần; ở Chi Lăng, Xương Giang đời Lê; ở Ngọc Hồi, Đống Đa
thời Tây Sơn, đều bắt nguồn từ lòng yêu nước và tinh thần anh hùng bất khuất của dân tộc
ta.
Từ xưa đến nay, nhân dân lao động là lực lượng lao động chủ yếu dựng nước và giữ
nước, đồng thời họ cũng là người bị bọn phong kiến, thực dân áp bức, bóc lột nhiều nhất.
Một mặt họ yêu quí tất cả những gì họ đã làm nên, mặt khác họ hiểu rằng nếu nước mất thì
nhà tan, nếu bị quân thù đến thống trị thì một cổ đơi trịng, họ sẽ là những người bị áp bức,
bóc lột cùng cực nhất. Cho nên họ coi sự nghiệp đánh giặc giữ nước là sự nghiệp của chính
mình, chứ khơng phải là sự nghiệp của giai cấp quí tộc, của những nhà cầm quyền phong
kiến. Họ đánh giặc là để bảo vệ sự sống cịn của chính bản thân, để bảo vệ những thành
quả lao động mà họ đã cần cù, vất vả làm nên.


Cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, nhân dân ta cũng anh hùng, bất
khuất trong đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Họ đã
từng đấu tranh chống bọn phong kiến áp bức bóc lột, đã từng đứng lên lật đổ các triều đại
thối nát. Và trước hoạ ngoại xâm, họ đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường xả thân vì
nước, sẵn sàng chịu dựng mọi hy sinh lớn lao nhất để đánh bại kẻ thù. Họ không những chỉ

giúp đỡ, phục vụ quân đội đánh giặc mà cịn tự tay cầm vũ khí đánh giặc với trăm phương,
ngàn kế của mình.
“…Đặc biệt nhân dân ta trước đây đã từng nêu cao tinh thần quật khởi trong các
cuộc khởi nghĩa lật đổ các triều đại phong kiến trong nước cũng như trong kháng chiến
giữ nước chống lại nạn ngoại xâm”4.
Nhưng trước đây nhân dân ta, mà chủ yếu là nơng dân chưa có ý thức đầy đủ về đấu
tranh giai cấp trong khi đứng lên đánh đổ phong kiến, họ cũng chưa hiểu là phải xoá bỏ chế
độ phong kiến, họ lật đổ triều đại phong kiến này rồi lại gây dựng nên một triều đại phong
kiến khác. Và tinh thần dân tộc của nhân dân không phải lúc nào cũng được phát huy đầy đủ
cũng có lúc nó bị lu mờ. Chỉ đến khi có Đảng, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, có
giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân
ta mới có thể phát huy cao độ tinh thần yêu nước và sức mạnh to lớn của mình trong đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Những trang sử vô cùng vẻ vang của dân tộc đã nói lên: dân tộc ta rất anh hùng.
Khơng có lịng yêu nước nồng nàn và chí khí anh hùng của nhân dân, uy vũ khơng thể
khuất phục, khó khăn khơng nản chí, dám hy sinh tất cả tính mạng, tài sản… để đánh giặc,
thì khơng sao có thể tạo nên được một sức mạnh vô địch để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược
có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh; không sao lập nên những chiến công hết sức oanh liệt,
những kỳ tích thần kỳ.
Khơng có nhân dân anh hùng thì dân tộc ta khơng sao có được những anh hùng kiệt
xuất mà đến nay sử sách vẫn lưu danh. Hai Bà Trưng, Bà Triệu đã phá bỏ những giàng
buộc của lễ giáo phong kiến đứng lên cầm quân đánh giặc, cứu nước tiêu biểu cho truyền
thống của phụ nữ Việt Nam “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ
4

Võ Nguyên Giáp: Nắm vững đường lối quân sự của Đảng, tiến lên giành những thắng lợi mới.


Độ, trước sức mạnh như vũ bão của quân Nguyên, đã không hề khiếp nhược, luôn luôn
nêu cao quyết tâm kháng chiến. Trần Bình Trọng thà chết khơng hàng giặc. Lê Lợi,

Nguyễn Trãi linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã trãi qua bao khó khăn nguy hiểm,
anh dũng chiến đấu, đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tới thắng lợi hồn tồn.
Nguyễn Huệ, người nơng dân áo vải anh hùng, đã đánh đổ bọn cầm quyền phong kiến thối
nát trong nước, đánh bại chiến tranh xâm lược của nhà Thanh, lập nên những chiến công
vô cùng hiển hách,…
Lịch sử dân tộc đã chỉ ra rằng, ngay từ thế kỷ XIII với ba lần chống Mông – Nguyên
xâm lược thắng lợi, truyền thống yêu nước, bảo vệ Tổ quốc thực sự đạt đến đỉnh cao. Khác
với thời Lý, lần này quân dân Đại Việt đã bước vào một cuộc thử lửa cực kỳ nguy hiểm vì
kẻ thù xâm lược vô cùng hung bạo, đi đến đâu đất bằng đến đó; cả nước Kim, cả nhà Tống
đều chịu diệt vong. Nhưng “biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng”, cả nước đứng
dậy cùng nhau chống giặc. Từ đây xuất hiện hai dòng yêu nước trong truyền thống dân
tộc: yêu nước của giai cấp thống trị và của nhân dân. Chính vì vậy, khi Tổ quốc lâm nguy,
giờ cứu nước đã đến, cả nước cùng đứng lên và đoàn kết lại thành một bức tường thành
vững chắc chặn đứng bước tiến của quân thù. Lời hịch thống thiết của Trần Hưng Đạo:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ
căm tức chưa xả thịt lột ra, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lịng” 5…thực sự tiêu biểu cho
tình cảm sâu sắc đối với đất nước, tổ tiên và phẩm giá của con người tự do. Lịng u nước
đó được biểu hiện trong quyết tâm, tiêu diệt kẻ thù, cứu nước của quân dân nhà Trần. Quả
vậy, vua Trần Thái Tông đã tự làm tướng đốc chiến, xông lên trước trận tiền, làm gương
cho tướng sĩ; Tể tướng Trần Quang Khải chỉ huy quân đánh bại giặc ở bến Chương
Dương; Chiêu văn vương Trần Nhật Duật chỉ huy quân đánh tan quân Nguyên ở cửa Hàm
Tử; thiếu niên như văn hầu Trần Quốc Toản, mới 15 tuổi khơng được dự hội nghị Bình
Than bàn kế sách đánh giặc, giận bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết, về quê,
mộ quân luyện tập võ nghệ, giương cao lá cờ nghĩa “Phá cường địch, báo hồng ân”.
Thực là hùng khí nổi bật niềm tự hào của một dân tộc anh hùng. Những hành động cao q
5

Hồng Minh: Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. QĐND, H.1977, tr.187.



đậm phẩm chất anh hùng, giàu lịng u nước đó chính là nền móng vững chắc của niềm
tin vào sự tất thắng của dân tộc mà thái sư Trần Thủ Độ đã nói với vua Trần Thái Tơng:
“Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo !”; Hoặc Tiết chế Trần Hưng Đạo can
gián vua Trần Thái Tông: “Xin Bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hàng”. Niềm tin vào sự
tất thắng của những người lãnh đạo cuộc kháng chiến dựa chủ yếu vào truyền thống yêu
nước và quyết tâm giữ vững nền độc lập của nhân dân. Chính cảm nhận được tinh thần và
ý chí sắt đá bảo vệ Tổ quốc, quê hương của nhân dân mà Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh
nhà Trần đã sáng suốt nhìn nhận thế mạnh, thế yếu của kẻ thù, từ đó sáng tạo ra chiến lược
và chiến thuật để tiêu diệt chúng và đè bẹp hoàn toàn ý đồ xâm lược của kẻ thù.
Truyền thống yêu nước, bảo vệ Tổ quốc được phát huy cao độ đã góp phần tơ điểm
thêm truyền thống đồn kết dân tộc đã hình thành trong lịch sử. Chính truyền thống u
nước là hạt nhân tinh thần của khối đoàn kết toàn dân, và đến lượt mình, đồn kết trên
dưới một lịng vì nước, chống giặc đã trở thành một động lực to lớn thúc đẩy cuộc kháng
chiến đến thắng lợi huy hoàng. Như Lênin nói: “Sự tự nguyện tự giác đặt lợi ích cá nhân
dưới lợi ích chung của nhân dân, của Tổ quốc và của loài người là cơ sở đạo đức của chủ
nghĩa anh hùng”6. Những người con của đất Việt thời Trần kể trên thực sự đã hợp lại thành
một thế hệ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Cũng cần nhận thức rằng: quyết định vận mệnh dân tộc, làm nên lịch sử phải là cả
một dân tộc anh hùng, một tập thể anh hùng. Đồng thời, luôn phải ghi nhớ công lao to lớn
của các anh hùng dân tộc. Họ trở thành anh hùng vì họ đã hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, vì có dân ủng hộ, vì biết dựa vào dân và chính có nhân dân anh hùng
họ mới làm nên được những kỳ tích anh hùng.
Tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, kiên cường bất khuất là một truyền
thống lâu đời hết sức tốt đẹp và q báu của dân tộc ta. Đó là cội nguồn của sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, đứng lên cầm vũ khí kiên quyết đánh đến cùng, chống mọi kẻ thù; là con
đường duy nhất đúng đắn cho sự trường tồn của dân tộc. Chúng ta vô cùng tự hào và rất trân
trọng truyền thống yêu nước - đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.

6


V.I. Lênin: Toàn tập, bản Tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, tập 29, tr.389-390.


Như vậy, tinh thần u nước khơng phải là tình cảm tự nhiên, nảy sinh cùng với sự
xuất hiện của con người. Tinh thần yêu nước là sản phẩm của một quá trình lịch sử xã hội
của một cộng đồng người nhất định. Nó bắt nguồn từ tình cảm tự nhiên sâu sắc của mỗi
con người đối với những người ruột thịt, đối với ngơi nhà, làng xóm, q hương nơi mà họ
đã sinh ra và lớn lên; đối với mảnh đất mà họ đã đổ biết bao mồi hôi, nước mắt để thuần
hố và từ đó kiếm được “bát cơm, manh áo”, duy trì lâu dài cuộc sống của mình và các
thế hệ nối tiếp, đối với những sinh hoạt tinh thần mà họ đã cùng những người đồng hương
sáng tạo nên và chung vui sau những giờ lao động vất vả, mệt nhọc. Những tình cảm đó đã
cơ đúc lại tạo nên ở con người họ sự gắn bó, u thương mãnh đất q hương của mình và
bên cạnh đó là ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển
quê hương mình. Mà cái q hương đó, trước đây chỉ là làng xóm, nơi “chơn nhau, cắt
rốn” cụ thể của mỗi con người, nay mở rộng ra thành đất nước, nơi sinh sống của những
người cùng chung số phận, cùng một tiếng nói và một nền văn hố. Tinh thần u nước
khơng chỉ là tình cảm đối với cộng đồng người cùng số phận tự nguyện chung sống với
nhau mà cịn là tình cảm gắn bó với lãnh thổ, nơi sinh sống của cái cộng đồng đó và ngược
lại, khơng chỉ là tình cảm, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với lãnh thổ q hương, đất nước của
mình mà cịn là tình cảm, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với những con người sống trên đất
nước đó. Tuy nhiên, để có được tinh thần yêu nước sâu sắc cũng như để có được truyền
thống yêu nước mang bản sắc dân tộc thì cần phải có một sự nối tiếp kiên trì của nhiều thế
hệ, truyền lại và kế thừa, phát triển qua lớp lớp thế hệ của mỗi cồng đồng từ thế hệ này
sang thế hệ khác theo bề dày lịch sử.
Đặc sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
"Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là truyền thống q báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh).

Thực đúng như vậy, nghiên cứu quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của dân
tộc ta, có thể có đầy đủ cơ sở để đi tới một nhận định có tính khái qt: Chủ nghĩa yêu
nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản
chất Việt Nam được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ ở lĩnh vực nào. Yêu
nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, là đạo lý của dân


tộc Việt Nam, một truyền thông sâu bền, cao đẹp, khơng cịn dừng lại ở trình độ một nhận
thức, một tình cảm, mà đã trở thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần vơ cùng mạnh
mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn sàng đứng lên bảo
vệ Tổ quốc khi có nguy cơ xâm lược từ ngồi tới, hay kiên trì góp hết tinh thần và sức lực
vào sự nghiệp dựng nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tuyệt nhiên không phải là một cái gì trừu tượng, mà là một
sản phẩm đích thực của chính lịch sử Việt Nam, nó bắt nguồn từ những điều kiện cụ thể
của Việt Nam, về hồn cảnh địa lý, về khí hậu, về đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội, về
lịch sử. Cũng cần phải thấy yêu nước là một tình cảm và tư tưởng phổ biến mà dân tộc nào
cũng có. Duy chỉ khác nhau là ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì tư tưởng và tình cảm yêu
nước bị hình thành và phát triển trong những điều kiện không giống nhau, sớm muộn, đậm
nhạt khác nhau mà thôi.
Liên hệ với nước Việt Nam chúng ta, về hoàn cảnh địa lý, nước ta ở vào một vị trí vơ cùng
quan trọng trên báo đảo Đông Dương, vào nơi tiếp xúc, ngã tư đường của vùng Đông Nam
Á cả về tự nhiên và văn hóa, ở góc cực đơng nam của đại lục châu Á, mặt nhìn ra biển
Đơng nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Là bao lơn của Thái Bình Dương, trên
một chiều dài 3.300km, Việt Nam tuy được nối liền với lục địa bằng một mạng lưới đường
giao thông thủy bộ thuận lợi, từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, nhưng cũng tạo thành
những hành lang thuận lợi cho việc thực hiện tham vọng bành trướng của các thế lực đen
tối từ ngồi tới.
Về mặt khí hậu, Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, phù hợp
với nghề trồng lúa nước, nhưng thường xuyên phải chống chọi hàng năm với lũ lụt, bão tố,
hạn hán... Cũng là một vùng đất thống nhất trong đa dạng trên rừng, dưới biển, nằm sâu

dưới đất đều chứa đựng nhiều tài nguyên phong phú và quý giá (ngọc trai, ngà voi, sừng
tê, khoáng sản...) nên từ rất sớm đã phải đương đầu với các kẻ thù đầy tham vọng từ các
nơi tới.
Rõ ràng trong bối cảnh đó, nhân dân Việt Nam từ rất sớm đã phải đứng trong vị thế vừa
dựng nước vừa giữ nước. Lịch sử Việt Nam bắt đầu bằng một sự kiện có ý nghĩa vơ cùng
trọng đại là sự ra đời rất sớm của Nhà nước Văn Lang trên cơ sở hợp nhất tự nguyện của
người Việt cổ (Lạc Việt và Âu Việt): "Vua Hùng đã có cơng dựng nước”, và nước Việt
ngay từ lúc mới ra đời đã là một quốc gia có cương vực ổn định với một nền văn hóa rực
rỡ, với sản phẩm trống đồng. Có thể khẳng định rằng sự xuất hiện sớm của Nhà nước Văn
Lang đã tạo điều kiện rất cơ bản cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hình thành sớm.
Nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam là nước Âu Lạc (thống nhất giữa Tây Âu và Lạc
Việt) với người thủ lĩnh kiệt hiệt là Thục Phán để chống lại sự xâm lược của nhà Tần từ
phương Bắc tràn xuống, với sự kiện này đã nói rõ một đặc điểm của lịch sử Việt Nam: bắt
đầu dựng nước cũng là bắt đầu giữ nước! Tư thế chung của dân tộc ta trong lịch sử là phải
luôn luôn vừa lao động xây dựng đất nước , vừa chiến đấu bảo vệ đất nước dựng nước đi
đôi với giữ nước là một đặc điểm bao trùm, một quy luật cơ bản của lịch sử Việt Nam.


Đến cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, vào cuối thời Văn Lang (và các vua Hùng) sang
đầu thời Âu Lạc (và vua Thục) dân tộc Việt Nam đã đi vào chính sử. Và cơng cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta đã được thực hiện quyết liệt và có kết quả. Vào cuối đời
vua Hùng (thế kỷ 3 trước Công nguyên) đế chế Tần (Tần Thủy Hồng) với âm mưu bành
trướng xuống phía Nam đã cử 50 vạn qn xuống phía Nam để bình Bách Việt. Nhưng
chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của người Việt (cư dân Văn Lang – Âu Lạc) do
Thục Phán đứng đầu đánh bại sau một cuộc kháng chiến kéo dài đến 6-7 năm trong những
điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ bề (từ 214 trước CN – 209 trước CN).
Thục Phán là một thủ lĩnh người Âu Lạc đã cùng các thủ lĩnh người Văn Lang và quân dân
Việt tổ chức cuộc chiến đấu, bãi chiến trường là miền rừng núi Việt Bắc và miền trung du
miền Đông Bắc ngày nay. Cuối cùng nhà Tần đã phải ra lệnh bãi binh, rút hết quân ra khỏi
phạm vi đất nước người Việt, cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ đầu tiên của tổ tiên ta đã

giành được toàn thắng. Nước Âu Lạc là cao điểm cuối cùng của kỷ nguyên bắt đầu dựng
nước và giữ nước. Sau chiến thắng oanh liệt đó, (đặc biệt là qua việc đoàn kết chiến đấu),
tinh thần cố kết dân tộc trong nội bộ cộng đồng người Việt càng được củng cố và tăng
cường.
Sau chiến thắng quân Tần (khoảng 208 trước CN) nhân uy tín sẵn có Thục Phán đã xưng là
An Dương Vương đổi quốc hiệu là Âu Lạc, phản ánh sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa hai
thành phần Việt tộc (Âu và Lạc) trong một chỉnh thể quốc gia, một kết cấu chính trị – xã
hội cao hơn. Âu Lạc là một thể thống nhất Việt tộc có ý nghĩa là vừa thống nhất Dân tộc,
vừa thống nhất Quốc gia) cao hơn Văn Lang. Thục Phán (An Dương Vương) quyết định
dời đơ từ Việt Trì (Phú Thọ) về ngã ba sông Đuống – sông Hồng là vùng đất Cổ Loa
(huyện Đông Anh) xây thành, đánh dấu sự phát đạt của nền kinh tế vùng đồng bằng (cả về
mật độ dân số, về trình độ nơng nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự thành lập
nước Âu Lạc là bước phát triển kế tục nước Văn Lang với hai thành tựu nổi bật về kỹ thuật
quốc phòng (đắp thành Cổ Loa và cải tiến nỏ và tên nỏ)đáp ứng một nhu cầu bức xức
chống ngoại xâm từ phía Bắc tới. Thời đại Văn Lang và Âu Lạc là thời đại văn minh Sông
Hồng, thời đại các Vua Hùng và Vua Thục, một thời đại vô cùng quan trọng của lịch sử
Việt Nam. Đó là thời kỳ hình thành dân tộc với nền tảng là một đời sống kinh tế chung cho
tồn quốc, là thời kỳ hình thành Nhà nước đầu tiên. Đó cũng là thời đại hình thành một
nền văn hóa dân tộc với một bản sắc độc đáo phi Hoa, phi Ấn với một phong cách Đông
Sơn rất đặc trưng, rất điển hình và có ảnh hưởng lớn đến tồn vùng Đơng Nam Á. Cộng
đồng dân tộc Việt xây dựng từ đó một lối sống riêng, có một bản lĩnh vững vàng, và trên
nền tảng đó đã xây dựng được một xã hội, một lối sống Việt Nam, một truyền thống Việt
Nam. Đó cũng là thời kỳ hình thành ý thức dân tộc được tổng hợp từ những tình cảm gia
đình, họ hàng, quan hệ đồng bào, tình làng nghĩa nước... để trở thành một lịng u nước
Việt Nam bất khả chiến bại, một ý thức về quyền sở hữu chung của dân tộc, về địa bàn đất
đai, đất nước, lãnh thổ để trên nền tảng đó ý thức hệ của công cuộc giữ nước bắt đầu. Đó là
kỷ nguyên bắt đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam, mở đầu truyền thống dựng nước và
giữ nước oai hùng của dân tộc, từ đó được nâng lên trình độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Nhưng vào năm 183 trước CN, Triệu Đà lợi dụng tình hình phương Bắc rối loạn để xưng
đế, lập nước Nam Việt, rồi đưa quân xuống phía Nam chiếm nước Âu Lạc, mở đầu một



thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm, là một thời kỳ thử thách lớn lao đối với sức sống
của dân tộc với âm mưu đồng hóa tồn diện và triệt để của kẻ thù. Nhưng dân tộc Việt
Nam đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để bảo tồn cuộc sống,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quyết giành lại Độc lập dân tộc. Các cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh Hán, Triệu Thị Trinh chống Ngô, Lý Bí chống Lương
dựng nên nước Vạn Xuân, Triệu Quang Phục đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, nhưng
đến đầu năm 603 sau CN lại bị phong kiến phương Bắc đơ hộ. Bất chấp tình hình bất lợi,
phong trào khởi nghĩa vẫn bùng nổ liên tục, trên khắp mọi miền đất nước. Đến đầu thế kỷ
10 (905), Khúc Thừa Dụ đánh thắng quân phong kiến nước ngoài, xây dựng một chính
quyền tự chủ. Năm 930, nhà Nam Hán sang xâm chiếm, Dương Đình Nghệ lại đánh bại
chúng giành lại quyền tự chủ. Đến cuối năm 938 Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng kết thúc oanh liệt thời kỳ mất nước kéo dài hơn 1.000 năm. Một kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc bắt đầu. Ngô Quyền lên ngơi vua, đóng đơ ở Cổ Loa,
đánh dấu một bước phát triển mới của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Sau khi Ngơ Quyền mất, chính quyền trung ương bị tan rã, các thế lực phong kiến chia
nhau hùng cứ các phương và tranh giành nhau quyết liệt, tạo nên thế 12 sứ quân cát cứ các
địa phương. Yêu cầu cấp thiết của lịch sử lúc đó là phải khôi phục sự thống nhất của nước
nhà. Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi Hồng đế (năm 968), đóng đơ ở Hoa Lư, lập quốc hiệu là Đại
Cồ Việt. Từ đó, trải qua các triều Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, suốt trong năm thế kỷ
(từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15), quốc gia thống nhất ngày càng được củng cố, công cuộc xây
dựng đất nước được tiến hành trên quy mơ lớn, đặt nền tảng vững chắc và tồn diện cho sự
phát triển của dân tộc và của Nhà nước phong kiến độc lập, việc dựng nước gắn liền với
giữ nước. Nhưng cũng trong năm thế kỷ đó, khơng có thế kỷ nào dân tộc ta khơng phải
chống ngoại xâm, thế kỷ 13 phải tới ba lần chống Nguyên – Mông. Đến thế kỷ 15, nhà
Trần đổ nát và bị nhà Hồ thay thế. Nhưng cuộc kháng chiến do Hồ Q Ly đứng đầu đã
nhanh chóng thất bại vì không phát huy được sức mạnh vĩ đại của dân tộc để chống giặc
giữ nước. Phong trào yêu nước dâng lên mạnh mẽ, lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi thành phần,
phát triển rộng khắp dần quy tụ vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu.

Sau 10 năm chiến đấu (1418-1428), với thắng lợi của cuộc kháng chiến, nền độc lập dân
tộc được khôi phục và giữ vững, âm mưu xâm lược của kẻ thù bị đánh bại hồn tồn. Tình
hình đó tạo ra những điều kiện rất thuận lợi để củng cố và xây dựng đất nước. Nhưng đến
thế kỷ 16, nhân triều Lê suy yếu, các phe phái phong kiến (Mạc, Trịnh, rồi Trịnh –
Nguyễn) xung đột nhau. Đất nước bị chia cắt trên 200 năm. Trong sự phát triển như vũ bão
của nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18, dưới
sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, dân tộc ta đã đánh thắng cả thù trong
và giặc ngoài (1789). Sau chiến thắng, Vua Quang Trung cương quyết tiến hành xây dựng
đất nước. Công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế của Quang Trung đang mang lại những
kết quả bước đầu đầy hứa hẹn thì ơng đã bị bạo bệnh và mất đột ngột để tới năm 1802 chế
độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn lại được thiết lập trên cả nước.
Thời kỳ này chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng suy vong.
Phong trào nông dân khởi nghĩa tiếp tục lan tràn, chỉ trong vòng nửa thế kỷ đầu của triều


×