Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Luận án tiến sĩ quyền bất cả xâm phạm về đời sống riêng tu trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.23 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HÒA

QUYÒN BÊT KHả XÂM PHạM Về ĐờI SốNG RIÊNG TƯ
TRONG PHáP LUậT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HÒA

QUYÒN BÊT KHả XÂM PHạM Về ĐờI SốNG RIÊNG TƯ
TRONG PHáP LUậT VIƯT NAM
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HỒ QUANG HUY

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ những nội dung và số liệu
trong luận văn này là do tôi nghiên cứu, thực hiện.
Những nội dung nghiên cứu, tham khảo từ các nguồn tài liệu
của cơ quan, thư viện, các thông tin trên Internet, chuyên gia, các
nhà khoa học được trích dẫn chính xác, đầy đủ, tin cậy và sử dụng
đúng theo nguyên tắc nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hòa


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình học cao học và hồn thiện Luận văn thạc
sỹ này, trước hết, tơi xin được chân thành cảm ơn đến Ban Giám hiệu nhà
trường, Quý thầy cô giáo trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều điện
thuận lợi để tôi học tập và hồn thành khóa học, đặc biệt là các giáo sư, phó
giáo sư, tiến sỹ của Khoa Luật đã trực tiếp giảng dạy, tận tình truyền đạt
những kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến Sỹ Hồ Quang Huy, Giám đốc
Nhà Xuất bản Tư pháp, Bộ Tư pháp đã giành rất nhiều thời gian, tâm huyết để
hướng dẫn, đồng hành cùng tơi trong q trình nghiên cứu và hồn thiện luận
văn tốt nghiệp này.
Nhân đây tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cơ quan, đơn
vị, cá nhân đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình điều tra, khảo sát, thu thập dữ
liệu, số liệu, tài liệu; sự cảm kích và biết ơn gia đình, đồng nghiệp, những
người bạn thân thiết đã ln ủng hộ, động viên, khích lệ tơi trong suốt q
trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tác giả


Nguyễn Thị Hòa


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ QUYỀN
BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ ................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung và giới hạn của quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư .................................................... 7
1.2. Vai trò và nội dung của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
đời sống riêng tư ..................................................................................... 16
1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư .................................................. 21
Tiểu kết Chương 1................................................................................... 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ
XÂM PHẠM VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........32
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật về quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư tại Việt Nam ............................ 32
2.2. Khung pháp luật hiện hành liên quan đến quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư ở Việt Nam hiện nay .................................... 44
2.3. Đánh giá tổng quát về khung pháp luật hiện hành của Việt Nam
về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư .................................. 57
Tiểu kết Chương 2................................................................................... 88
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CỦNG CỐ PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ Ở

VIỆT NAM..................................................................................................... 89
3.1. Quan điểm củng cố pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư ở Việt Nam.................................................................. 89
3.2. Giải pháp củng cố pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư ở Việt Nam ........................................................................ 94
Tiểu kết Chương 3................................................................................. 103
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLHS:

Bộ luật Hình sự

ICCPR: Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
UDHR: Tun ngơn thế giới về nhân quyền


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền riêng tư (right to privacy) được thể hiện qua quyền bất khả
phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; quyền bảo vệ
danh dự, uy tín của mình... Tuy nhiên, nếu như các quyền đó chỉ dừng lại ở
việc xác lập, ghi nhận thì chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, mà cần phải
luật hóa một cách rõ ràng để bảo vệ, nhằm ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý

những tình huống có thể xảy ra trên thực tế.
Trên thế giới, một số tổ chức quốc tế đã ban hành các văn bản để bảo vệ
quyền con người, trong đó có quyền riêng tư. Ví dụ, Khoản 1, Điều 17 Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966 quy định: “Khơng ai
bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình,
nhà ở, thư tín hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”.
Ở Việt Nam, Khoản 1, Điều 21 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia
đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thơng tin về đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”.
Dù vậy, trong khoảng 5 năm trở lại đây, sự phát triển của công nghệ số
và Internet, ngồi những điểm cộng mà nó mang lại như tri thức, thúc đẩy các
hoạt động kinh doanh thương mại, cũng đồng thời làm gia tăng tình trạng xâm
phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân ở Việt Nam. Bí mật đời tư bị xâm hại
ngày ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp khó lường, để lại những hậu quả
nghiêm trọng, đơn giản như việc lộ lọt thông tin cá nhân như địa chỉ số nhà,
số điện thoại, email, facebook…, cho đến phức tạp hơn như việc phát tán các
ảnh khiêu dâm, clip sex lên mạng để tống tình, tống tiền… Có những vụ việc
vi phạm cịn vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia Việt Nam khi mới đây
bà MF, quốc tịch Tây Ban Nha đã phải cầu cứu một chi nhánh của Tổ chức

1


Hợp tác con nuôi quốc tế để phản ánh về thông tin nhạy cảm bà nhận con nuôi
là bé D bị công khai trên cổng thông tin Sở tư pháp VL đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống riêng tư, tiết lộ cơng khai danh tính của bà và con bà.
Trong khi đó, mặc dù quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư đã
được quy định rõ trong Hiến pháp 2013 nhưng chưa có một văn bản pháp luật
nào của nước ta, kể cả Bộ luật Dân sự mới ban hành năm 2015, làm rõ khái

niệm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; những thơng tin nào
được coi là bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo vệ và các biện
pháp bảo đảm quyền này được thực hiện như thế nào? Việc thi hành pháp luật
về vấn đề này trên thực tế cũng còn nhiều bất cập, hạn chế, trong khi sự phát
triển về mọi mặt của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đang địi
hỏi thơng tin cá nhân (nhất là những thơng tin liên quan đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín) phải được sự bảo vệ một cách phù hợp và tương thích với luật
pháp quốc tế.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài
“Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư trong pháp luật Việt Nam” để
thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình, nhằm góp phần hồn thiện
khung khổ pháp luật Việt Nam về vấn đề này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu của
giới luật học trong nước cũng như quốc tế được cơng bố có liên quan đến bảo
vệ bí mật cá nhân, trong đó có thể nêu một số cơng trình như:
Ở phạm vi quốc tế có những cơng trình sau:
- Terms Feed (2016), Privacy laws in Southeast Asia;
- Open Society Institute, Privacy and human rights;
- Cuốn Developing key privacy right (2002) của Madeleine Colvin,
Nxb hart, nghiên cứu về những bước phát triển chính về quyền riêng tư đặt
trong mối tương quan với thực thi các quyền con người.

2


- Cuốn Data protection in the financial services industry (2006) của
Mandy Webster, Nxb Gower Publishing nghiên cứu việc bảo vệ, bảo mật dữ
liệu trong ngành dịch vụ tài chính.
Ở phạm vi trong nước, có một số cơng trình dưới đây:

- Lê Đình Nghị (2008), Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp
luật dân sự Việt Nam, Luận văn tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Là cơng trình nghiên cứu tương đối tồn diện, cụ thể về quyền bí mật
đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam trong mối quan hệ với
quyền nhân thân.
- Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), Quyền được bảo vệ đời tư trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên cứu về các nội dung cơ
bản về quyền được bảo vệ đời tư.
- Nguyễn Thị Hạnh (2017), Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bảo mật dữ
liệu cá nhân, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, trường Đại học Luật Hà Nội chủ trì;
- Hồng Lê Minh, Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013
và thực tiễn tại Việt Nam (2016), luận văn thạc sỹ luật học. Đây là luận
văn đề cập đến vấn đề bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013 nhưng vẫn
sử dụng khái niệm “quyền bí mật đời tư” trong khi Hiến pháp năm 2013
đã mở rộng hơn khái niệm này thành quyền về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình.
Một số bài viết khác như:
- Phùng Trung Tập, Bàn thêm về các quyền nhân thân của cá nhân
trong Bộ luật dân sự năm 2005, Tạp chí nghiên cứu pháp luật số 17/2013;
- Phùng Bích Ngọc, Luận bàn về quyền nhân thân đối với hình ảnh của
cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 22/2012;

3


- Lê Văn Sua, Thế nào là vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh
riêng tư?, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 6/2015.
- Trần Văn Biên, Pháp luật và vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trên mơi

trường Internet, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 9/2009.
- Hoàng Thư, Lỗ hổng pháp luật trong bảo vệ bí mật đời tư, Báo Pháp
luật Việt Nam...
Những cơng trình nêu trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin
lớn về đề tài, là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho tác giả trong việc thực
hiện luận văn là “Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư trong pháp
luật Việt Nam”. Mặc dù vậy, hầu hết các cơng trình nêu trên được thực hiện
trước khi Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành, vì
thế chưa cập nhật những quy định mới về vấn đề này ở nước ta. Ngoài ra,
chưa có cơng trình nào nhấn mạnh tính chất “bất khả xâm phạm”, cũng như
đề xuất được những giải pháp toàn diện để giải quyết những bất cập trong
việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở nước ta. Chính vì
vậy, luận văn này vẫn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, pháp luật và
thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở nước ta cho phù hợp với luật
pháp quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền bất khả xâm phạm
về đời sống riêng tư ở Việt Nam;

4


- Nghiên cứu làm rõ khung pháp luật, đánh giá thực trạng thực thi pháp
luật về bảo vệ đời sống riêng tư tại Việt Nam, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và

nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp củng cố pháp luật về bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và khung pháp luật về quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm,
nội dung, tiêu chí, yếu tố ảnh hưởng đến việc củng cố pháp luật về bảo vệ
bí mật đời sống riêng tư, pháp luật về bảo vệ thông tin đời sống riêng tư
một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Những
quan điểm khoa học ở trong nước và nước ngoài về bảo vệ đời sống riêng
tư và pháp luật về bảo vệ thông tin đời sống riêng tư; các quy định pháp
luật hiện hành về bảo vệ thông tin đời sống riêng tư ở nước ta sau khi Hiến
pháp năm 2013 được ban hành.
Xét từ góc độ cơ bản, cơ chế pháp lý là tổng hòa các yếu tố bao gồm:
các thể chế, các thiết chế và các thủ tục, trình tự bảo vệ quyền về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên
cứu, học viên chỉ tập trung nghiên cứu về các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền bất
khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình thơng qua
hệ thống pháp luật phổ biến tại Việt Nam
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân.

5



Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu dưới đây để
giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra:
- Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử…được sử
dụng để nghiên cứu tổng quan một số vấn đề lý luận về quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư;
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp trao đổi, tham kiến
chuyên gia vv… được sử dụng để tìm hiểu pháp luật và thực trạng về quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng để xem xét, tìm
hiểu vấn đề về các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam để
bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một trong những cơng trình nghiên cứu tồn diện, chun
sâu về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở nước ta từ trước tới nay.
Những phân tích, kiến giải và đề xuất trong luận văn góp phần củng cố cơ sở lý
luận để củng cố pháp luật về bảo vệ quyền này trong thực tế ở nước ta.
Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
và nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo của nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề về lý luận về quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp củng cố khung pháp luật về quyền bất
khả xâm phạm về đời sống riêng tư ở Việt Nam.

6



Chƣơng 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ
QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung và giới hạn của quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tƣ
1.1.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư
Để tìm hiểu về quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư, trước hết
cần đề cập đến quyền nhân thân, vì quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng
tư nằm trong nội hàm của quyền nhân thân.
Quyền nhân thân là một khía cạnh biểu đạt của quyền dân sự, do vậy,
về nguyên tắc thì quyền nhân thân chỉ bao hàm những gì thuộc về một cá
nhân nhất định (khơng phải của bất kỳ người nào khác). Những yếu tố của
quyền nhân thân, nhằm phân biệt người này với người khác, ví dụ như qua họ
tên, giới tính, tuổi tác, thành phần, dân tộc... Đây cũng chính là thơng tin để
loại trừ những thuộc tính khơng phải là của một thể nhân (ví dụ, của một tổ
chức, người nhân bản ...).
Hiện nay, khái niệm quyền nhân thân vẫn chưa được định nghĩa một
cách rõ ràng trong pháp luật quốc gia và quốc tế (về mặt ngôn ngữ học, gốc
của từ “nhân thân” trong tiếng Việt vốn là một từ ghép nghĩa Hán - Việt). Tuy
nhiên, Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam đã xác định một số
thuộc tính của quyền nhân thân, cụ thể như sau:
1. Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật Dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác trừ trường
hợp luật khác có liên quan quy định khác.
2. Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền
nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

7



dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải
được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo
quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc theo quyết
định của Tòa án.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân
thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự
đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường
hợp khơng có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ
của người bị tuyên bố mất tích, đã chết, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.
Trong cuốn Từ điển Luật học năm 1999 của trường Đại học Luật Hà
Nội bổ sung thêm một số dấu hiệu của quyền nhân thân, trong đó xem quyền
nhân thân là “… giá trị nhân thân của cá nhân, tổ chức được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ”. Ấn phẩm này cũng nêu rõ: “Chỉ những giá trị nhân thân
được pháp luật ghi nhận mới được coi là quyền nhân thân; Quyền nhân thân
luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp
pháp luật có quy định”.
Những yếu tố nêu trên của quyền nhân thân cũng chính là các đặc điểm
của quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư.
Khái niệm quyền về đời sống riêng tư là sự tổng hợp nội hàm của các
thuật ngữ “quyền”, “đời sống” và sự “riêng tư”. Về mặt lý thuyết, quyền là
những gì mà theo lẽ cơng bằng và chính đáng một người có thể được hưởng,
được làm, và do đó được u cầu, địi hỏi các chủ thể khác tơn trọng cách xử
sự của mình. Cịn về mặt pháp lý, quyền luôn được hiểu là những quy tắc xử
sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện, dựa trên nhu cầu của
bản thân, trong đó bao gồm cả những gì mà pháp luật quy định cụ thể và
những gì mà khơng bị pháp luật cấm. “Đời sống” được định nghĩa là “sự sinh

8



sống, hoạt động diễn ra trong cơ thể một sinh vật” hoặc “hoạt động của con
người về một lĩnh vực nào đó nói chung” hoặc “ lối sống, điều kiện sống, sinh
hoạt của con người, xã hội” [31, tr.560]. Còn “riêng tư” được định nghĩa là
“riêng của từng người, từng cá nhân” [31, tr.1333].
Cũng về mặt pháp lý, khái niệm quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư chủ yếu hàm ý quyền về đời sống riêng tư (hay quyền bí mật đời tư –
the right to privacy). Cụm tính từ “bất khả xâm phạm” chỉ mang tính tương
đối, được dùng với tính chất để nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền này
(theo Từ điển tiếng Việt “bất khả xâm phạm” là khơng ai có quyền xâm phạm
đến, đụng đến [29, tr.66]). Bởi vậy, những phân tích trong luận văn này chủ
yếu nói đến cốt lõi của nó là quyền về đời sống riêng tư.
Quyền về đời sống riêng tư đã được đề cập trong nhiều các văn kiện
nhân quyền quốc tế và khu vực. Tiêu biểu nhất trong đó là Cơng ước về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Công ước này dành hẳn một điều riêng đề
cập đến quyền về đời sống riêng tư, trong đó khẳng định:
Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào
đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xâm phạm bất
hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được
pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như
vậy [6, Điều 17].
Tại mỗi quốc gia trên thế giới tùy vào điều kiện cụ thể mà mức độ đề
cập đến quyền này ít nhiều khác nhau, tuy nhiên quyền về đời sống riêng tư
đều được coi như là một quyền con người cơ bản, được hiến định, đồng thời
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác, đặc biệt là luật dân sự. Ví dụ,
ở Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định:
Một người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của


9


mình. Thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình được pháp luật bảo đảm an tồn [20, Điều 21].
Cụ thể hố quy định này của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm
2015 nêu rõ:
Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm
phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công
khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải
được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng có cơng khai
thơng tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia
đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác; thư tín, điện thoại,
điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng
khác của cá nhân được bảo đảm an tồn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm
sốt, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các
hình thức trao đổi thơng tin riêng tư khác của người khác chỉ được
thực hiện trong trường hợp hợp quy định; Các bên trong hợp đồng
không được tiết lộ thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập,
thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác [23, Điều 38].
Tóm lại, từ những phân tích ở trên, có thể định nghĩa: Quyền bất khả
xâm phạm về đời sống riêng tư là quyền dân sự cơ bản của cá nhân, được
pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Trong
tất cả các quan hệ xã hội, cá nhân có quyền bảo vệ đời sống riêng tư của
mình và khơng một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có quyền tuỳ tiện xâm
phạm. Cá nhân được áp dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp
luật, được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi quyền về
đời sống riêng tư của mình bị xâm phạm.
1.1.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư

Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư thuộc về nhóm quyền

10


dân sự được pháp luật quốc gia và quốc tế quy định và bảo vệ. Nó cũng mang
đầy đủ đặc điểm của các quyền dân sự, mà cụ thể là các quyền nhân thân, bên
cạnh đó cịn có những đặc trưng riêng như sau:
Thứ nhất: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư luôn thuộc về
cá nhân (thể nhân), khơng thuộc về nhóm hay tổ chức (pháp nhân). Mặc dù
trong thực tế có thể có những bí mật chung về đời sống riêng tư thuộc về một
nhóm người hay một tổ chức nhất định, song những bí mật đó khơng thuộc về
quyền này, mà có thể gọi là bí mật của nhóm hay của pháp nhân. Sự phân biệt
này là để bảo đảm khơng một nhóm hay pháp nhân nào có quyền định đoạt,
sao chép thơng tin cá nhân của một người trái với mong muốn của người đó.
Thứ hai: Chủ thể được bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư là mọi cá nhân. Các cá nhân bình đẳng trước pháp luật trong việc
thực hiện quyền này, và được pháp luật bảo vệ quyền này một cách bình
đẳng. Là một trong số nhiều nội dung của năng lực bảo vệ pháp luật, quyền bí
mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và quyền nhân thân
phải là bình đẳng. Tuy nhiên, cũng có sự khác biệt về việc bảo vệ các thông
tin cá nhân trong một vài trường hợp, chẳng hạn như những người nổi tiếng
hoặc các chính khách. Đối với những người này, bí mật về đời sống riêng tư
ln là tâm điểm được cơng chúng quan tâm, vì thế khi những thơng tin bí
mật đời tư của bản thân họ được công khai đến một mức độ nhất định thì
dường như đó là câu trả lời thẳng thắn cho công chúng biết và sự soi xét
dường như cũng giảm xuống. Ngồi ra, với tính chất là “người của công
chúng”, trong nhiều trường hợp thông tin về đời sống cá nhân của họ có ảnh
hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng, vì vậy cần phải được cơng khai. Tất
cả những yếu tố này khiến cho việc sử dụng hình ảnh, thơng tin về hoạt động,

và một số dạng thông tin khác về đời sống riêng tư của những đối tượng đã
nêu không bị coi là xâm phạm đến bí mật đời tư của họ, trừ khi việc sử dụng
đó có tính chất lạm dụng hay nhằm mục đích trái pháp luật.

11


Thứ ba: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư rất quan trọng
song không phải là quyền tuyệt đối. Cụm từ “bất khả xâm phạm” – như đã
phân tích, chỉ mang tính chất nhấn mạnh, về mặt pháp lý không hàm nghĩa
là quyền này không thể bị tước bỏ hay hạn chế trong mọi trường hợp. Trong
thực tế, pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận, trong
một số trường hợp nhất định, cơ quan nhà nước có quyền có thu thập, khai
thác, sử dụng dữ liệu thông tin cá nhân phục vụ lợi ích quốc gia và lợi ích
của cộng đồng.
Thứ tư: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư của mỗi cá nhân
được ghi nhận và bảo vệ vô thời hạn, ngay cả khi cá nhân đó đã chết. Đây là
một đặc điểm chung của các quyền nhân thân. Nó có nghĩa là cá nhân từ khi
sinh ra đến khi chết đi, hoặc khi bị Tòa án ra quyết định tun là đã chết, thì
bí mật đời tư của họ vẫn được pháp luật duy trì bảo vệ. Điều này là bởi những
thông tin cá nhân của người đã chết vẫn ảnh hưởng đến cuộc sống của những
người thân thích của họ. Do đó, theo pháp luật của các quốc gia, trong trường
hợp muốn sử dụng những thông tin cá nhân của người đã chết thì phải được
sự đồng ý của thân nhân họ.
Thứ năm: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư có sự gắn bó
mật thiết với các quyền khác như: tự do ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do
hiệp hội và hội họp. Về vấn đề này, Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền (UDHR, 1948) đã khẳng định: mọi người có quyền tự do ngôn luận và
biểu đạt; quyền này bao gồm quyền tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp,
và tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thơng tin và các ý tưởng thông qua bất cứ

phương tiện truyền thông nào và không phân biệt biên giới. Điều 20 UDHR
nêu rõ: Mọi người có quyền tự do hội họp hịa bình và tự do hiệp hội. Khơng
ai bị ép buộc phải theo một hiệp hội nào. Như vậy, một người không thể bị
theo dõi giám sát ngầm về đời tư chỉ vì lý do họ thường xuyên thực hành các
quyền tự do về ngôn luận và biểu đạt, cũng như tự do tham gia vào các cuộc

12


hội họp hịa bình hoặc các hiệp hội, trừ những trường hợp thuộc phạm vi hạn
chế quyền theo luật quốc tế.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư
Quyền về sự riêng tư rất quan trọng đối với mỗi cá nhân và với xã hội.
Sự riêng tư trao cho mỗi cá nhân một không gian để được là chính mình mà
khơng bị người khác phán xét một cách vô cớ, cho phép mỗi người suy nghĩ
một cách tự do mà không bị kỳ thị hoặc phân biệt đối xử, cũng như khả năng
kiểm soát ai được phép biết gì về bản thân mình. Ranh giới chính đáng thiết
lập cho sự riêng tư của bản thân cho phép mỗi người hạn chế sự tiếp cận của
những người khác đối với thân thể, nơi ở, vật dụng, việc giao tiếp truyền thông
và thông tin của bản thân mình ở mức độ an tồn, chấp nhận được. Các
ngun tắc và quy định pháp lý về quyền về sự riêng tư đem lại cho mỗi cá
nhân khả năng bảo vệ bản thân trong những tình huống khó khăn, đặc biệt là
trong quan hệ với những đối tượng có quyền lực. Bằng việc giảm thiểu những
gì mà người khác biết về bản thân mình trong giới hạn chính đáng, sự riêng tư
là cách thiết yếu để mỗi người có thể bảo vệ bản thân chống lại việc sử dụng
quyền lực một cách tùy tiện, chống lại những người muốn nắm quyền kiểm
soát người khác một cách bất hợp pháp.
Đối với các xã hội, bảo vệ quyền về sự riêng tư của mỗi thành viên
cũng chính là tạo lập và bảo vệ nền tảng của đời sống cộng đồng. Một cộng
đồng khơng thể tồn tại nếu các thành viên của nó khơng được bảo vệ khỏi

những hình thức lạm dụng. Theo nghĩa đó, bảo vệ quyền về sự riêng tư của
mỗi cá nhân góp phần bảo đảm tính dân chủ, văn minh và sự phát triển ổn
định, hài hoà của xã hội.
1.1.4. Nội dung và giới hạn của quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư
Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư phụ thuộc phần
lớn vào cách hiểu như thế nào là “đời sống riêng tư” (privacy, hay private life).

13


Về vấn đề này, mặc dù hầu hết các học giả và nhà hoạt động nhân quyền
đều thừa nhận sự riêng tư (privacy) là một giá trị cần được pháp luật bảo vệ,
nhưng hiện vẫn chưa có định nghĩa thống nhất nào về sự riêng tư [34]. Những
cách thức định nghĩa phổ biến hiện nay về sự riêng tư thường dừng ở mức độ
chung chung, chẳng hạn, dựa trên sự không-can-thiệp (non-interference) (Warren
& Brandeis bàn về “quyền được riêng một mình” [39, tr.193-220]), hoặc ở phạm
vi quá rộng, như mức độ tiếp cận một con người (Gavison đề cập đến sự bí mật,
trạng thái cơ đơn một mình, và tính ẩn danh [38, tr.421-471]), hoặc việc kiểm
sốt thơng tin (Westin xây dựng thang đo về thái độ với sự riêng tư về thông
tin [32, p.xvi, 487]), hoặc ở phạm vi quá hẹp, như đi vào chi tiết “thân mật
riêng tư” (intimate) hoặc “nhạy cảm” (sensitive) (Inness nói đến giới hạn
phạm vi của sự riêng tư [35, p.ix, 157]).
Theo Bygrave, những cách định nghĩa nêu trên đều có thể tìm thấy
trong các văn bản pháp luật quy định về bảo vệ sự riêng tư ở các quốc gia
[36, tr. 319-348], cho thấy sự thiếu thống nhất trong quan niệm về vấn đề này
trên thế giới. Mặc dù vậy, một số học giả đã phân định “sự riêng tư” trên các
khía cạnh chính như: sự riêng tư về thơng tin (information privacy) hay còn gọi
là việc „bảo vệ dữ liệu‟ („data protection‟), sự riêng tư về mặt cơ thể (bodily
privacy), sự riêng tư về giao tiếp (privacy of communications) và sự riêng tư

về mặt khơng gian lãnh thổ (territorial privacy) [34].
Ngồi ra, cũng cần thấy rằng, khái niệm “sự riêng tư” còn có sự giao
thoa nhất định với các khái niệm như “quyền tự do” (freedom), “sự tự do”
(liberty) và “sự tự chủ” (autonomy) [40, tr.320]. Chẳng hạn, trong bối cảnh
nhất định, “sự riêng tư” được nhìn nhận như là một dạng của “sự tự chủ” - tức
là khả năng của một cá nhân kiểm sốt được dịng chảy thơng tin về chính bản
thân người đó.
Trong pháp luật quốc tế, có nhiều quy định liên quan đến sự riêng tư,

14


chẳng hạn như quy định về quyền về đời sống riêng tư (private life), sự riêng tư
(privacy), cuộc sống gia đình, giao dịch thư tín, nơi ở [37]. Tun ngơn nhân
quyền thế giới (UDHR) 1948 quy định về vấn đề bảo vệ sự riêng tư tại Điều
12, theo đó, sự riêng tư có thể được xem là một thuật ngữ bao trùm tất cả các
quyền khác nhau được đề cập trong Điều 12 UDHR, trong đó có danh dự và uy
tín cá nhân; việc bảo vệ gia đình, nơi ở, nơi cư trú, thư tín, điện thoại, thư điện
tử và các phương tiện giao tiếp điện tử khác, cũng như sự tồn vẹn về thể chất
và tinh thần. Tóm lại, theo UDHR, các loại “phạm vi” riêng tư khác nhau bao
gồm: sự toàn vẹn về thân thể; sự toàn vẹn về tinh thần; các mối quan hệ thân
thiết; và sự cần thiết bảo vệ sự riêng tư ở nơi làm việc hoặc ở nơi khác.
Về giới hạn của quyền, như đã đề cập ở phần trên, theo luật nhân quyền
quốc tế, mặc dù quyền về sự riêng tư rất quan trọng, song đó khơng phải là
quyền tuyệt đối. Quyền về sự riêng tư cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp tùy
tiện hoặc trái pháp luật của mọi thể nhân và pháp nhân, trong đó bao gồm các
cơ quan và nhân viên nhà nước, cũng như những người sử dụng lao động. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, các nhà nước có thể thu thập hoặc u cầu
cơng dân cung cấp các thông tin về đời tư nhằm bảo vệ những lợi ích chính
đáng của quốc gia, cộng đồng hoặc của người khác.

Dù vậy, để phòng ngừa sự lạm dụng, luật nhân quyền quốc tế cũng quy
định nhà chức trách chỉ có thể thu thập hoặc u cầu cơng dân cung cấp thông
tin về đời tư khi những thông tin đó thực sự cần thiết để bảo vệ những lợi ích
nêu trên [30, mục 7]. Cụ thể, bất cứ sự can thiệp hay giới hạn nào đối với
quyền về sự riêng tư cũng cần phải đáp ứng những yêu cầu sau [33, tr.5]:
- Phải tương thích với các quy định, mục tiêu, mục đích của Cơng ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR);
- Được thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy trình, thủ tục của pháp luật
quốc gia và quốc tế;

15


- Lý do và quy trình, thủ tục phải được quy định trong pháp luật mà
cơng chúng có thể tiếp cận đầy đủ, các biện pháp can thiệp phải được xác
định rõ ràng, cụ thể, chính xác để cá nhân bị tác động có thể dự liệu được
trước bất cứ sự can thiệp nào;
- Có sự liên hệ một cách phù hợp và tương xứng với những mục tiêu
hợp pháp của nhà nước, chẳng hạn như để thực thi pháp luật hoặc để bảo vệ
an ninh quốc gia, qua đó giảm thiểu tối đa khả năng tước bỏ hoặc hạn chế
quyền về sự riêng tư, trên cơ sở có sự cân bằng giữa việc thực hiện mục tiêu
của nhà nước và những giới hạn của quyền.
1.2. Vai trò và nội dung của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
đời sống riêng tƣ
1.2.1. Vai trò của pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư
Là một quyền con người cơ bản, quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư có ý nghĩa đặc biệt với mỗi cá nhân và với tồn xã hội. Tuy nhiên,
với tính chất là một quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư cần phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Ở đây, pháp luật có

vai trị là cơng cụ hiện thực hố những nhu cầu, lợi ích chính đáng của con
người vào thực tế cuộc sống.
Trong bối cảnh ở Việt Nam, vai trò của pháp luật với việc bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư thể hiện cụ thể qua những khía
cạnh sau đây:
Thứ nhất: Pháp luật thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản về quyền con người nói chung, trong đó có quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư thành các quy tắc cư xử có tính bắt buộc với mọi
chủ thể trong xã hội.

16


Từ trước đến nay, nhất là trong vài thập niên gần đây, vấn đề quyền con
người, quyền công dân được Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm. Chỉ thị
số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “vấn đề
quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta” đã khẳng định quan
điểm của Đảng về quyền con người, trong đó xem quyền con người là giá trị
chung của nhân loại, đồng thời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của loài
người, gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Quan điểm đó tiếp
tục được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội
Đảng. Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: “Cần quan
tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tơn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết” [7].
Trên cơ sở đường lối của Đảng Cộng sản, Hiến pháp năm 2013 đã có
nhiều sửa đổi, bổ sung chế định quyền con người, quyền công dân; trong đó
có những quy định mới về nội hàm của quyền riêng tư: “Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, có

quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình” [20, Điều 21]. Quy định này cụ thể
và toàn diện hơn so với quy định về quyền riêng tư trong Hiến pháp năm 1992
(Hiến pháp 1992 chỉ nói đến quyền không bị xâm phạm về chỗ ở, thư tín, điện
thoại, điện tín, khơng nói đến quyền về sự riêng tư theo nghĩa rộng).
Thứ hai: Pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền về sự riêng tư của mỗi
cá nhân trước mọi sự xâm phạm trái phép, đồng thời cũng là cơ sở để nhân
dân giám sát việc các cơ quan nhà nước thực thi trách nhiệm của mình trong
việc bảo đảm quyền này của người dân.
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất dẫn đến sự ra đời của các quy
định pháp luật về bảo vệ quyền về sự riêng tư (mà qua đó cũng thể hiện vai

17


trò cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền này) đó là nhằm bảo vệ cá nhân
trước những hành vi xâm phạm đời tư của rất nhiều chủ thể khác nhau, trong
đó bao gồm các cơ quan và quan chức nhà nước. Đời sống riêng tư là khái
niệm rộng, bao trùm hầu hết lĩnh vực và hoạt động của con người, vì thế rất
dễ bị tuỳ tiện xâm phạm. Vì thế, pháp luật, với tính chất là đại lượng công
bằng, là công cụ để thực thi công lý, là không thể thiếu và được coi là tấm lá
chắn của mỗi cá nhân trước những hành vi xâm phạm quyền này, cho dù từ
bất kỳ chủ thể nào.
Trong thực tế, bảo vệ đời sống riêng tư là trách nhiệm của Nhà nước và
toàn xã hội, được thực thi qua nhiều cơ chế, cách thức khác nhau, nhưng
trong đó cơ chế pháp lý là quan trọng và hiệu quả nhất. Mỗi cá nhân, với tư
cách là chủ thể của những bí mật đời tư, có quyền được pháp luật bảo vệ, cịn
các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện sự bảo vệ đó, bao gồm việc
kiềm chế khơng tuỳ tiện xâm phạm đời tư của công dân, và thực thi các biện
pháp để ngăn ngừa và xử lý những vi phạm quyền này.
Thứ ba: Pháp luật tạo hành lang pháp lý cho chính cá nhân là chủ thể

của quyền và các chủ thể khác các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân
khác) có thể tìm kiếm, khai thác hợp pháp và hiệu quả những thông tin thuộc
về các cá nhân, miễn là trong phạm vi hợp lý, để phục vụ các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và trong cuộc sống, từ đó tạo ra động lực phát triển và nguồn
lực, giá trị cho xã hội.
Trong thời đại cơng nghệ số hóa như hiện nay, thơng tin nói chung và
thông tin cá nhân là một nguồn lực quý giá nếu được khai thác hợp pháp, hợp
lý và hiệu quả. Đối với cá nhân, pháp luật bảo vệ thông tin cá nhân bảo đảm
tính hợp pháp trong việc chia sẻ những thông tin của họ và của người khác
trong phạm vi cả trong và ngồi biên giới, từ đó giúp hỗ trợ các quyền công
dân được phát huy tối đa. Đối với cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp, việc sử

18


dụng thông tin cá nhân cũng rất cần thiết để mang lại lợi ích vật chất cũng
như tinh thần cho cá nhân đó hoặc những lợi ích cao hơn. Đặc biệt, trong bối
cảnh các quốc gia đang xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh, nền
kinh tế số… thì việc sử dụng thơng tin cá nhân là rất cần thiết. Mặc dù vậy, để
bảo đảm hài hoà lợi ích của cá nhân và của cộng đồng, cũng như để bảo vệ
quyền về đời tư của mọi người, cần có những quy định pháp luật xác lập
những giới hạn rõ ràng và những trường hợp loại trừ để những chủ thể sử
dụng thông tin cá nhân không phải chịu những hậu quả pháp lý. Đây là vai trò
quan trọng của pháp luật về bảo vệ bí mật thơng tin cá nhân nói riêng và về
quyền được bảo vệ đời sống riêng tư nói chung.
1.2.2. Nội dung pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư
Pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư ghi nhận
nguyên tắc là mọi cá nhân được giữ bí mật về thơng tin của mình, xem đó là
quyền nhân thân gắn liền với cá nhân.

Như đã đề cập ở phần trên, mục đích cốt lõi của quyền về sự riêng tư là
để tôn trọng, bảo vệ cái “riêng” trong cái “chung”, cụ thể ở đây là những đặc
tính cá biệt và không gian, lối sống riêng tư của cá nhân trong cộng đồng. Do
đó, hạt nhân để xác lập các quyền, nghĩa vụ của cá nhân trong những vấn đề
riêng tư chính là quyền tự quyết định của cá nhân đối với nhưng thơng tin về
bản thân mình. Từ cách tiếp cận đó, có thể xác định những nội dung cụ thể
của pháp luật về quyền về sự riêng tư như sau:
Thứ nhất: Quy định về quyền được biết
Quyền được biết là quyền của cá nhân, với tư cách chủ sở hữu những
thơng tin về bản thân mình, được biết những thơng tin đó đã, đang nằm ở đâu
và được sử dụng bởi ai, nhằm mục đích gì? Quyền này là tiền đề để thực hiện

19


×