Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tâm lý học LIỆU PHÁP THÂN CHỦ TRỌNG tâm TRONG tâm lý học TRỊ LIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.44 KB, 48 trang )

LIỆU PHÁP THÂN CHỦ TRỌNG TÂM

Liệu pháp Thân chủ trọng tâm (client-centered psychotherapy), hoặc theo cách gọi
tên với nghĩa rộng hơn như hiện nay là Nhân vị trọng tâm (person-centered
psychotherapy), là thuật ngữ được chọn để gọi tên cho một nhóm những phương
pháp trị liệu tâm lý dựa trên quan điểm lý thuyết về bản chất con người và các tương
tác xã hội được phát triển bởi Carl Rogers vào hai thập niên 1940 và 1950 (Brodley;
1988). Rogers là người đầu tiên dùng tên gọi ấy để chỉ phương pháp trị liệu của
mình. Sau đó, nhiều tác giả khác đã phát triển thêm các “phân nhánh” cho lọai liệu
pháp này; trong đó phải kể đến Eugene Gendlin với “liệu pháp kinh nghiệm”
(experiential psychotherapy; 1979) và các tác giả Leslie Greenberg, Laura Rice,
Robert Eliott với “liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm” (process-eperiential
psychotherapy; 1993).
Lúc còn trẻ, C. Rogers đã dành phần lớn thời gian cho cuộc sống ở nông trại, nơi mà
ông đặc biệt quan tâm đến công việc nghiên cứu các quá trình kích thích tăng trưởng
cây trồng và làm các thực nghiệm về nơng nghiệp. Cơng việc kích thích tăng trưởng
và kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu đã giúp hình thành những thái độ trong
cuộc sống cũng như sau đó trở thành những đặc trưng cơ bản trong quan điểm làm
việc của Rogers.
Về sau, khi Rogers làm công việc của một chuyên viên tham vấn tại một trung tâm
hướng dẫn trẻ em (child guidance clinic), ông đã tiếp xúc với các tư tưởng của Otto
Rank – người đã có ảnh hưởng đến Rogers về một số quan điểm như: nhấn mạnh vào
tiềm năng sáng tạo của con người, việc trị liệu có mục đích nhắm đến sự chấp nhận
bản ngã như là một thực thể độc đáo và có khả năng tự lực, lòng tin vào thân chủ như
là nhân vật trung tâm của tiến trình trị liệu, thân chủ là nhà trị liệu của chính mình, và
việc trị liệu phải nhấn mạnh vào các trải nghiệm đang xảy ra trong hiện tại hơn là
những gì đã xảy ra trong quá khứ... (Raskin & Rogers; 1989).


Rogers cũng chịu ảnh hưởng bởi trào lưu tư tưởng của Roosevelt vào thập niên 1930,
từ đó hình thành nên quan điểm lạc quan của Rogers về bản chất con người và niềm


tin rằng con người cần phải được đối xử một cách tơn trọng và có lý lẽ ngay cả khi
hành vi của họ không phải lúc nào cũng hợp lý.
Tuy nhiên, đối với Rogers, ảnh hưởng lớn nhất mà ơng có được là từ những trải
nghiệm của những thân chủ mà ông đã tiếp xúc và làm việc. Theo Rogers, chính thân
chủ là người biết rõ điều đau khổ của họ là gì, hướng đi của họ sẽ về đâu và vấn đề
nào là cấp thiết.
Vào thập niên 1940, Rogers gọi liệu pháp của mình là “liệu pháp khơng hướng dẫn
(non-directive therapy). Ơng nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu là
không hướng dẫn thân chủ của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu khơng khí
cởi mở và khơng can thiệp. Vào thập niên 1950, Rogers bắt đầu nhấn mạnh đến “sự
thấu cảm” (empathic understanding) và sang thập niên 1960, những tính cách của nhà
trị liệu được Rogers nhấn mạnh là “sự hài hịa” (congruence) và “tính trung thực”
(genuineness).
Về sau, Rogers áp dụng quan điểm của mình một cách sâu rộng hơn ra ngồi các mơi
trường khác khơng thuộc tâm lý trị liệu và làm việc với các nhóm người khơng phải
là thân chủ... Quan điểm thân chủ trọng tâm ảnh hưởng sang cả ngành giáo dục ở
Hoa Kỳ, và điều đó khiến Rogers đặt lại tên cho phương pháp của mình là “nhân vị
trọng tâm” (person-centred) để phản ảnh sự chuyển đổi đối tượng của phương pháp
không chỉ bao gồm những thân chủ trong tâm lý trị liệu mà còn nhắm đến bản chất
con người và các mối tương tác xã hội nói chung.
Liệu pháp thân chủ trọng tâm có thể áp dụng cho rất nhiều loại thân chủ/bệnh nhân ở
nhiều lọai cơ sở trị liệu khác nhau. Carl Rogers khởi đầu việc trị liệu của mình như
một nhà trị liệu theo định hướng phân tâm tại Trung tâm Hướng dẫn Trẻ em ở New
York, nơi ông làm việc với những trẻ em thiệt thịi và gia đình của chúng. Sau đó,
ơng làm việc tại Trung tâm Tư vấn thuộc Đại học Chicago, phục vụ cho các đối
tượng trong cộng đồng cũng như cho các sinh viên đại học.


Những nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm có thể làm việc với thân chủ
có đủ mọi loại vấn đề như trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách và cả các bệnh nhân

loạn thần.
Theo Smith (1982), Carl Rogers được xếp hạng là nhà tâm lý trị liệu có tầm ảnh
hưởng sâu rộng nhất, vượt trên cả ảnh hưởng của Sigmund Freud, mặc dù trong thực
tế chỉ có khoảng 9% trong tổng số các nhà trị liệu tự nhận mình theo trường phái thân
chủ trọng tâm. Mặt khác, hầu hết các nhà trị liệu hiện nay có xu hướng đi theo quan
điểm chiết trung (eclectic), và khỏang 1 phần 3 trong số này phối hợp liệu pháp thân
chủ trọng tâm với các lọai liệu pháp nhân văn khác theo nhiều định hướng khác nhau
(Norcross & Prochaska; 1988).
Khái niệm về nhân cách - Nhân cách như một tiến trình
Liệu nhân cách con người có tính kiên định, vững chắc, khó thay đổi như cấu trúc
của một tịa nhà, hay là nó có thể thay đổi như các giai điệu của một ca khúc?
Học thuyết thân chủ trọng tâm cho rằng nhân cách con người có tính chất giống như
các giai điệu của một bản nhạc mà người ta có thể “chơi” theo nhiều kiểu khác nhau,
vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời mình. Điều đó có nghĩa là: con người
những “cấu trúc đang diễn tiến” (structure-in-process). Trường phái thân chủ trọng
tâm không phủ nhận các cấu trúc, ví dụ các nét tính cách vẫn có thể tồn tại, và cũng
khơng phủ nhận tính hằng định liên tục của nhân cách theo thời gian. Nhưng điểu
quan trọng là các cấu trúc nhân cách vẫn liên tục thay đổi dù đơi lúc chúng có vẻ bất
biến và khơng đổi. Có thể so sánh sự thay đổi ấy với sự thay đổi trong hình thể của
các cấu trúc trong tự nhiên như núi, sơng, bờ biển... Trong khi nhìn bề ngồi các cấu
trúc ấy khơng thay đổi nhưng các hiện tượng trong tự nhiên lại liên tục làm biến đổi
chúng theo kiểu bồi đắp thêm hoặc hủy hoại, bào mịn...
Caspi và cs. nhận thấy những người có tính cách lệ thuộc khi cịn thơ bé vẫn có thể
giữ lại đơi nét những tính cách ấy khi lớn lên nhưng có thể biểu hiện chúng dưới
những hình thức trưởng thành hơn như nương tựa lẫn nhau và duy trì những mối
quan hệ hỗ trợ. Bản thân các học thuyết của Freud hay Rogers cũng là những “cấu


trúc đang diễn tiến”: các quan điểm của họ cũng liên tục thay đổi và tăng trưởng dù
cả hai lý thuyết đều có những quan điểm nền tảng khá kiên định.

Có thể nói quan điểm xem nhân cách như một tiến trình nhấn mạnh: các nét nhân
cách (personality traits) khơng phải là những cấu trúc kiên định mà được xem là các
“chiến lược hành động” (action strategies) (Cantor; 1990) và nói chung, trường phái
thân chủ trọng tâm xem con người như một tiến trình sống.
Cuộc sống qua từng thời khắc (moment-by-moment living)
Trong khi các tác giả của “Giả thuyết tái hiện” (reappearance hypothesis) cho rằng
“con người học tập và bảo lưu những khái niệm, hình ảnh, ký ức, và rồi hành động,
đơn giản chỉ là tái hoạt lại những nhu cầu và địi hỏi, chính xác như những bản sao
của các sự kiện đã xảy ra trước đó” (Anderson, 1974); trường phái thân chủ trọng
tâm cho rằng thực tế xảy ra trái ngược lại: “Hành vi của các loài sinh vật, mỗi cái đều
xảy ra lần đầu tiên... và không có gì rõ ràng cho thấy rằng có một hành vi nào đó
được lập lại vào lần thứ hai. Chúng ta liên tục làm nên những điều mới mẻ... Khi xem
xét kỹ, chúng ta thấy những hành vi có vẻ như được lập lại thực sự lại thể hiện những
sự khác lạ dưới một dạng thức nào đó... Bạn khơng bao giờ chải răng hai lần hoàn
toàn giống nhau.” (Epstein, 1991).
Tiềm năng học tập (Learning potential)
Để có chức năng sống đầy đủ, con người phải học tập liên tục qua từng giây phút
một. Con người tiếp nhận các phản hồi từ mơi trường sống, rồi điều chỉnh ứng xử của
mình khi tương tác với những người khác xung quanh. Con người sống tốt nhất khi
họ hành động một cách thông minh, và liệu pháp thân chủ trọng tâm luôn nhấn mạnh
đến việc tăng cường khả năng suy nghĩ rõ ràng và thông minh của thân chủ (Van
Balen, 1990; Zimring, 1990). Việc học hỏi thường xuyên sẽ giúp bổ sung thêm các
chi tiết và làm mới lại những niềm tin, các khái niệm, các sơ cấu, các cấu trúc và vận
hành các nét nhân cách. Theo thời gian sự học tập giúp cho sự tiến triển dần dần các
thuộc tính và, đến một lúc nào đó, dẫn đến sự biến đổi đang kể các đặc trưng của một
con người.


Tiềm năng tăng trưởng (Growth potential)
Carl Rogers lúc đầu nói đến “khuynh hướng hiện thực hóa” (actualizing tendency) ở

các lịai sinh vật và về sau ông mở rộng ý tưởng này bằng việc cho rằng: khuynh
hướng hiện thực hóa chỉ là hình thức cá biệt của một khuynh hướng được định hình
rộng lớn hơn của cả vũ trụ, được tìm thấy ở ở những sinh vật lẫn những vật thể vơ tri,
đó khuynh hướng nhắm đạt đến một trật tự tốt hơn, phức tạp hơn và có tương quan
gắn kết hơn. Tiến trình này lại bao gồm hai tiến trình nhỏ hơn là thống hợp
(integration) và biệt hóa (differentiation).
Ở mức độ cá nhân một con người, khuynh hướng hiện thực hóa nhắm đến phát triển
cá nhân đó bằng cách tạo lập một cấu trúc sống vừa thống hợp hơn vừa biệt hóa hơn.
Điều nhấn mạnh ở đây khơng phải là việc con người về cơ bản là tốt hay xấu, mà là
con người về cơ bản có một “tiềm năng thay đổi” (Shlien & Levant, 1984). Nghiên
cứu trên những trẻ em lớn lên và sống sót trong những hịan cảnh sống bất lợi cho
thấy sự phát triển tâm lý của con người có những khả năng tự bảo vệ và tự điều chỉnh
rất cao (Masten, Best, Garmazy, 1990).
Khả năng sáng tạo (creativity)
Để sống đầy đủ, con người phải sáng tạo trong cuộc sống hằng ngày, bởi mỗi tình
huống khi xảy ra đều có sự khác biệt đơi chút so với trước đó, và hiện tại ln đặt ra
những thách thức cho sự vận dụng một cách sáng tạo những gì đã học vào những
hồn cảnh sống mới. Trong q trình sống, con người thường xuyên khám phá và
phát hiện những cách thức mới để tồn tại và ứng xử, dù rằng phần nhiều các cách
thức mới này chỉ thể hiện những điều chỉnh sáng tạo tương đối nhỏ.
Khả năng định hướng tương lai (future orientation)
Một người luôn khám phá và học hỏi sẽ có thể tìm được sự định hướng cho tương lai
và những khả năng còn để ngỏ của nó. Con người là sinh vật biết nhìn đến phía trước
do những hành vi của con người được hướng dẫn bởi những gì mà họ tưởng tượng sẽ
xảy ra trong những thời khắc sau đó hơn là bởi những gì mà họ thấy được trong hiện


tại (Markus & Nurius, 1987). Chính bằng cách tiên liệu được những gì sẽ xảy đến,
bằng cách nào việc ấy xảy ra và bản thân mình có khả năng gì để đạt đến việc ấy, mà
con người xác định được hành vi của mình. Shlien (1988) đã khẳng định rằng:

“Tương lai quan trọng hơn quá khứ trong việc xác định hiện tại”. Quá khứ ảnh hưởng
đến chúng ta vì chúng ta sử dụng kinh nghiệm từ quá khứ để tiên liệu cho tương lai,
chứ khơng phải vì q khứ “kết dây nối” vào cuộc sống chúng ta rồi máy móc điều
khiển hành vi của chúng ta.
Tương tác (interaction)
Con người có bản chất tương tác với nhau. Con người luôn luôn là “con-người-trongbối-cảnh”. Hành vi của một người luôn xuất phát cả từ nhân cách của người ấy lẫn từ
trong những mối quan hệ trong cuộc sống của người ấy. Môi trường sống của một
con người bao gồm gia đình và các quan hệ liên cá nhân khác như hàng xóm, các
mạng lưới hỗ trợ xã hội, các thông số và giá trị về văn hóa. Ngịai ra cịn có các quan
hệ trong nghề nghiệp, kinh tế, tơn giáo, chính trị... Có một giao diện động và liên tục
giữa cái ngã và các tình huống bên ngịai. Chúng ta tự “định cấu hình” cho bản thân
để phần nào đó đáp ứng lại với những gì được cho là quan trọng và đang hiện diện
trong thời khắc hiện tại. Vì thế, một “bộ mặt” nào đó của chúng ta sẽ có thể xuất hiện
trong tình huống này và một “bộ mặt” khác lại xuất hiện trong một tình huống khác.
Đây là quan điểm về “trường” (field) trong hành vi con người và cũng tương thích
với quan điểm hệ thống.
Cái ngã trong bối cảnh, Tính tự chủ và Chủ nghĩa cá nhân (Self-in-context,
Autonomy & Individualization)
Đối với Carl Rogers, việc đạt đến sự tự chủ là một mục đích rất quan trọng trong sự
phát triển của con người, cũng như đối với hầu hết các học thuyết về nhân cách ở
phương Tây. Rogers cho rằng một con người có chức năng sống đầy đủ là người có
khả năng tự kiểm sốt và hành động dựa trên các giá trị mà bản thân đã lựa chọn chứ
không cứng nhắc tuân thủ theo các uy lực từ bên ngoài.


Tuy nhiên, một số các tác giả thuộc trường phái thân chủ trọng tâm ngày nay đã phê
phán việc Rogers đã quá nhấn mạnh đến sự tự chủ và chủ nghĩa cá nhân, và cả kiểu
tư duy như thế ở phương Tây nói chung (Holstock, 1990; O’Hara, 1992). Họ cho
rằng các giá trị này có tính đặc hiệu của nền văn hóa phương Tây, thậm chí cịn đặc
trưng nhiều cho nam giới, và các tác giả này nhấn mạnh hơn đến một khái niệm khác

(cũng rất phương Tây) đó là khái niệm “đồng phụ thuộc” (codependency) (Bishop,
1992). Những tác giả này cho rằng trong một số nền văn hóa khác, đường biên giới
phân định cái ngã của mỗi người không chỉ dừng lại ở lớp da của người đó, mà cịn
có thể trải rộng sang cả gia đình và những tập thể rộng lớn hơn. Họ nhấn mạnh đến
những đường biên giới uyển chuyển hơn là những đường biên giới cứng nhắc của cái
ngã theo kiểu tâm lý học phương Tây. Những yếu tố xác định hành vi của con người
nằm trong một “trường” gồm nhiều lực tác động, bao gồm cả cái ngã, điều đó trái
ngược với tâm lý học phương Tây trong đó những yếu tố nguyên nhân được xem là
định vị bên trong cá nhân mỗi người.
O’Hara (1992) đưa ra khái niệm về một “cái-ngã-trong-bối-cảnh”, qua đó ông nhấn
mạnh đến bản chất của con người là có tính liên kết lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Barrett Lennard (1993) cũng cho rằng “cái ngã của một cá nhân chỉ là một trong
những hình thức thể hiện của đời sống lịai người; các hình thức khác có thể kể ra bao
gồm các mối quan hệ, gia đình và cộng đồng xã hội”. O’Hara và Wood (1993) cho
rằng “Cá nhân khơng mất đi bản sắc của mình khi ở bên trong tập thể. Họ chỉ làm
cho tương hợp giữa cái Tôi và cái Chúng Ta”.
Arthur Bohart (1995) tin rằng yếu tố chính vận hành xuyên suốt trong khái niệm về
tính tự chủ của Rogers chính là một sự cảm nhận về tính hiệu quả (agency): Một thứ
cảm nhận khi con người đương đầu với các thách thức. Tính tự chủ hay tự lập không
hàm ý là một cảm nhận về sự tự thỏa mãn, mà quan trọng hơn đó là cảm nhận về khả
năng và tính hiệu quả của bản thân mình. Bởi vì sự thử thách ln là phần cố hữu
hiện diện bất cứ khi nào con người làm một việc gì đó trong cuộc sống (nghề nghiệp,
quan hệ, chăm sóc con cái...). Cho nên khi có được cảm nhận về khả năng của bản
thân, con người sẽ có thể đối mặt và đương đầu tốt với các thách thức, và đó cũng
chính là nền tảng của chức năng sống hiệu quả (Dweck & Leggert, 1988). Một định


hướng nhắm đến việc đương đầu với các thử thách sẽ dẫn chúng ta tập trung vào tiến
trình thực hiện một công việc hơn là chú trọng đến kết quả của nó, và thất bại được
xem là loại thơng tin được học tập để rút kinh nghiệm hơn là thông tin cho thấy sự

kém hiệu quả của một ai đó.
Thực tế khác nhau giữa các nền văn hóa dẫn đến các khái niệm khác nhau về cái ngã.
Nhà tâm lý trị liệu phải tôn trọng tiềm năng tăng trưởng sẵn có bên trong thế giới
nhận thức của từng cá nhân con người hơn là sử dụng những phương thức “khách
quan”, “đúng đắn” để áp dụng đối với họ.
Giao tiếp
Thúc đẩy sự giao tiếp giữa những cá nhân có thế giới nhận thức khác nhau (ví dụ,
giữa thân chủ và nhà trị liệu) là điều quan trọng hơn việc phán xét về quan điểm ai
đúng, ai sai. Việc cởi mở chia sẻ những cảm xúc và quan điểm theo cách thức tơn
trọng lẫn nhau, trong một bầu khơng khí có tính chấp nhận sẽ thúc đẩy mối quan hệ
hướng đến sự hòa hợp giữa những đối tác và huy động được “sự thơng thái của cả hai
bên hoặc của cả nhóm”. Đây cũng là điều quan trọng cho các cặp vợ chồng, các gia
đình, cơ quan, giữa các dân tộc và các quốc gia.
Mối quan hệ hài hòa giữa hai cái ngã
Đó là một tiến trình giao tiếp mà trong đó tất cả các khía cạnh của cái ngã được tơn
trọng, được lắng nghe đều quan trọng ngang nhau từ hai phía đối tác. Khi được lắng
nghe một cách thân hữu, cởi mở, tất cả những khía cạnh của cái ngã như ý nghĩ, cảm
xúc và những trải nghiệm (bao gồm cả những “lời nói bên trong” được nhập tâm từ
cha mẹ và xã hội), thì khả năng bên trong của mỗi người sẽ vận hành hướng đến sự
tổng hợp đầy sáng tạo. Tất cả những “tiếng nói bên trong” cũng có thể tham gia góp
phần vào.
Sự hài hịa (congruence) chính thực là một tiến trình nội tại (Lietaer, 1991). Sự hài
hịa khơng ln ln có nghĩa là sự hài hịa trong nội tâm (inner harmony). Một cảm
nhận về sự hài hịa nội tâm có thể xuất hiện rồi mất đi. Tuy nhiên, nếu một người nào


đó có tính hài hịa – cởi mở và chấp nhận tất cả những “tiếng nói bên trong” – thì tiến
trình tổng hợp một cách sáng tạo sẽ vận hành đi tới.
Trải nghiệm, Cảm xúc và Tình cảm
Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm vừa đánh giá cao những suy nghĩ thông minh, hợp lý,

vừa xem trọng những cảm xúc và trải nghiệm; tất cả đều là những nguồn thông tin
quan trọng về cách thức mà con người đương đầu một cách sáng tạo với thế giới bên
ngoài.
Tuy nhiên, những trải nghiệm thì khơng giống với các suy nghĩ hợp lý, nhưng chúng
lại là cách thức căn cơ hơn giúp con người hiểu được bản thân và thế giới bên ngồi.
Trải nghiệm cũng khác với tình cảm (Bohart, 1993). Trải nghiệm là mơ hình nhận
biết một cách trực tiếp, khơng dùng lời, các cách thức vận hành và các mối quan hệ
trong thế giới, giữa cái ngã và thế giới bên ngòai, và giữa cả những thành tố bên
trong cái ngã. Trải nghiệm bao gồm cả điều thường được gọi là sự “trực giác”. Tuy
nhiên, chẳng có gì là huyền bí ở đây cả. Chúng ta vẫn thường cảm nhận và nhận biết
được các mối liên hệ mà chúng khó có thể diễn tả ra thành lời. Ví dụ, chúng ta có thể
cảm nhận được ngay một người đang “xịu mặt”, trước khi dùng suy nghĩ phát hiện
rằng có điều gì đó khơng ổn đang xảy ra nơi người ấy (Lewicki, 1986).
Các ý nghĩa có được thơng qua sự trải nghiệm trực tiếp thường mạnh hơn rất nhiều so
với các ý nghĩa có được qua tư duy nhận thức. Trong một mối quan hệ, trải nghiệm
được yêu thương là một cảm nhận rất phức tạp mà các suy nghĩ hợp lý hoặc các phát
biểu thành lời khó có thể chuyển tải được hết ý nghĩa. Thông qua sự tương tác với
mẹ, đứa trẻ nhũ nhi có thể thơng báo cho mẹ nó biết rằng người mẹ đã thấu hiểu nó
hay khơng. Điều này khơng có nghĩa là đứa trẻ đã có được một “khái niệm” về sự
thấu hiểu. Thay vào đó, đứa trẻ đã cảm nhận trực tiếp cái cách thức tương tác hài hịa,
hiểu nhau giữa nó và mẹ nó. (Stern, 1985)
Gendlin (1964; 1969) tin rằng trải nghiệm có tính phức tạp hơn tư duy hợp lý và sự
diễn đạt bằng lời. Chính trải nghiệm mới là nguồn lực cho sự sáng tạo. Eistein đã có
được cảm nhận về thuyết tương đối trước khi ơng có thể phát biểu lý thuyết ấy bằng


lời nói. Chúng ta cũng có thể cảm nhận được có gì đó khơng ổn trong một mối quan
hệ trước khi có thể dùng lời để nói rõ đó là điều gì.
Trong nội tâm, chúng ta cũng có một trực cảm (felt sense) về cách thức mà cuộc sống
của chúng ta đang diễn ra và cách thức mà các tình huống sống đã xảy đến với chúng

ta. Cũng theo Gendlin, chính ở bình diện các cảm thức mà những thay đổi có tính trị
liệu mới có thể xảy ra. Việc trị liệu tâm lý phải dẫn đến một sự chuyển đổi về cách
thức mà chúng ta liên hệ với thế giới bên ngồi, sao cho sự biến đổi ấy có thể được
cảm nhận trực tiếp thay vì chỉ là sự thay đổi về mặt lý trì.
Cảm xúc (feelings)
Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm được biết đến như những người thường hay khuyến
khích thân chủ hãy “tin tưởng vào cảm xúc”, hoặc hãy “chạm đến cảm xúc”... Cảm
xúc, theo quan điểm thân chủ trọng tâm, cịn nhiều hơn cả tình cảm. Trong khi ta cảm
thấy giận hoặc buồn, thì thực sự ta đang cảm nhận những khuôn mẫu ý nghĩa phức
tạp hơn thế. Để nhận biết được những cảm xúc, cùng lúc ta phải nhận biết được
những tình cảm nào mà ta đang có, đồng thời nhận biết được kiểu cách liên hệ giữa ta
và thế giới bên ngòai đang xảy ra như thế nào. Ví dụ ta có thể “cảm thấy có điều gì
đó bất ổn trong cuộc sống” và “cảm thấy cuộc sống của ta đang bị mất thăng bằng”.
Khi nói “hãy tin tưởng vào cuộc sống của bạn” thì có nghĩa là hãy lắng nghe cảm xúc
như một nguồn thơng tin quan trọng, chứ khơng có nghĩa là hãy làm theo những gì
chúng bảo.
Một nữ thân chủ nói với nhà trị liệu rằng cơ “cảm thấy” chồng cô không yêu thương
cô nữa. Về mặt tâm lý, khi cơ nghĩ và nói ra điều này, cơ đã khơng thể dẫn ra một lý
lẽ nào để giải thích được cảm xúc ấy. Người chồng nói anh ta vẫn yêu cơ, nhà trị liệu
thì kết luận rằng cơ đã nhận định sai hồn cảnh hiện tại do bởi cơ đã có những vấn đề
trong mối quan hệ với cha cơ hồi cịn bé. Sau đó, người nữ thân chủ này đã tìm đến
một nhà trị liệu khác, và chỉ sau hơn một tháng, chồng cô tuyên bố rời bỏ cô. Anh ta
thừa nhận trong nhiều tháng qua đã ngoại tình và yêu một phụ nữ khác. Rõ ràng
những cảm xúc của thân chủ trong trường hợp này chủ yếu đã dựa vào những thay


đổi trong cách thức cư xử của người chồng đối với cô, những thay đổi tinh tế đến
mức nếu chỉ sử dụng lý trí cơ khó có thể nhận dạng được.
Tuy nhiên, cảm xúc không luôn luôn lúc nào cũng đúng và đơi khi có thể dẫn đến
việc thấy một điều gì đó “có vẻ đúng” dù thực tế khơng đúng như vậy. Như trường

hợp thân chủ nêu trên, cảm nhận khơng ổn về người chồng cũng có thể là đã không
đúng. Tuy nhiên, nếu cô vẫn tin vào cảm xúc của mình thì cơ có thể tiếp tục kiểm
định lại dựa trên những trải nghiệm mà cơ đã có được từ trong cuộc sống chung với
chồng mình.
Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin rằng những người có chức năng sống đầy đủ có
thể sử dụng tất cả những gì mình có. Họ có thể vận dụng cả khả năng tư duy hợp lý
và giải quyết vấn đề, lẫn khả năng sử dụng những cảm nhận theo kinh nghiệm về
những gì có ý nghĩa riêng đối với bản ngã của họ. Cả hai nguồn thơng tin đều có thể
sai lầm: việc thực hiện chức năng sống đầy đủ cần phải xem xét cả hai nguồn thông
tin ấy.
Cái ngã như một tiến trình (Self as Process)
Đối với học thuyết thân chủ trọng tâm, cái ngã không phải là một sự vật hoặc một tác
nhân ở bên trong con người, mà là “một trải nghiệm về cính mình như một con người
trọn vẹn ở một thời khắc nhất định nào đó”. Cùng lúc ấy, chúng ta định hình nên
những ý niệm về chính chúng ta nhằm giúp chúng ta tổ chức lại những gì mình hiểu
biết về thực tế cuộc sống, theo cùng một cách thức mà ta dùng để tạo nên những ý
niệm về những sự vật khác. Cái “ý niệm về bản thân” này (self-concept) là một cấu
trúc trong sự hiểu biết mà chúng ta sử dụng như một “tấm bản đồ” để giúp chúng ta
“lèo lái” thực tế (Shlien, 1970). Nó có tính chất đa chiều kích, nhưng có hai khía
cạnh quan trọng là “cái ngã thực” và “cái ngã lý tưởng”. Cái ngã thực (real selfconcept) là hình ảnh của chúng ta về một con người mà ta nghĩ ta thực sự đang là;
còn cái ngã lý tưởng (ideal self-concept) là hình ảnh của chúng ta về một con người
mà ta nghĩ ta nên là. Một người có chức năng sống đầy đủ sẽ giữ lấy hai khía cạnh
trên của cái ngã một cách chừng mực. Sẽ là không lành mạnh nếu chấp giữ vào một


cái ngã q cứng nhắc, vì cái ngã sẽ ln trưởng thành và thay đổi. Chúng ta sẽ phải
điều chỉnh lại ý niệm về cái ngã của mình để phù hợp với những trải nghiệm sống
mới, cũng như chúng ta cũng phải sửa đổi các ý niệm khác sao cho phù hợp với
những trải nghiệm sống của bản thân.
Lý thuyết về sự phát triển

Mặc dù Rogers có trình bày một số quan điểm về sự phát triển tâm lý, nói chung
trường phái thân chủ trọng tâm vẫn không nhấn mạnh vào điều này, tuy nó vẫn hàm
chứa một quan điểm về sự phát triển. Đầu tiên, một đứa trẻ được sinh ra đã là một
sinh vật năng động, hiếu kỳ, thích khám phá, quan tâm đến việc học hỏi từ thế giới
xung quanh và có một mối quan tâm nội tại về sự phát triển những khả năng của
chính mình. Đứa trẻ sẽ lắng nghe và học hỏi từ tất cả những trải nghiệm sống của nó:
từ cha mẹ, từ các trẻ đồng trang lứa, bà con, hàng xóm, thầy cô và từ những câu
chuyện kể... Trẻ đặc biệt quan tâm đến việc học hỏi từ kết quả của những hoạt động
mà trẻ tự mình cố gắng thực hiện và khám phá.
Như một cơ thể đang tăng trưởng, đứa trẻ sẽ khơng “hồn tất” con đường đi của mình
trong vài năm đầu đời. Lý thuyết phân tâm xem những trải nghiệm sống trong những
năm đầu đời là có tính “nền tảng”, có vai trị định hình ban đầu và ảnh hưởng đến tất
cả các cấu trúc nhân cách về sau. Trường phái thân chủ trọng tâm lại xem con người
vẫn liên tục phát triển. Và khi phát triển, con người mang những gì mà mình học
được trước đó vận dụng vào việc hiểu chính bản thân mình và thế giới xung quanh.
Quan điểm này tương đồng với Piaget hơn là với Freud. Theo quan điểm của Piaget,
sự phát triển là một tiến trình trải dài trong đó các giai đoạn sau sẽ phát huy và tổ
chức lại những gì đã xảy ra trong các giai đoạn trước. Các ý tưởng và trải nghiệm ban
đầu vẫn được bảo lưu nhưng được kết hợp với các cấu trúc thực tại mới hơn, tinh tế
hơn, sao cho những dạng thức học tập lúc ban đầu sẽ bị đổi khác đi.
Freud xem sự phát triển có mơ hình dưới dạng một kim tự tháp, trong đó những gì
học tập được lúc đầu đời sẽ tập trung ở phần đáy, cịn những gì đến sau sẽ ở những
phần trên cao hơn. Học thuyết thân chủ trọng tâm xem sự phát triển giống như một


bộ những “chiếc hộp Trung Hoa”, trong đó thuở ấu thơ được ví như chiếc hộp nhỏ
nhất nằm ở bên trong cùng, các giai đoạn sau của đời sống thì giống như những chiếc
hộp lớn hơn lần lượt lồng vào chiếc hộp ban đầu, và cứ thế, cứ thế... Mỗi một trải
nghiệm sống mới tạo thêm một khung sườn rộng hơn, kiên cố hơn so với những trải
nghiệm trước đó và giúp cho cá nhân đó thống hợp tốt hơn.

Ngịai ra, con người cịn có khuynh hướng tìm đến sự khám phá và đối đầu với
những thử thách hơn là tránh né những đau khổ và hụt hẫng. Các lý thuyết gia tâm
động học cho rằng “con người có một khuynh hướng phổ biến là muốn tránh sự đau
khổ” (Strupp & Binder, 1984), và trẻ em thường có khuynh hướng muốn chối bỏ,
tránh né và dồn nén cảm xúc và những trải nghiệm đau thương. Trái lại, Bohart
(1995) lại nhận thấy một cách đáng ngạc nhiên về sự cam đảm của các thân chủ của
ông khi họ thường xuyên phải đối đầu với những nỗi đau, thách thức và luôn cố gắng
làm chủ cuộc sống của họ. Ngay cả trẻ em cũng thường xuyên lập lại những cuộc đối
đầu với các sự kiện đau thương và những trải nghiệm gây hụt hẫng để cố gắng làm
chủ lấy chúng. Con người chỉ tránh né đau khổ và hụt hẫng khi họ cảm thấy mình đã
mất hết năng lực để giải quyết chúng (Bandura, 1986), như trường hợp những trải
nghiệm vượt quá sức chịu đựng ở những trẻ em bị xâm hại chẳng hạn.
Khi nào một người có “chức năng sống đầy đủ” (fully functioning)
Rogers và cs. đã phát triển một thang đo lường những thay đổi trong trị liệu, phân
mức độ từ chỗ gọi là “rối loạn chức năng” (dysfunctional) cho đến “có chức năng
sống đầy đủ” (fully functional). Theo Rogers, ở đầu thứ nhất của thang đo biểu thị
một chức năng tâm lý cứng nhắc, kiên định, chuyên biệt hóa kém, vơ cảm, lạnh lùng;
cịn ở đầu thứ hai của thang đo là biểu thị cho một chức năng tâm lý được đặc trưng
bởi sự chấp nhận thử thách, uyển chuyển và các phản ứng có tính chun biệt hóa
cao, bởi sự trải nghiệm tức thời những cảm xúc của bản thân và trong thâm sâu chấp
nhận những cảm xúc ấy như là của chính mình (Rogers, 1961b). Khi con người có
chức năng sống đầy đủ, họ sẽ có lối sống mềm dẻo, uyển chuyển: xử lý một cách cân
nhắc các sơ cấu nhận thức, kiểm định chúng dựa trên các trải nghiệm, mở lòng chấp
nhận các cảm xúc, lắng nghe và học hỏi từ các phản hồi, đối thoại với chính mình và


với những người xung quanh, cảm thấy mình có thể tự định hướng cho cuộc đời
mình. Ở giữa thang đo là biểu thị cho các chức năng sống ở nhiều mức độ khác nhau.
Chức năng sống đầy đủ có ý nghĩa đơn giản là một con người ở mỗi thời điểm đều
vận hành như một quá trình đang tiến triển. Điều này khơng hồn tồn có nghĩa là

người đó phải hài lòng, mãn nguyện và hạnh phúc (Rogers, 1961a). Một con người
sống đầy đủ cũng khơng có nghĩa là phải ln “vận hành một cách tối ưu”. Ngay cả
khi có chức năng sống đầy đủ, con người vẫn có lúc cảm thấy bế tắc, mất năng lực,
không hiệu quả và hụt hẫng. Tuy nhiên, ngay cả những lúc như thế, người ấy vẫn tiếp
tục đấu tranh với vấn đề khó khăn của mình, cố gắng học hỏi và tiếp tục đi tới.
Mở rộng quan điểm “nhân vị trọng tâm” sang các lĩnh vực gia đình và nhóm
Quan điểm “nhân vị trọng tâm” đã được mở rộng và áp dụng sang cả lĩnh vực trị liệu
gia đình (Lietaer, 1990; Levant & Shlien, 1984) và các nhóm (O’Hara & Wood,
1983). Các nguyên lý chung cũng vẫn tương tự như nhau: những gia đình và nhóm có
chức năng sống đầy đủ là những tập thể người có sự giao tiếp cởi mở sao cho tất cả
các tiếng nói đều được nghe thấy. Các quyết định được hình thành thơng qua các q
trình thảo luận hơn là chỉ máy móc áp dụng các luật lệ, quan điểm hoặc những điều
“nên, không nên”. Việc đối thọai và giao tiếp cởi mở có thể giúp huy động được “sự
thơng thái tập thể”. Trái lại, các nhóm và gia đình có sự trở ngại trong đối thọai thì
các thành viên sẽ dễ duy trì một hệ thống các luật lệ, các quan điểm cứng nhắc và dễ
có khuynh hướng dẫn đến rối lọan chức năng.
Bệnh lý rối lọan chức năng
Từ quan điểm thân chủ trọng tâm, một hành vi bất thường có thể phát sinh khi một
con người khơng có khả năng vận hành theo một cách thức liên tục phát triển. Các
vấn đề tâm lý không phải là do sự sai lầm về niềm tin hoặc nhận thức, và cũng không
phải ở chỗ những hành vi ấy có tính khơng thích nghi hoặc khơng hiệu quả. Khi con
người đương đầu với các thách thức trong cuộc sống, họ cũng có lúc nhận thức sai,
ứng xử khơng thỏa đáng hoặc có những niềm tin lệch lạc. Tuy nhiên, sự rối loạn chức
năng chỉ xảy ra khi chúng ta “thất bại trong việc học” từ những thông tin phản hồi và


vì thế vẫn bị vướng mắc vào những nhận thức sai hoặc những hành vi không thỏa
đáng ấy. Sự rối loạn chức năng chính là sự thất bại trong việc học hỏi và thay đổi.
Theo quan điểm thân chủ trọng tâm, có ba cách giải thích liên quan đến việc vì sao
sự thất bại này xảy ra, đó là sự thiếu hài hịa (incongruence), khơng thể tồn tại như

một tiến trình (failure to be in process) và khó khăn trong việc xử lý thơng tin.


Thiếu hài hịa

Quan điểm phổ biến nhất về sự rối lọan chức năng theo trường phái thân chủ trọng
tâm là: hành vi bất thường phát sinh do sự trái ngược, mâu thuẫn giữa một bên là ý
niệm về cái ngã và bên kia là những trải nghiệm sống. Ví dụ, Janet là một sinh viên
giỏi ở trường đại học. Trong hình ảnh về bản thân (self-image), cơ muốn mình sẽ trở
thành một bác sĩ. Tuy nhiên, trong các giờ học mơn sinh và mơn hóa cơ lại có những
trải nghiệm rất xa lạ và khơng như ý muốn, và sự mâu thuẫn này đã khiến cho cơ
phiền lịng.
Tuy nhiên, khơng phải sự mâu thuẫn này làm nên tình trạng rối lọan chức năng, mà là
do ở cách thức đương sự đáp ứng và cố gắng giải quyết sự trái ngược này. Nếu các
cấu trúc trong nhận thức được đương sự xử lý một cách chừng mực thì người ấy sẽ
có khả năng thống hợp lại các khía cạnh có tính đối lập nhau bên trong cái ngã của
mình, và chính từ khả năng thống hợp này mà sự sáng tạo mới có thể được nảy sinh.
Nhưng nếu các khía cạnh đối lập nhau trong ý niệm về cái ngã vẫn còn được lưu giữ
một cách cứng nhắc, tiến trình thống nhất và tổng hợp này sẽ bị bế tắc.
Con người thường học cách bảo lưu các thành phần của cái ngã một cách cứng nhắc
do bởi cha mẹ họ, các giáo viên và nền văn hóa của họ áp dụng những “tiêu chuẩn
đánh giá” đối với họ. Đó là, họ chỉ cảm thấy mình có giá trị khi tuân theo những
chuẩn mực và giá trị của người khác. Điều này khiến cho họ dễ chấp nhận một cách
cứng nhắc những “điều nên làm” khi xem xét những cách thức sống mà họ được
người khác trông đợi. Một khi có sự thiếu hài hịa giữa những điều răn cứng nhắc và
những trải nghiệm thật sự của bản thân, họ sẽ không thể thách thức những điều răn
ấy, và vì thế họ sẽ có khuynh hướng đáp ứng lại bằng cách chối bỏ những trải nghiệm


thực của mình hoặc tìm cách diễn giải chúng khác đi. Khi khơng cịn khả năng lắng

nghe những trải nghiệm của chính mình thì họ đã lấy đi sức mạnh của chúng. Để rồi
sau đó, họ chỉ có thể chủ yếu dựa vào những “điều răn” để hướng dẫn cho sự chọn
lựa của mình. Khi nỗi lo âu và tính khơng hài hịa khơng được giải quyết, đương sự
sẽ dần dần cảm thấy bất lực và trở nên trầm uất.
Janet, trong ví dụ trên, qua nhiều năm đã được “lập trình” bởi chính cơ, bởi cha mẹ
cơ và bởi các giáo viên của cô, để trở thành một bác sĩ. Để theo đuổi chương trình
này, cơ đã phải bỏ qua những cảm xúc không phù hợp khi tham dự những lớp học
mơn sinh và mơn hóa. Điều này dường như cũng đã ảnh hưởng lên nhân cách của cô,
khiến cho bạn bè cũng cảm nhận cô như một người xa cách và hay phòng vệ. Nhưng
đến một ngày kia, Janet đến lớp với một vẻ hoàn toàn khác: cởi mở, nhiệt tình và
thân thiện. Cơ bảo với mọi người rằng cơ đã có một quyết định quan trọng của riêng
mình: cơ sẽ thay đổi chun ngành học của mình sang lĩnh vực nghệ thuật. Cô bộc
bạch rằng sau cùng cô đã bắt đầu lắng nghe các trải nghiệm của mình và nhận thấy
rằng thật tâm cô không muốn trở thành một bác sĩ. Chính việc tin tưởng vào trải
nghiệm của chính mình đã cho phép cơ tự mở ra những con đường đi mới.
Vấn đề của Janet là ở chỗ cô đã cứng nhắc chấp giữ một niềm tin rằng mình phải trở
thành một bác sĩ. Khi cơ xem xét niềm tin ấy một cách đúng mực và đánh giá nó dựa
trên chính những trải nghiệm của mình, cơ đã chọn quyết định thay đổi ngành học.
Tuy nhiên, cô cũng có thể đi theo hướng ngược lại: đó là tiếp tục chọn việc học để trở
thành một bác sĩ ngay cả khi cơ khơng thích học sinh và học hóa. Và điều quan trọng
ở đây là Janet đã đặt ra các câu hỏi và thách thức các cấu trúc nhận thức của mình.
Sự thiếu hài hịa có thể xảy ra dưới nhiều hình thức. Một số người đã khái quát hóa
các ý niệm tiêu cực về cái ngã và phán xét chúng một cách khắc khe về mọi lĩnh vực.
Điều này đã dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng, ví dụ như những hành vi chống đối xã
hội và rối loạn nhân cách. Một số người khác có thể cảm thấy sự thiếu hài hòa chỉ
trong một số lĩnh vực chun biệt nào đó, ví dụ khơng thể chấp nhận được cản xúc
giận dữ chẳng hạn. Gần đây, Speierer (1990) đã cố gắng chun biệt hóa các lọai
thiếu hài hịa khác nhau trong các lọai rối lọan tâm lý khác nhau. Ông cho rằng các



thân chủ bị trầm cảm chủ yếu là do sự chấp giữ những ý niệm về cái ngã quá hoàn
hảo, trong khi đó những bệnh nhân hysterie lại chấp giữ cứng nhắc và thái quá những
khía cạnh tích cực trong hình ảnh về bản thân khi họ cố gắng xuất hiện trước người
khác theo một cách thức nhất định. Tuy nhiên, các nhà trị liệu theo trường phái thân
chủ trọng tâm tin rằng mỗi cá nhân đều có tính độc đáo và khơng thể có một quy luật
bất biến nào có thể quyết định lọai thiếu hài hịa nào sẽ gây nên lọai rối loạn nào.


Khơng thể tồn tại như một một tiến trình

Quan điểm này có thể xem như một sự mở rộng của ý tưởng về sự thiếu hài hịa. Khi
tư tưởng của Rogers thay đổi, ơng ngày càng tập trung nhiều hơn vào ý tưởng cho
rằng sự rối lọan chức năng có liên quan đến mức độ mà con người không tồn tại
(không sống) như một tiến trình.
Gendlin cũng cho rằng tâm bệnh bắt nguồn từ việc thất bại của con người không thể
sống như một tiến trình. Những người trải qua các vấn đề về tâm lý là những người
“thiếu tập trung” (Gendlin, 1969). Đó là vì họ đã khơng chú tâm vào “dịng chảy” của
những trải nghiệm theo một cách thức có thể giải quyết các vấn đề của họ một cách
sáng tạo. Thay vì lắng nghe một cách thấu cảm nội tâm của mình, họ lại khắc khe phê
phán các cảm xúc và phản ứng của chính họ, bằng cách tự “lên lớp” bản thân, phân
tích bản thân hoặc cố gắng tự “thiết kế lại” bản thân (Gendlin, 1964). Trong những
trường hợp nghiêm trọng, như tâm thần phân liệt chẳng hạn (Gendlin, 1967), người
bệnh có thể cảm thấy đời sống nội tâm của chính mình quá hỗn độn, quá “bệnh”,
khiến sau cùng họ cũng quay mặt đi với chính nội tâm của họ và cho rằng chẳng có
gì đáng tin ở đó cả!


Các quan điểm về xử lý thông tin

Vào năm 1974, Wexler và Rice đã xuất bản một quyển sách trình bày về một số quan

điểm về vấn đề xử lý thông tin trong liệu pháp thân chủ trọng tâm. Ý tưởng của
Rogers và Gendlin đã được viết lại bằng ngôn ngữ của tâm lý học nhận thức. Mỗi cá
nhân con người đã phát triển nên những sơ cấu (schemata) trong nhận thức của mình
để tổ chức lại các nguồn thơng tin từ thế giới bên ngồi. Việc một người có chức


năng sống đầy đủ bao gồm khả năng đồng hóa (assimilation) liên tục các thông tin
này vào trong các sơ cấu, tạo nên những cấu trúc hiểu biết chuyên biệt hơn, thống
hợp hơn. Tâm bệnh được xem là bắt nguồn từ những hệ thống các sơ cấu kém chuyên
biệt và có tính cứng nhắc, khiến con người mất khả năng thống nhập các nguồn thơng
tin mới. Một tiến trình quan trọng trong sự tạo lập các cấu trúc hiểu biết chuyên biệt
hơn, thống hợp hơn đó là sự “chú tâm” (attention). Nếu con người thất bại trong việc
chú tâm một cách hiệu quả vào các nguồn thơng tin mới thì sẽ dẫn đến sự tồn tại một
cách kiên định của những cấu trúc hiểu biết cũ (Anderson, 1974). Toukmanian (1990)
cũng đã chỉ rõ rằng những người có vấn đề thường thất bại trong việc gỡ bỏ các suy
nghĩ có trước của họ, và vì thế khơng thể chú ý đến các nguồn thơng tin mới rất
phong phú. Ngồi ra, họ cũng thất bại trong việc xây dựng những giả thuyết để họ có
thể chọn lựa.
Greenberg và cs. (1993) đã phát triển một học thuyết tổng hợp về nhận thức liên quan
đến chức năng sống của cá nhân con người dựa trên lý thuyết thân chủ trọng tâm. Đối
với các tác giả này, trải nghiệm của một con người vào một thời khắc nào đó là sản
phẩm tổng hợp phức tạp của các sơ cấu nhận thức, động cơ và các khuynh hướng
hành động. Chúng được tổng hợp lại rồi dẫn đến một cảm nhận huyền diệu về bản
thân chúng ta trong một tình huống cụ thể, đồng thời cũng tạo nên những phản ứng
cảm xúc đặc hiệu mà từ đó con người chúng ta được “tổ chức” lại để có thể thực hiện
những hành động. Các vấn đề tâm lý nảy sinh do con người bị mất khả năng trong
việc chú tâm đến và biểu trưng hóa những phản ứng nội tâm của chính mình hoặc do
bởi những phản ứng của họ biểu hiện dưới dạng những “kiểu thức cảm xúc cứng
nhắc” (rigid emotion schemes). Kiểu thức cảm xúc cứng nhắc là các cách thức phản
ứng về mặt cảm xúc đã được học tập trước đó nhưng khi biểu hiện thì lại khơng phù

hợp với hồn cảnh hiện tại.
Các tác giả này đã đặc biệt nhấn mạnh vào tầm quan trọng của các phản ứng cảm xúc
trong chức năng sống của con người. Cảm xúc phản ánh những khuynh hướng hành
động; nó thơng tin về cách thức mà một người đang trải nghiệm như thế nào vào thời
điểm đó. Vì thế, việc mất khả năng nhận biết hoặc tiếp cận với nguồn thông tin về
cảm xúc sẽ ảnh hưởng một cách đáng kể lên khả năng thích nghi của một con người.


Sự thất bại này sẽ thường xuyên làm nảy sinh những phản ứng rối lọan chức năng và
khiến đương sự không thể linh họat chọn lựa các hành vi mới để đáp ứng với những
địi hỏi của hồn cảnh sống.
Tâm bệnh dưới góc nhìn có tính tương tác
Các vấn đề tâm lý không được xem như những thực thể “bên trong” của con người,
mà luôn được xem xét trong mối tương tác giữa con người và hoàn cảnh sống. Bản
chất của nó là sự tương giao giữa con người với thế giới bên ngoài. Các vấn đề nảy
sinh khi con người phải đương đầu với những hoàn cảnh thách thức khả năng linh
hoạt của họ trong việc giải quyết vấn đề. Sự chuẩn bị cho các thách thức trong đời
sống cũng khác nhau ở mỗi người. Tuy nhiên, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có
những lúc tạm thời bị rối loạn chức năng nếu chúng ta đang đương đầu với một thách
thức vượt quá các nguồn lực ứng phó của bản thân.Tình trạng stress q mức do hồn
cảnh kinh tế hoặc bệnh tật có thể khiến chúng ta bị mất khả năng liên lạc và tổng hợp
những “trải nghiệm có vấn đề” của chúng ta (problematic experience). Nếu một
người nào đó đang là thành viên trong một tập thể đang được vận hành sai chức năng
(một gia đình hoặc một nhóm làm việc chẳng hạn), thì người ấy cũng có thể bị tổn
thương khả năng này.
Rối lọan chức năng trong gia đình và nhóm
Sự rối lọan chức năng trong gia đình và nhóm cũng có cùng những lý do như trường
hợp xảy ra ở các cá nhân. Các tổ chức, tập thể, giống như các cá nhân, cũng là những
thực thể sống rất năng động; chúng có thể vận hành một cách có lý trí nếu như các
tiến trình giao tiếp bên trong chúng diễn ra một cách cởi mở. Hành vi bệnh lý xảy ra

khi sự giao tiếp bên trong nhóm bị bế tắc. Cơng trình nghiên cứu về “tư duy tập thể”
(group-think) của Janis (1972) là một ví dụ minh họa tốt về cách thức mà một tập thể
đã vận hành sai chức năng nếu như có sự tắc nghẽn các kênh giao tiếp giữa các thành
viên bên trong nhóm cũng như giữa nhóm đó với thế giới bên ngoài.
Đánh giá mức độ rối lọan chức năng


Các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm thường không đi tìm những cơng cụ chẩn đốn
hoặc đánh giá theo truyền thống. Những phương thức đánh giá như thế sẽ khuyến
khích một cách nhìn “từ bên ngồi” đối với thân chủ, như thể thân chủ đang được
đem ra mổ xẻ, phân tích hoặc như thể bị “xem xét dưới kính hiển vi”! Điều này đi
ngược lại với lập trường có tính thấu cảm của trường phái thân chủ trọng tâm, trong
đó nhà trị liệu cố gắng cảm nhận thân chủ từ bên trong những trải nghiệm độc đáo
của người ấy. Việc phân loại con người sẽ khiến cho nhà trị liệu bị lệch sang xu
hướng trị liệu cho một cá nhân như là thành phần của một “lọai người” hơn là như
một con người có những tính cách riêng biệt. Một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm
quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu và thiết lập quan hệ với thân chủ tên Jack hoặc với
thân chủ tên Carolyn, chứ không phải với “Jack-rối lọan ranh giới” hoặc với
“Carolyn-ái kỷ”... Tuy nhiên, vì lĩnh vực sức khỏe tâm thần cần dùng đến những tên
gọi để chẩn đoán, nên các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm vẫn sử dụng chúng với mục
đích thơng tin trong giới chun mơn.
Các nhà trị liệu theo xu hướng “tiến trình-kinh nghiệm” như Greenberg và cs. (1993)
thì sử dụng cách thức chẩn đóan theo tiến trình (process diagnosis). Một chẩn đóan
theo tiến trình là cách thức đánh giá của một nhà trị liệu dựa trên các kiểu thức cảm
xúc sai chức năng (dysfunctional emotion schemes) mà thân chủ cần phải thay đổi và
khả năng sẵn sàng của thân chủ trong việc thực hiện sự thay đổi ấy vào một thời điểm
nào đó trong tiến trình trị liệu. Điều quan trọng ở đây là nhà trị liệu không đặt nặng
vào “nội dung” của cảm xúc được biểu hiện (vì dụ thân chủ óan giận người cha của
mình) mà chỉ chú ý đến những bằng chứng cho thấy thân chủ đang trải nghiệm sự bế
tắc trong khi đang giải quyết vấn đề cá nhân của mình. Nhà trị liệu theo xu hướng

“tiến trình-kinh nghiệm” sẽ tìm kiếm những “chỉ báo”, tức là những dấu hiệu về lời
nói, hành vi và cảm xúc cho thấy thân chủ đang đấu tranh với việc xử lý các cảm xúc
của họ. Ví dụ, một chỉ báo cho một “phản ứng có vấn đề” có thể là: khi thân chủ mơ
tả sự bối rối, khó xử của họ khi họ phản ứng với một tình huống hoặc với một người
nào đó. Sự bối rối này có thể là cảm giác thấy mình đã có một phản ứng khơng hợp
lý, lệch lạc, thái q hoặc khơng như ý muốn. Một chẩn đóan theo tiến trình về loại


chỉ báo này sẽ giúp cho nhà trị liệu biết được loại phương pháp này có thể được sử
dụng tốt nhất vào lúc ấy để nắm bắt và đi sâu vào sự khám phá của thân chủ.
Thực hành trị liệu
Liệu pháp thân chủ trọng tâm theo truyền thống vào lúc khởi đầu thì có tính chất
“khơng hướng dẫn” (non-directive). Mục đích của nhà trị liệu chủ yếu là người đồng
hành cùng với thân chủ trên con đường tự khám phá bản thân. Bằng cách là người
đồng hành, nhiệt tình, thấu cảm và chân thành, nhà trị liệu sẽ mang đến một bầu khí
có tính thúc đẩy niềm tin của thân chủ vào bản thân để có thể hướng đến sự tăng
trưởng.
Tuy nhiên, trong thập niên 1960, một xu hướng mới đã hình thành trong số các nhà
trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm. Những tác giả này muốn xem liệu pháp
thân chủ trọng tâm như một “triết lý của việc trị liệu” hơn là một “cách thức chuyên
biệt để thực hành trị liệu”. Họ cho rằng nếu nhà trị liệu là một người nhiệt tình, thấu
cảm và chân thật, ơng ta có thể năng động hơn và thậm chí có thể sử dụng những kỹ
thuật từ các loại liệu pháp (Holstock & Rogers, 1983). Đối với nhiều nhà trị liệu, liệu
pháp thân chủ trọng tâm đã trở thành “triết lý nhân vị trọng tâm”, và trong bối cảnh
ấy nhà trị liệu có thể thực hành trị liệu theo những phương cách có tính chiết trung.
Kết quả là, nhiều trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm hiện nay đã phối hợp
nhiều kỹ thuật của các liệu pháp khác như các kỹ thuật Gestalt, hành vi, thôi miên và
vận dụng các kỹ thuật có tính thách thức (confrontative) vào việc thực hành trị liệu.
Natalie Rogers (Toms, 1988) đã phối hợp nghệ thuật và khiêu vũ vào liệu pháp của
bà với tên gọi là “liệu pháp diễn xuất thân chủ trọng tâm” (person-centered

expressive therapy). Tương tự, “liệu pháp kinh nghiệm” của Gendlin và “liệu pháp
tiến trình-kinh nghiệm” của Greenberg và cs. cũng chủ trương nhà trị liệu có thể thực
hiện một cách có hệ thống những cố gắng thúc đẩy tiến trình khám phá để giúp thân
chủ tăng trưởng.
Trái lại, các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm theo kiểu cổ điển (Brodley, 1993) lại
khơng đồng tình với sự phát triển liệu pháp theo cách thức trên. Họ tin rằng việc sử


dụng một cách có hệ thống bất cứ lọai kỹ thuật trị liệu nào sẽ gây phương hại cho
thái độ “không hướng dẫn”, nền tảng của việc để thân chủ tự dẫn dắt và tự tìm lối đi
của riêng mình hướng đến sự tăng trưởng.
Triết lý của việc trị liệu
Liệu pháp thân chủ trọng tâm dựa vào niềm tin rằng chính thân chủ sẽ “chữa lành”
bản thân họ và tạo nên sự tăng trưởng bản ngã của chính họ. Sự tăng trưởng và bình
phục xảy ra từ bên trong con người của thân chủ, mặc dù các tiến trình bên ngịai có
thể thúc đẩy hoặc trì hỗn việc tăng trưởng này. Có sự tương đồng giữa cây cỏ và trẻ
em trong việc tự mình lớn lên, dù rằng người nơng gia hoặc các bậc cha mẹ có thể
giúp tạo thuận lợi hoặc làm chậm đi những tiến trình tăng trưởng này.
Liệu pháp thân chủ trọng tâm có tính độc đáo ở chỗ nhấn mạnh vào tiềm năng tự
bình phục của mỗi con người. Mặc dù những liệu pháp tâm lý khác cũng đồng ý về
con người có những tiềm năng tích cực bên trong, nhưng các nhà trị liệu theo những
trường phái khác lại khơng tin rằng thân chủ có thể tự mình sử dụng tiềm năng này
nếu họ khơng có được sự hướng dẫn của nhà trị liệu. Điều này có thể do thân chủ quá
mong muốn né tránh sự đau khổ để có được sự an tồn khiến cho họ cũng né tránh
việc đối đầu với các vấn đề và làm cho các tiềm năng ấy bị tắc nghẽn; hoặc cũng có
thể do họ bị vướng nắc vào những tư duy sai lầm mà họ chỉ có thể được “giải thoát”
bởi nhà trị liệu. Nhà trị liệu trở thành “chuyên gia hướng dẫn” về vấn đề gì mà thân
chủ cần phải đương đầu để tăng trưởng.
Trái lại, công việc của một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm là cung cấp một điều kiện
tối ưu để thân chủ có thể vận hành những “khả năng tự tổ chức nội tại” và “khả năng

tự vượt qua” (intrinsic self-organizing & self-transcending capacities). Trong điều
kiện có tính hỗ trợ, lịng tin hướng đến tăng trưởng của thân chủ sẽ vượt qua khuynh
hướng né tránh khổ đau. Con người có khả năng chịu đựng và đối đầu với những nỗi
khổ đau lớn lao trong cuộc sống chừng nào mà họ cảm thấy có cơ hội làm chủ được
các hồn cảnh gây ra đau khổ cho họ. Chỉ khi cảm thấy bất lực họ mới tránh né đau


khổ và tìm kiếm sự an tịan (Dweck & Leggett, 1988) hoặc khi họ cảm thấy không đủ
khả năng đương đầu với đau khổ (Bandura, 1986).
Nhà trị liệu không nhất thiết phải để thân chủ đương đầu với những trải nghiệm đau
thương đã từng dồn nén rất sâu trong lòng, ví dụ những trải nghiệm bị xâm hại từ
thời thơ ấu. Nếu những điều kiện an toàn mà nhà trị liệu mang lại giúp thân chủ bắt
đầu phát triển một cảm nhận về khả năng bình phục và tăng trưởng của mình, họ sẽ
dần dần mong muốn đối mặt với những trải ngiệm như thế nếu như họ thấy việc này
là cần thiết để giúp họ có thể tiếp tục phát triển. Từ điểm mốc đó trở đi, những trải
nghiệm đau thương ấy sẽ dần dần lộ diện như một phần của tiến trình tự bình phục.
Nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm khởi đi từ vị trí của thân chủ vào lúc
bắt đầu tiến trình trị liệu. Nếu vấn đề của thân chủ khiến họ cảm thấy nặng lòng triền
miên, nhà trị liệu sẽ tập trung làm việc với họ về những gì mà họ đang bận tâm chứ
khơng đánh giá rằng “có những vấn đề sâu xa hơn cần phải đối mặt”. Nhà trị liệu
thân chủ trọng tâm tin vào khả năng của thân chủ trong việc tự định hướng và tự điều
chỉnh bản thân. Đây là khía cạnh quan trọng nhất của việc trị liệu và thân chủ sẽ tự đi
sâu hơn trong việc khám phá bản thân khi họ thấy đó là việc cần thiết.
Cấu trúc cơ bản của liệu pháp thân chủ trọng tâm
Nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm khá linh hoạt trong cách thức cấu
trúc mối tương tác trị liệu. Cách thức tiêu biểu nhất của họ là gặp thân chủ trong
những buổi trị liệu kéo dài khoảng một giờ, và mỗi tuần một lần. Tuy nhiên, nhà trị
liệu vẫn có thể điều chỉnh cơng thức này tùy từng trường hợp cụ thể. Các cuộc gặp
cũng có thể diễn ra tại văn phòng của nhà trị liệu hoặc ở một nơi khác. Gendlin
(1967) có thể tiếp xúc với một bệnh nhân trên đường đi từ bệnh phòng đến nhà ăn

của bệnh viện; Bohart có thể làm việc với thân chủ ở bãi cỏ trong bệnh viện, vv...
Mặc dù liệu pháp cần được thực hiện qua nhiều buổi trị liệu, nhưng các nhà trị liệu
thân chủ trọng tâm cũng tin rằng có đơi lúc những thay đổi quan trọng có thể xảy ra
chỉ qua một buổi trị liệu duy nhất (Rogers & Sandford, 1984). Khơng có ý nghĩa gì
nếu ta đặt ra một khoảng “thời gian trung bình” cho một tiến trình trị liệu. Bohart


(1995) đã từng trị liệu cho các thân chủ với thời gian thay đổi từ một buổi duy nhất
cho đến những liệu trình kéo dài hàng trăm buổi!
Nhà trị liệu cũng có thể sử dụng tất cả các thể thức trị liệu: cá nhân, nhóm, gia đình
hoặc cặp vợ chồng. Sự lựa chọn thể thức trị liệu phải cùng được thực hiện bởi nhà trị
liệu và tất cả các thành viên tham gia.
Thiết lập mục đích trị liệu
Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin rằng chính thân chủ là người biết rõ điều gì đang
gây tổn thương cho họ và điều gì mà họ cần phải thay đổi (thơng qua sự hiểu biết có
tính trực giác). Vì thế nhà trị liệu khơng phải thiết lập mục đích cho việc trị liệu, vd.
“phải thay đổi điều gì, vượt qua điều gì...”; cũng như khơng cần phải có những lời
khun như “hãy kiên định hơn”, đừng suy nghĩ vô lý nữa”, hoặc “hãy thốt khỏi
mối quan hệ khơng lành mạnh ấy”... Thay vì thế, mục đích trị liệu là cung cấp những
điều kiện trong đó thân chủ có thể phát huy được những tiềm năng của họ trong việc
đương đầu với những trải nghiệm có vấn đề, khám phá chúng, rút ra những ý nghĩa
mới và quan trọng, và tái tổ chức những trải nghiệm sống của họ một cách sáng tạo
theo những cách thức hiệu quả hơn.
Tại sao nhà trị liệu lại khơng đơn giản cho thân chủ của mình một “câu trả lời”? Như
trong phần đầu có nói rằng con người sống trong những thế giới nhận thức khác nhau
mà nhà trị liệu có thể chỉ biết một chút ít thôi. Trong một đoạn phim nổi tiếng về buổi
làm việc của Carl Rogers với một thân chủ tên Gloria (Shostrom, 1965), vấn đề của
Gloria là cơ đã nói dối với con gái mình về sự thật là cơ đã có quan hệ tình dục khi
chưa lập gia đình. Cơ muốn Rogers cho biết rằng cơ có nên nói với con về sự thật này
không. Rogers đã từ chối và rồi ông giúp cho cô đi đến câu trả lời của chính cơ.

Trong khi xem phim, một số sinh viên của Bohart đã thể hiện sự khơng hài lịng: “Tại
sao Rogers không yêu cầu cô ta phải trung thực?”.
Một lý do để giải thích việc này đó là chỉ có Gloria mới biết được những điều tế nhị
và phức tạp thực sự trong cuộc sống của cô cũng như trong mối quan hệ giữa cơ và
con gái mình. Chính cơ mới biết được các mối quan hệ rắc rối đã góp phần làm nên


cuộc đời riêng của mình. Những điều là thơng minh đối với người ngồi có thể là
khơng đúng với người trong cuộc. Vì thế, cuối cùng thì chỉ có cơ mới có thể biết cách
làm thế nào để tái tổ chức và tổng hợp lại những yếu tố trong thế giới nhận thức của
mình để tìm ra một giải pháp cho cuộc sống của riêng cô. Nếu Rogers cho Gloria một
lời khuyên (vd, “Vâng, tốt hơn là nên thành thực”) thì điều ấy có thể có tác dụng. Tuy
nhiên, một điều khác cũng có thể xảy ra là Gloria sẽ đơn giản tuân theo lời khuyên ấy
mà không vận dụng đến sự thơng thái của riêng mình, và sự thơng thái ấy hẳn sẽ lụi
tàn dần.
Mặc dù tất cả các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm đều đồng ý khơng thiết lập mục đích
trị liệu cho những gì mà thân chủ cần phải thay đổi, nhưng họ vẫn có thể khác nhau
trong việc liệu có thiết lập mục đích về “cách thức” làm thế nào để giúp thân chủ một
cách tốt nhất trong việc tìm kiếm giải pháp. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm chính
thống thì khơng thiết lập mục đích gì cho cả thân chủ lẫn cho tiến trình trị liệu. Họ tin
rằng các thay đổi nơi thân chủ sẽ xảy ra tốt nhất là khi họ không cố gắng làm cho
chúng xảy ra, mà thay vào đó họ sẽ tập trung vào cách thức hiện diện của họ như một
nhà trị liệu đối với thân chủ. Thật vậy, mục đích mà nhà trị liệu thiết lập khi ấy là
những mục đích mà họ dành cho chính họ: phải thấu cảm, chấp nhận, tơn trọng và
hài hịa. Trong tiến trình trị liệu, nhà trị liệu, trong một ý nghĩa nào đó, làm việc trên
bản thân mình hơn là làm việc trên thân chủ. Nếu nhà trị liệu cảm thấy rằng mình
khơng hiểu được thân chủ, ơng ta sẽ cố phấn đấu để làm được việc đó. Nếu nhà trị
liệu cảm thấy mình khơng được hài hịa, ơng ta sẽ phấn đấu để trở nên hài hòa hơn.
Những nhà trị liệu theo kiểu “kinh nghiệm” và “tiến trình-kinh nghiệm” thì khơng
chấp nhận thái độ khơng hướng dẫn này. Họ cho rằng nhà trị liệu có thể “xử lý” các

mục đích và việc hỗ trợ sẽ giúp thúc đẩy một số tiến trình khám phá nơi thân chủ,
giúp thân chủ tìm được giải pháp một cách hiệu quả hơn.
Kỹ thuật và chiến lược trị liệu
Liệu pháp thân chủ trọng tâm theo truyền thống


×