Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn thạc sĩ chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM XUÂN LỘC

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM XUÂN LỘC

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 880107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi – Phạm Xuân Lộc cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi, các kết quả nghiên cứu chưa được công bố ở bất kỳ đâu. Các nguồn trích dẫn trong
luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tơi cam đoan chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Phạm Xuân Lộc


LỜI CẢM ƠN
Để có được thành quả như ngày hơm nay, tơi vơ cùng cảm ơn gia đình, cảm
ơn q thầy cô cán bộ quản lý, quý nhân viên khoa Luật học của Học viện Khoa học
xã hội, các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt cho tơi những kiến thức
vơ cùng bổ ích cho tơi mà trước đó tơi chưa từng được tiếp cận tới.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Dương Quỳnh Hoa người đã
dành nhiều thời gian, tâm huyết và tận tình hướng dẫn tơi hồn thành luận văn này.
Người thực hiện

Phạm Xuân Lộc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ...... 8
1.1 Khái niệm, đặc điểm về chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động
kinh doanh ......................................................................................................... 8
1.2. Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong sản xuất kinh
doanh ............................................................................................................... 18

1.3 Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh ............................................................................................................... 22
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH Ở VIỆT NAM ................................................................................ 34
2.1. Căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh .... 34
2.2 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh 38
2.3 Quyền yêu cầu chia sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh .... 49
2.4 Phương thức chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh 52
2.5 Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh ............................................................................................... 56
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH TẠI VIỆT NAM.................................................... 74
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng
trong hoạt động kinh doanh............................................................................. 74


3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong
hoạt động kinh doanh ...................................................................................... 76
3.3 Giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả của việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam .............................................. 82
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HN&GĐ

Hơn nhân và gia đình

Nxb

Nhà xuất bản

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

HĐXX

Hội đồng xét xử

HĐQT

Hội đồng quản trị

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

BLDS

Bộ Luật Dân sự



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình có vị trí, vai trị rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Đó là cái nơi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng để giáo dục và
hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Sự phát triển và ổn định lâu dài của gia đình
góp phần vào sự phát triển chung của tồn xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng và
vị trí của gia đình tới đời sống kinh tế xã hội, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nhằm
mục đích xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và phát triển bền vững. Bên cạnh yếu
tố tình cảm, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng thì điều kiện vật chất cũng
ảnh hưởng rất lớn đến sự bền vững của quan hệ hôn nhân. Khi hơn nhân được xác lập
địi hỏi phải có một khối tài sản chung để đảm bảo nhu cầu của gia đình. Tuy nhiên,
để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình,
pháp luật Hơn nhân và gia đình cho phép vợ chồng có thể chia tài sản chung.
Về nguyên tắc, khi hơn nhân cịn tồn tại, chấm dứt hay một trong hai bên vợ
hoặc chồng chết thì tài sản chung vẫn còn tồn tại. Trên thực tế hiện nay, việc chia tài
sản chung vợ chồng trong trong hoạt động kinh doanh xuất phát từ nhiều lý do khác
nhau: có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý sử dụng, định đoạt
tài sản chung nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu thuẫn và
được độc lập trong cuộc sống, xuất phát từ việc vợ chồng mâu thuẫn về tình cảm dẫn
đến ly hơn, xuất phát từ việc vợ hoặc chồng chết thì tài sản chung được chia cho
người còn lại. Việc chia tài sản chung trong hoạt động kinh doanh là một yêu cầu tất
yếu, thể hiện quyền tự do của vợ chồng đối với tài sản chung, đồng thời tạo điều kiện
cho vợ chồng có thể thực hiện được các yêu cầu về nghề nghiệp, tiếp tục duy trì kinh
doanh, và các nghĩa vụ riêng của mình một cách độc lập mà khơng ảnh hưởng đến
đời sống chung của gia đình. Từ thực tiễn cho thấy, vợ chồng có thể xác lập rất nhiều
giao dịch liên quan đến tài sản và sẽ không thể tránh khỏi những rủi ro như kinh
doanh thua lỗ, dẫn đến phá sản… Việc chia tài sản chung vợ chồng trong sản xuất
kinh doanh vừa để đảm bảo duy trì hoạt động doanh nghiệp vừa để ngăn chặn những


1


hậu quả rủi ro từ hoạt động sản xuất kinh doanh đó đối với gia đình, đảm bảo cho lợi
ích của gia đình. Khi xuất hiện những rủi ro trong kinh doanh thì việc giải quyết hậu
quả của những rủi ro này trong nhiều trường hợp có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kinh tế của cả gia đình, ảnh hưởng đến các điều kiện chăm sóc, ni dưỡng con cái,
ảnh hưởng đến lợi ích của những người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ
chồng và hoạt động của doanh nghiệp có tài sản chung của vợ chồng. Do vậy, quy
định về chia tài sản chung trong hoạt động kinh doanh sẽ góp phần ổn định các quan
hệ hơn nhân gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng. Từ thực tiễn nêu trên, tác giả chọn tên đề tài của Luận văn là: “Chia tài
sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” để nghiên cứu.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Gia đình có vị trí và vai trị quan trọng trong sự phát triển của xã hội nên các
vấn đề liên quan đến Hơn nhân và gia đình ln được nhiều độc giả cũng như các nhà
lập pháp quan tâm. Do đó đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các quy định của
Luật Hơn nhân và gia đình nói chung và việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân nói riêng. Cụ thể như:
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Văn Cừ (2005). Ngồi ra, cịn phải kể
đến một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả như: Luận văn thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Hồng Hải, trường Đại học Luật Hà Nội (2003) với đề tài “Xác định tài sản
của vợ chồng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Tác giả Lê Thị Hà với luận văn
Thạc sĩ “Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình theo Ḷt Hơn nhân và
gia đình năm 2000”; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Đỗ Thị Thanh Huệ với đề tài
“Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”; Khóa luận tốt nghiệp của
Tơ Quang Đơ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài “Việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Quy định pháp luật và thực tiễn”, Luận

văn cao học của Phạm Thị Tươi, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài
“Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

2


- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tuy nhiên các đề tài này chủ yếu nghiên cứu
một vài khía cạnh của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Nguyễn Phương Lan (chủ nhiệm đề tài) (2008), Tài sản của vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học
Luật Hà Nội. Cơng trình này đã tập trung nghiên cứu các khía cạnh pháp lý về tài sản
của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000. Nhìn chung, đề tài đã cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng
quan về việc sử dụng tài sản của vợ chồng vào hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ
chế giải quyết tranh chấp liên quan đến loại tài sản này.
Bên cạnh đó cịn có một số giáo trình có đề cập đến việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như: Giáo trình Ḷt Hơn nhân và gia đình của
trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Tập bài giảng
Luật Hôn nhân và gia đình, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Giáo
trình Ḷt Hơn nhân và gia đình của Đại học Huế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2003. Một số sách chuyên sâu như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Ḷt Hơn
nhân và gia đình năm 2000 của hai tác giả Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam của Tiến sĩ Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008;
Bình luận khoa học Ḷt hơn nhân và gia đình của tác giả Nguyễn Ngọc Điện, Nxb
Trẻ, 2002, và cịn có một số sách và giáo trình khác nhưng chưa có cơng trình nào đi
sâu phân tích các vụ việc thực tế về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.
Một số bài báo, tạp chí nghiên cứu về vấn đề này như: “Chia tài sản chung
của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại” của tác giả Nguyễn Văn Cừ trên Tạp chí

Tịa án nhân dân số 11 năm 2003, và Tạp chí Tịa án nhân dân số 9 năm 2000, tr.1821; “Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp
luật hơn nhân và gia đình hiện hành” của tác giả Nguyễn Hồng Hải đăng trên Tạp
chí Luật học số 5/2003; bài viết “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ

3


chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học số
6/2002…
Nhìn chung, các cơng trình kể trên hầu như các tác giả đã đề cập đến chế độ
tài sản của vợ chồng và vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân. Một số cơng trình cùng đã dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng những quy định
của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đối với việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh hiện nay có rất ít cơng
trình nghiên cứu. Một số cơng trình mà người viết đã dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp
dụng những quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Tuy nhiên các đề tài trên chưa nói đến các quy định của pháp luật, thực tiễn áp
dụng các quy định đó cũng như hậu quả pháp lý phát sinh từ việc chia tài sản chung
vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngay cả trường hợp khi hôn nhân chấm
dứt từ đó đưa ra hướng hồn thiện. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về chia
tài sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam” với nhiều khía
cạnh khác nhau như khi hơn nhân cịn tồn tại hay khi hơn nhân chấm dứt, từ góc độ
quy định của pháp luật Việt Nam nêu lên thực trạng thực tiễn phát sinh để có cơ sở
đưa ra kiến nghị phù hợp là điều nên làm trong giai đoạn hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản và pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về vấn đề này, phát hiện ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
của nó; trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này trong

điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, luận văn sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chia tài sản chung
của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh như khái niệm tài sản chung của vợ chồng,
tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh, đặc điểm của chia tài sản
chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh;

4


Làm rõ các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh
Làm rõ sự cần thiết của chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh
Làm rõ khái niệm, nội dung pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong
hoạt động kinh doanh
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện về chia
tài sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh, chú trọng nghiên cứu việc vận
dụng quy định pháp luật, tìm hiểu những bất cập, hạn chế của pháp luật khi vận dụng
những quy định trên trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ chồng.
Thứ ba, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chia tài
sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chia tài
sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề vận dụng những quy
định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: luận văn nghiên cứu việc chia tài sản chung của vợ chồng

trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Đề tài sẽ đánh giá thực tiễn thực hiện việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong kinh doanh trong khoảng thời gian từ 2015 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu những nội dung của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lê nin với phép duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, gắn với
thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật nói chung và trong lĩnh vực
pháp luật hơn nhân và gia đình và luật doanh nghiệp nói riêng.

5


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, so
sánh để nghiên cứu đề tài. Tác giả tập trung đi sâu phân tích nội dung pháp luật, tổng
hợp các quy định pháp luật từ đó đánh giá thực tiễn thực hiện, đồng thời chỉ ra những
bất cập, hạn chế khi chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng phương pháp so sánh những điểm mới của Luật
Hơn nhân gia đình năm 2014 so với quy định trước đó để thấy những điểm tiến bộ
của Luật mới cũng như những điểm vẫn còn bất cập. Thêm nữa tác giả sử dụng thêm
phương pháp đánh giá để tổng hợp và đưa ra được nhận xét chung về tình hình xét
xử chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay. Các
phương pháp trên được áp dụng xuyên suốt tại các chương của đề tài, riêng phương
pháp đánh giá, nhận xét sẽ được tác giả nêu cụ thể hơn tại Chương 2, thực trạng pháp
luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có điểm mới nhất định, bên cạnh việc hệ thống hóa và phân tích
những khái niệm, đặc điểm của vấn đề chia tài sản chung vợ chồng, luận văn còn đi
sâu làm rõ trường hợp chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của vợ chồng, hậu quả pháp lý đối với doanh nghiệp trong trường hợp chia tài
sản chung vợ chồng khi hôn nhân cịn tồn tại, hơn nhân chấm dứt hoặc một trong hai
vợ chồng chết.
Điểm mới cơ bản của luận văn là phân tích việc chia tài sản chung vợ chồng
trong hoạt động kinh doanh nhằm mục đích để đánh giá khách quan về vấn đề tài sản
trong doanh nghiệp, hậu quả pháp lý về tài sản chung của vợ chồng trong doanh
nghiệp sau khi chia tài sản chung. Trên cơ sở đó luận văn xem xét, nghiên cứu các
trường hợp chia tài sản trong doanh nghiệp của vợ chồng như tài sản trong: Công ty
cổ phần, Công ty TNHH hay Doanh nghiệp tư nhân và những hệ quả pháp lý của các
hoạt động sản xuất kinh doanh đó đối với vợ, chồng, đối với gia đình cũng như cách
giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình vợ, chồng trong kinh doanh.
Cùng với thực tiễn hành nghề công chứng, luận văn cũng nêu lên những bất cập tồn

6


tại cần giải quyết trong việc công chứng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ
chồng trong hoạt động kinh doanh.
Từ việc phân tích những nội dung trên luận văn đã nêu lên được những quy
định chưa phù hợp, những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam ở cả góc độ lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó luận văn kiến nghị một số giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và góp phần hồn
thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng
trong hoạt động kinh doanh
Chương 2: Thực trạng chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chia tài sản

chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.

7


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.1 Khái niệm, đặc điểm về chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động
kinh doanh
1.1.1 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Khái niệm tài sản
Ngày nay, trong mọi lĩnh vực của đời sống, trong các hoạt động kinh tế - xã
hội, tài sản nói chung và các điều kiện vật chất, tiền bạc nói riêng đóng một vai trò
cần thiết, đặc biết quan trọng. Tài sản là đối tượng của các giao dịch dân sự diễn ra
hằng ngày trong đời sống xã hội, từ những giao dịch phổ biến nhằm đáp ứng những
nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống như ăn, mặc, đi lại đến những giao dịch có
giá trị lớn liên quan đến nhà ở, đất đai....[14]. Ở Việt Nam, khái niệm về tài sản được
hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, theo từ điển bách khoa toàn thư mở, tài sản là
của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng, đây là cách hiểu thông
thường. Nghĩa thứ hai trong lĩnh vực pháp lý, theo Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động
sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai”. Có thể thấy rằng, theo quy định của BLDS thì tài sản được phân thành 4
nhóm chính, đó là:
 Vật: vật được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan,
con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Tuy nhiên, với lĩnh vực
pháp lý, vật chỉ có ý nghĩa khi nó là đối tượng trong quan hệ pháp luật. Con
người phải chiếm hữu, chi phối, kiểm soát được vật để đáp ứng lợi ích (nhu
cầu vật chất, nhu cầu tinh thần) của con người.
 Tiền: Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tiền là một loại hàng hóa

đặc biệt, là vật ngang giá chung thống nhất, được sử dụng làm thước đo giá trị
cho các loại tài sản. Tiền đem lại các cơng dụng hữu ích trong cuộc sống như
trao đổi, kinh doanh, tiêu dùng, dự trữ, bình ổn giá… Ở Việt Nam, tiền do Nhà

8


nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc quyền phát hành mang đơn vị
tiền tệ là Việt Nam Đồng (VNĐ).
 Giấy tờ có giá: Ngày nay, giấy tờ có giá thuộc loại tài sản giao dịch phổ biến
trong giao dịch dân sự, đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và
tổ chức tín dụng. Theo Điều 6, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010,
thì giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhấ
định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá
được bằng tiền và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Có thể kể tên một
số loại giấy tờ có giá như: Séc, tín phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu cơng
ty, cổ phiếu…
 Quyền tài sản: Quyền tài sản là quyền gắn liền với tài sản, quyền của cá nhân,
pháp nhân được pháp luật cho phép thực hiện quyền đối với tài sản của mình,
khi thực hiện quyền này, lợi ích vật chất sẽ phát sinh đối với chủ sở hữu. Theo
Điều 115 BLDS năm 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.
Khái niệm tài sản chung vợ chồng
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng phát sinh, tồn tại cùng với sự phát sinh và
tồn tại của quan hệ hôn nhân. Tài sản của vợ chồng là một phạm trù pháp lý gắn với
quyền sở hữu của vợ chồng. Xuất phát từ tính chất của quan hệ hơn nhân là cùng
chung ý chí, chung cơng sức trong việc xây dựng gia đình, đảm bảo cho gia đình thực
hiện tốt các chức năng xã hội của nó như: chăm sóc, ni dưỡng các thành viên trong

gia đình, phát triển kinh tế... nên pháp luật quy định giữa vợ chồng phát sinh tài sản
thuộc sở hữu chung.
Có thể thấy rằng, sự hình thành và phát triển của khối tài sản chung gắn liền
với hơn nhân: nếu khơng có hơn nhân thì khơng có tài sản chung; hơn nhân càng dài
thì khối tài sản chung càng có điều kiện tốt về thời gian để phát triển lớn mạnh. Trong
chừng mực nào đó, người ta nói rằng khối tài sản chung của vợ chồng được sinh ra

9


từ hơn nhân, bởi vì tất cả các tài sản mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hơn đều
là tài sản riêng. Chính từ ngày kết hơn mà khối tài sản chung bắt đầu được tích tụ từ
con số khơng. Có thể xếp các tài sản này thành bốn nhóm: Tài sản tạo lập trong thời
kỳ hơn nhân; tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoa lợi lợi tức từ tài sản riêng; tài sản mà vợ chồng thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng thỏa thuận được
gọi là tài sản chung vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng là vật và lợi ích vật chất khác thuộc sở hữu chung
của cả vợ và chồng. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu
chung của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng [35, tr.686].
Tài sản chung vợ chồng là các loại tài sản được nhận diện trên cơ sở Điều 105
BLDS năm 2015 bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản chung
của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 40 của Luật
HN&GĐ; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài
sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng
có được sau khi kết hơn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài
sản riêng [25, Điều 33]. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng là khối tài sản thuộc

quyền sở hữu của họ do tạo lập trong thời kỳ hôn nhân mà được pháp luật công nhận.
Mặt khác sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất tức là phần quyền sở
hữu của vợ, chồng không được xác định đối với khối tài sản chung và vợ, chồng có
quyền ngang nhau đối với tài sản chung.
1.1.2 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh
Khái niệm về kinh doanh
Kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội. Kinh doanh
là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài người. Theo từ điển bách khoa
toàn thư mở, hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh

10


như tập đồn, cơng ty nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của các cá nhân như
sản xuất-buôn bán nhỏ kiểu hộ gia đình. Kinh doanh là phương thức hoạt động kinh
tế trong điều kiện tồn tại nền kinh tế hàng hố, gồm tổng thể những phương pháp,
hình thức và phương tiện mà chủ thể kinh tế sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh
tế của mình (bao gồm quá trình đầu tư, sản xuất, vận tải, thương mại, dịch vụ...) trên
cơ sở vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật khác, nhằm đạt mục tiêu vốn
sinh lời cao nhất [34]. Dưới góc độ pháp luật Doanh nghiệp, Khoản 16, Điều 4, Luật
Doanh nghiệp năm 2014 nêu rằng: “kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất nên trong việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản này đòi hỏi phải có sự ưng thuận của hai vợ
chồng [14]. Trong q trình chung sống, vợ chồng có thể thoả thuận sử dụng khối tài
sản chung này cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có trường hợp vợ chồng thoả
thuận đưa tài sản chung vào kinh doanh với mục đích là sinh lời và phát sinh lợi
nhuận thu được.
Khái niệm tài sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh

Sự phát triển sôi động của nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã tác động rất lớn
đến quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Việc vợ chồng đưa tài sản chung vào kinh
doanh hoặc trực tiếp tham gia kinh doanh diễn ra khá phổ biến. Ví dụ, hộ gia đình
(trong đó có vợ, chồng) thực hiện hoạt động kinh doanh với quy mô nhỏ như cửa
hàng, sạp chợ, quán ăn [33, tr 93]. Hay vợ chồng có thể tham gia vào đầu tư, sản xuất
kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực với nhiều loại hình doanh nghiệp như cơng ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hộ
gia đình…. Khi đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như loại hình kinh doanh (hộ kinh doanh,
doanh nghiệp có hoặc khơng có tư cách pháp nhân) [14]. Có thể phân loại tài sản
thành hai loại là tài sản vơ hình và tài sản hữu hình. Theo Luật Doanh nghiệp 2014,
chủ sở hữu cổ phần hay phần vốn góp trong công ty TNHH, công ty hợp danh được

11


hưởng lợi từ quyền nắm giữ cổ phần hay phần vốn góp đó, ví dụ như quyền biểu
quyết, quyền hưởng cổ tức, quyền ưu tiên mua cổ phẩn... nên về bản chất chính là
quyền tài sản (tài sản vơ hình). Tài sản hữu hình, là loại tài sản hiện hữu có thể nhìn
thấy được bao gồm: tiền mặt, trụ sở, nhà xưởng, cơng trình xây dựng, máy móc thiết
bị, cửa hàng, hàng hoá, nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, tên thương mại, nhãn hiệu
hàng hoá… Như vậy, tài sản trong Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp
danh bao gồm tài sản vơ hình và tài sản hữu hình. Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc
kinh doanh hộ cá thể là tài sản hữu hình.
Tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh mang ý nghĩa hẹp
hơn so với tài sản chung của vợ chồng. Khi nói đến tài sản chung vợ chồng, ta có thể
hiểu nôm na bao gồm nhà cửa, xe cộ, tiền, vàng, trang sức…, các tài sản này được vợ
chồng, tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Đối với nhà cửa, xe cộ dù vợ hoặc chồng đứng
tên một mình trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng thì nó không mặc
nhiên là tài sản riêng mà vẫn là tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật

HN&GĐ. Đối với tài sản trong hoạt động kinh doanh của vợ chồng, thì tài sản này
phải được đưa vào kinh doanh rồi như nhà cửa, xe cộ, tiền, vàng, vốn góp…, tài sản
được vợ chồng góp vào cơng ty cổ phần, cơng ty TNHH hay cơng ty hợp danh thì sẽ
trở thành cổ phần hoặc vốn góp, cịn các loại tài sản khác phải làm thủ tục đăng ký
chuyển quyền cho doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các luật
khác có liên quan.
Tài sản chung vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác. Theo đó:
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, khơng địi hỏi phải có sự chuyển
giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự
phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao cho
người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản bao gồm quyền đòi nợ, quyền sử
dụng tài sản thuê, quyền trị giá bằng tiền, quyền thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu

12


trí tuệ. Những quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì khơng được chuyển giao như
quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Quyền tài sản bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác [50].
Câu hỏi đặt ra là quyền sở hữu trí tuệ có phải là tài sản chung vợ chồng hay
không, việc xác định tài sản là chung hay riêng sẽ có ý nghĩa thiết thực nếu có xảy ra
tranh chấp về tài sản nếu vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong hoạt động kinh
doanh.
Theo Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định những tài sản sau đây là tài
sản riêng của vợ chồng: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hơn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn

nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40
của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo
quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. [24, Khoản 1, Điều 44]; Tài
sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này [24, Khoản 2, Điều
44].
Căn cứ Khoản 1, Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì tài sản riêng khác
của vợ, chồng theo quy định của pháp luật bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí
tuệ là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, qua đó, quyền sở hữu trí tuệ khơng được xem
là tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh.
Chung quy lại, việc vợ chồng tham gia quan hệ kinh doanh với mục đích chủ
yếu vẫn là phát triển khối tài sản chung của vợ chồng, mang đến cuộc sống gia đình
sung túc hơn. Trong quá trình kinh doanh, khối tài sản chung của vợ chồng có thể
được “sản sinh” thêm, đó có thể là hiện vật hoặc giá trị và vợ chồng là người đại diện
hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia

13


quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy
định khác.
Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vợ chồng với tư cách là chủ
thể của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải chịu sự chi phối của Luật Doanh
nghiệp, dẫn đến việc thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của
vợ chồng phải theo một phương thức riêng, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng cũng phải được phân định tỉ mỉ cụ thể hơn nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của gia đình và đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ chồng tuân thủ

các quy định của pháp luật về kinh doanh thương mại.
1.1.3 Khái niệm, đặc điểm chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động
kinh doanh
Khái niệm chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động kinh doanh
Trong thời kỳ hôn nhân, là khoảng thời gian quan hệ hôn nhân tồn tại và được
pháp luật thừa nhận. Đối với một quan hệ hôn nhân thông thường được pháp luật thừa
nhận, thời kỳ hôn nhân sẽ bắt đầu từ ngày hai bên nam nữ ký vào giấy chứng nhận
kết hôn, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận
kết hôn cho hai bên, công nhận họ là vợ chồng hợp pháp cho đến thời điểm chấm dứt
hôn nhân do một bên vợ hoặc chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết hay do ly
hôn bằng bản án hoặc quyết định thuận tình ly hơn có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, ở
một số trường hợp nam nữ có quan hệ chung sống vợ chồng khác thì pháp luật cũng
có những cách xác định thời điểm bắt đầu của thời kỳ hôn nhân khác nhau.
Hôn nhân chấm dứt, có hai trường hợp hơn nhân chấm dứt đó là khi ly hơn và
chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết theo quy định tại Điều 65 Luật hơn
nhân và gia đình 2014. Khi ly hơn, theo Từ điển Luật học, ly hôn là chấm dứt quan
hệ vợ chồng do Tồ án cơng nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng
hoặc cả hai vợ chồng. Pháp luật bảo đảm quyền yêu cầu giải quyết ly hôn trong khuôn
khổ pháp luật nhằm tránh việc lạm dụng quyền này gây ảnh hưởng theo hướng tiêu
cực đến gia đình và xã hội. Tịa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc công
nhận thuận tình ly hơn của vợ chồng phải dựa vào thực chất quan hệ vợ chồng và phải

14


phù hợp với các căn cứ ly hôn mà pháp luật quy định. Kể từ ngày bản án ly hôn hoặc
quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ
hơn nhân chấm dứt trước pháp luật [14]. Dưới khía cạnh quy định pháp luật, Khoản
14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Khi vợ hoặc

chồng chết hay bị tịa án tun bố là đã chết, thì vợ, chồng chết được tính kể từ thời
điểm vợ, chồng chết (trường hợp này gọi là chết sinh học). Trường hợp Tòa án tuyên
bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hơn nhân chấm dứt được xác định theo
ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tịa án.
Về ngun tắc, khi hơn nhân cịn tồn tại thì chế độ tài sản chung cũng vẫn cịn
tồn tại, chế độ tài sản chung này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý
như ly hôn hay một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết. Trong giai
đoạn này, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, vì vậy khơng có
sự phân biệt ai là người có đóng góp nhiều hơn trong việc tạo lập, gìn giữ và phát
triển khối tài sản chung. Tuy nhiên, khi quan hệ hơn nhân khơng thể duy trì thì tài sản
chung cần được phân định rạch ròi phần của từng người để giúp họ ổn định cuộc
sống. Tài sản chung có thể được chia bằng hiện vật (đất đai, nhà ở, phương tiện đi
lại,…) hoặc bằng giá trị nếu không chia được bằng hiện vật. Đối với hoạt động kinh
doanh, sau khi chia tài sản chung, tài sản mà các bên được nhận có thể là nhà xưởng,
máy móc, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển hay số cổ phần cụ thể trong cơng ty
mà hai bên có quyền nắm giữ sau khi chia. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc
chia này, trong thời kỳ hơn nhân có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong
quản lý sử dụng, định đoạt tài sản chung, cũng có thể xuất phát từ mâu thuẫn về tình
cảm, song họ khơng muốn ly hôn nhưng muốn được độc lập về tài sản để tránh phát
triển mâu thuẫn và được độc lập trong cuộc sống…[43]. Khi ly hơn, tình cảm vợ
chồng mâu thuẫn hoặc ly tán dẫn đến “tàn đàn xẻ nghé” khi đó kéo nhau ra tịa u
cầu chia tài sản chung, cịn nếu mọi chuyện êm ấm thì vợ chồng hịa giải và thỏa
thuận chia trong yên bình. Khi vợ hoặc chồng chết hay bị tòa án tuyên bố là đã chết

15


thì vợ chồng cịn sống có quyền u cầu chia tài sản chung đó nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của gia đình của các cá nhân tổ chức có liên quan đến tài sản chung.
Cho đến nay, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh

chưa có một khái niệm cụ thể, nhưng qua các phân tích khái niệm nêu trên tác giả xin
đưa ra khái niệm như sau: Chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh
doanh là phân định khối tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đưa vào thực
hiện thường xuyên, liên tục các công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nḥn thành từng phần thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng khi quan hệ hôn nhân tồn
tại, chấm dứt theo bản án hoặc quyết định của Tồ án có hiệu lực pháp ḷt. Có nghĩa
là việc chia tài sản chung trong trường hợp này là một trường hợp đặc biệt, khối tài
sản này đã được vợ chồng đưa vào trong hoạt động kinh doanh rồi, được làm thủ tục
chuyển quyền cho doanh nghiệp và vợ chồng yêu cầu chia khối tài sản chung này
theo quy định của pháp luật.
Theo đó, bản chất của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động
kinh doanh chính là việc chấm dứt quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối
với toàn bộ khối tài sản chung của vợ chồng hoặc một phần khối tài sản chung của
vợ chồng đối với những tài sản đã được đưa vào hoạt động của doanh nghiệp. Những
tài sản khác không được vợ chồng thỏa thuận hay yêu cầu tòa án chia vẫn thuộc sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Sau khi phân chia, tài sản chung sẽ được chia
thành từng phần tài sản xác định và xác lập quyền sở hữu riêng của của vợ, chồng đối
với phần tài sản được chia [10, tr.15].
Một trong những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 là khơng quy đinh phải
có lý do chính đáng thì vợ chồng mới có quyền chia tài sản chung. Theo quy định cũ
tại Điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân phải ghi rõ các nội dung trong đó có nội dung là:“1. Lý do
chia tài sản” và theo quy định tại Khoản 1, Điều 29, Luật HN&GĐ năm 2000 chia
tài sản chung vợ chồng phải “có lý do chính đáng”. Qua cuộc khảo sát, trả lời câu
hỏi về các lý do chia tài sản chung của vợ chồng thì 126/454 người (27,75%) cho

16



rằng chia để đầu tư kinh doanh riêng, 104/454 người (22,9%) cho là chia để sống
riêng, 28,5% cho là do một bên có hành vi phá tán tài sản là lý do phổ biến [8, tr.11].
Có thể thấy rằng, theo quy định cũ vợ chồng phải có lý do chính đáng thì mới có thể
tiến hành chia tài sản chung được, đây là một điểm bất cập mà hiện nay, pháp luật
HN&GĐ hiện hành đã bỏ quy định này. Theo đó, khơng vì bất cứ lý do gì mà vợ hoặc
chồng đều có thể yêu cầu chia tài sản chung trong hoạt động kinh doanh. Vợ chồng
có quyền thỏa thuận những tài sản nào được chia, phần tài sản nào không chia; tỷ lệ
phần chia cho mỗi bên; các yêu cầu khác mà không trái với quy định của pháp luật.
Đặc điểm chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh:
Một là, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh
được thực hiện trong những trường hợp pháp luật quy định. Hiện nay, việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh được thực hiện khi hơn
nhân cịn tồn tại hoặc hôn nhân chấm dứt theo quy định của pháp luật. Tùy vào từng
trường hợp mà vấn đề chia tài sản chung vợ chồng sẽ được giải quyết theo các cách
khác nhau. Vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung. Việc
chia phải đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc chung theo quy định của Luật HNGĐ
hiện hành. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh
cũng mang những nét rất riêng. Bởi lẽ, đối với từng loại hình kinh doanh, pháp luật
đưa ra các điều kiện khác nhau về năng lực chủ thể, khả năng huy động vốn, trình độ
chun mơn, số lượng thành viên tham gia kinh doanh… Vì thế, đối với những tranh
chấp về tài sản khi u cầu Tịa án giải quyết có liên quan đến loại tài sản này, Tòa
án cũng phải cân nhắc một cách cặn kẽ những hệ quả có thể phát sinh sau khi chia tài
sản trong hoạt động kinh doanh đối với các bên trong mối quan hệ vừa mang yếu tố
tình cảm, lại vừa mang tính kinh tế này.
Hai là, chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh chịu sự
điều chỉnh về pháp luật hơn nhân gia đình và pháp luật về kinh doanh. Luật HN&GĐ
mang vai trò chủ đạo điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia
đình như kết hôn, ly hôn, quan hệ vợ chồng, khi một trong hai bên vợ chồng chết….
Do đó, đối với vấn đề chia tài sản chung trong hoạt động kinh doanh, đây cũng là


17


một trong những nội dung chủ yếu khi yêu cầu Tòa án giải quyết cũng chịu sự điều
chỉnh của luật này. Kinh doanh là hoạt động tương đối phức tạp với đa dạng các loại
hình, ngành nghề kinh doanh và ứng với mỗi loại hình, ngành nghề, pháp luật lại đặt
ra những yêu cầu, điều kiện nhất định. Do vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong hoạt động kinh doanh không chỉ phải tuân thủ các quy định chung trong pháp
luật về hơn nhân và gia đình mà cịn phải đảm bảo thoả mãn các quy định có liên
quan trong pháp luật về kinh doanh và luật khác có liên quan.
Thứ ba, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt động kinh doanh
không được ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Pháp luật Việt Nam ghi nhận nhiều
loại hình kinh doanh khác nhau. Cụ thể, quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014
điều chỉnh đối với các loại hình doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công
ty hợp danh, công ty TNHH (bao gồm một thành viên và hai thành viên), công ty cổ
phần và doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã năm 2012 cũng điều
chỉnh đối với mơ hình kinh doanh hợp tác xã; hay Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày
14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp cũng ghi nhận cơ chế pháp lý điều
chỉnh đối với loại hình hộ kinh doanh… Nói chung, dù với loại hình kinh doanh nào
thì cũng tạo ra cho Nhà nước những khoản thu góp phần trong cơng cuộc phát triển
kinh tế. Vì thế, khơng có lý do để việc chia tài sản chung của vợ chồng trong hoạt
kinh doanh ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh như làm thay đổi loại hình kinh
doanh vốn có hay khiến cho doanh nghiệp khơng thể tiếp tục hoạt động.
1.2. Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong sản xuất kinh
doanh
Việc chia tài sản chung vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh là cần
thiết trong cuộc sống vợ chồng đặc biệt là trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.
Bởi vì các lý do sau:
Một là, vợ chồng bình đẳng về tài sản, nên vợ chồng có quyền bình đẳng khi
tham gia các giao dịch liên quan đến hoạt động kinh doanh, được pháp luật bảo vệ,

khuyến khích nhằm phát huy mọi khả năng phát triển kinh tế.

18


×