Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Học thuyết mac về hình thái kinh tế – xã hội và sự vận dụng của đảng ta trong thời kì đổi mới gắn với hoạt động ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.98 KB, 24 trang )

Tiểu luận triết

Tiểu luận triết học

HỌC THUYẾT MAC VỀ HÌNH
THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI GẮN
VỚI HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG


Tiểu luận triết
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Mọi người đều biết, trong lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đã có
khơng ít cách tiếp cận khi nghiên cứu sự phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân
chia lịch sử tiến hóa của xã hội theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà
xã hội học Vi – cô ở Italia (1668-1744) đã phân chia các thời kì phát triển
của xã hội giống như phân chia các giai đoạn của một đời người: thơ ấu,
thanh niên, thành niên và tuổi già. Nhà triết học duy tâm Hê-ghen (1770 1831) phân chia lịch sử xã hội loài người thành ba thời kì chủ yếu: thời kì
phương Đơng, thời kì cổ đại và thời kì Giéc- ma- ni . Nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng Pháp Phu- ri- ê (1722-1837) chia lịch sử xã hội thành bốn giai
đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai
đoạn văn minh. Cịn nhà nhân chủng Mỹ Hang- ri Mc- găng ( 1818-1881 )
lại phân chia xã hội thành ba thời đại : thời đại mông muội , thời đại dã man
và thời đại văn minh..
Mọi người cũng đã quen với những khái niệm : thời đại đồ đồng , thời
đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước, và gần đây là các nền văn minh : văn
minh nông nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Mỗi cách tiếp cận nêu trên có những điểm hợp lí nhất định, và do đó đều
có ý nghĩa nhất định, nhưng chưa nói lên bản chất sự phát triển của xã hội


một cách toàn diện, tổng thể, do đó mà cịn hạn chế.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lí luận và tổng kết quá trình lịch sử
đã hình thành nên học thuyết về hình thái kinh tế -xã hội. Hình thái kinh tếxã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những mối quan hệ sản
xuất.


Tiểu luận triết
Là sự biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật lịch sử, lí luận về hình
thái kinh tế – xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét cả lực
lượng sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức toàn bộ các
yếu tố cấu thành bộ mặt của một thời đại: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
khoa học, kỹ thuật. Do đó, nó cắt nghĩa xã hội được sáng tỏ hơn, toàn diện
hơn, chỉ ra cả bản chất và quá trình phát triển của xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay, Đảng ta đã vạch ra con
đường phát triển của đất nước: "Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."
Đề tài "Học thuyết Mac về hình thái kinh tế – xã hội và sự vận dụng
của đảng ta trong thời kì đổi mới gắn với hoạt động ngân hàng" là một
đề tài mang tính chất sâu rộng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong nhận thức,
đánh giá về đường lối chính sách. Nghiên cứu vấn đề đó là một tất yếu
khách quan vì nó khơng chỉ có ý nghĩa về phương pháp luận mà cịn có giá
trị lớn trong thực tiễn.


Tiểu luận triết
B.NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN

Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác như Lênin đánh giá là thành tựu vĩ
đại nhất của tư tưởng khoa học, trong đó cốt lõi là học thuyết hình thái kinh
tế-xã hội. Giai cấp tư bản không thể chấp nhận được học thuyết này vì trong
đó đã luận chứng một cách khoa học chặt chẽ chế độ tư bản sẽ bị thay thế
bằng chế độ cộng sản chủ nghĩa theo quy luật chung của tiến hóa xã hội, mà
chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã tìm ra.
Bằng sự nghiêm túc khoa học, chúng ta thấy rằng cho đến nay chưa có
học thuyết nào về tiến hóa xã hội có thể thay thế được học thuyết Mác về
hình thái kinh tế-xã hội. Học thuyết này đem đến cho chúng ta cơ sở phương
pháp luận để nhận thức quy luật phát triển xã hội và một niềm tin khoa học
vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật của Mác đã nhìn nhận học thuyết hình thái
kinh tế-xã hội là một quy luật phát triển của xã hội.
Từ đó ta đi tới khái niệm: hình thái kinh tế-xã hội
“ Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy”
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội xuất phát từ những nhận
thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân lịch sử tiến
hóa của xã hội theo những cách khác nhau.
Đơn cử như triết gia duy tâm Hê-ghen(1770-1831) phân kì lịch sử xã
hội lồi người thành ba thời kì chủ yếu:Thời kì Phương Đơng, thời kì cổ đại
và thời kì Grec-mani. Và như nhà xã hội không tưởng của Pháp là Phu-riê(1772-1831) chia lịch sử xã hội thành bốn giai doạn: giai đoạn mông


Tiểu luận triết
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để

nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành
nên học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội với tư cách là: " Hòn đá tảng" của xã
hội học Mác Xít nói chung cho phép chúng ta hình dung quá trình phát triển
của lịch sử là q trình lịch sử tự nhiên.
Lồi người đã trải qua năm hình thái kinh tế-xã hội theo thứ tự hình thái
kinhtế-xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế-xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời và diệt vong. Chế độ
xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế nó. Đó là khi
phương thức sản xuất cũ đã trở nên lỗi thời, khủng hoảng do mâu thuẫn của
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi hình thài kinh
tế-xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế, xét cho cùng
do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất qua các hình thái kinh
tế- xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao.
Quan hệ sản xuất, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất- là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã
hội khác. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của
nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất là một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã
hội khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của của
lịch sử.
Xuyên tạc, cắt xén nội dung học thuyết để phủ nhận học thuyết.
Điển hình của loại quan điểm này là quy lý luận của Mác thành quyết định
luật kinh tế với nghĩa coi kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định sự vận động


Tiểu luận triết
và phát triển của xã hội. Điều này đã bị chính Ăng Ghen bác bỏ- Dùng chính

lý luận hình thái kinh tế- xã hội để bác bỏ sự ra đời của các nước xã hội chủ
nghĩa, cho rằng nó trái với q trình lịch sử- tự nhiên rằng cách mạng tháng
Mười "Đẻ non"...do chỗ dựa chưa có ''tất yếu kinh tế" cứ để qua chế độ tư
bản chủ nghĩa rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản theo đúng
quy luật". Lúc còn sống Lênin đã bác bỏ quan điểm này, song đến nay vẫn
tồn tại, kể cả biến thể của nó là loại quan điểm cho rằng chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do hệ tư tưởng Mác-Lênin
sai trong đó có"lý luận hình thái kinh tế-xã hội". Đối với nước ta những năm
gần đây cũng có một số ý kiến tương tự, cho rằng ta chưa có"tất yếu kinh tế"
để lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và để bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Bác bỏ gián tiếp: Loại quan điểm này thể hiện dưới dạng: Chứng
minh chủ nghĩa xã hội không có tương lai, tất yếu bị diệt vong. Chủ nghĩa tư
bản là nấc thang cao nhất của lịch sử xã hội, nó tồn tại vĩnh viễn.
Muốn thay thế học thuyết hình thái kinh tế xã hội bằng học thuyết
khác. Điển hình cho loại quan điểm này là tiếp cận theo nền văn minh. Xã
hội phát triển từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và
văn minh hậu công nghiệp. Sai lầm căn bản của cách tiếp cận này là "coi
trình độ phát triển khoa học, cơng nghệ, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết
định duy nhất bỏ qua vai trò của quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ chính trị".
Qua đó chúng ta rút ra: ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế- xã
hội và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội vạch ra nguồn gốc, động lực bên
trong của sự phát triển xã hội, tìm ra nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện
và biến đổi những hiện tượng xã hội đặt ra cơ sở lý luận cho khoa học và xã
hội học nâng nó lên thành khoa học thực sự. Chống lại quan điểm duy tâm
về lịch sử, coi xã hội là sự kết hợp có tính chất máy móc của nhiều cá nhân


Tiểu luận triết

và gia đình, coi sự vận động và phát triển của xã hội là lý do ý chí của những
nhà cầm quyền chi phối, coi kỹ thuật là cái chung quyết định tính chất chế
độ xã hội, là tiêu chuẩn khách quan phân biệt các hình thái kinh tế-xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội vũ trang cho chúng ta phương
pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển xã hội qua các chế độ xã hội khác
nhau, hiểu rõ cơ cấu chung của hình thái kinh tế-xã hội và những quy luật
phổ biến tác động, chi phối sự vận động và phát triển của xã hội
Rõ ràng, học thuyết Mác về hình thái kinh tế -xã hội là một thành tựu
vĩ đại của khoa học xã hội, là một bước tiến khổng lồ trong lịch sử tư tưởng
nhân loại. Sự ra đời của học thuyết này là một cuộc cách mạng trong toàn bộ
quan niệm về lịch sử xã hội.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội đối lập với quan niệm
trừu tượng, duy tâm về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội nói chung, một
xã hội cấu thành chỉ bởi những con người tự nhiên sinh vật. Nó đánh đổ hẳn
quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính máy móc, có thể biến đổi
tùy ý theo đủ mọi kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hóa một cách ngẫu nhiên.
Các- Mác đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội và phân tích xã
hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động và phát triển của nó. Từ đó dự báo
về sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cao hơn là: Cộng sản chủ nghĩa mà
giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu
xã hội chủ nghĩa. Đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời
đại,và tuy nhiên chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ
biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên phải trải qua nhiều
khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Chúng ta phải trải qua những bước đi
tất yếu mà không thể bỏ qua được. Chúng ta phải kế thừa và phát triển để tạo
ra những tiền đề cần thiết cho chủ nghĩa xã hội trên tất cả các mặt: từ lực


Tiểu luận triết

lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng
tầng.
II. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG HIỆN NAY GẮN VỚI HOẠT
ĐỘNG NGÂN HÀNG
1. Thực trạng kinh tế:
1.1Những thành tựu và tiến bộ
Nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá.
Năm 1997, GDP tăng 9% cao hơn bình quân của năm trước là 8,2%. Năm
1999, tăng 4,7%- 5%.
Theo số liệu Ban chấp hành Trung ương Đảng- Hội nghị lần thứ VIII- khóa
8 thì mức độ thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của nền kinh tế nước ta năm
1999 như sau:
- Tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng 4,7%- 5%
- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2%- 5,5%
- Sản lượng lương thực quy thóc đạt 33,8 triệu tấn.
- Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 10,3%- 10,5%
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 3,5%- 3,8%
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 14,3%
- Lạm phát 2%
- Bội chi ngân sách 4,9%(so với GDP)
- Số hộ đói nghèo giảm 40 vạn hộ.
- Tạo việc làm mới cho 1,2 triệu người.
- Số tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ là
58/61 tỉnh.
-Trong hồn cảnh có nhiều khó khăn và thách thức nhưng nền
kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Mặc dù GDP năm 1999 tăng 5%


Tiểu luận triết
so với năm 1998 có kém hơn so với tốc độ của các năm trước nhưng mức

tăng trưởng đã nhích dần từng tháng, từng quý: Quý I, GDP tăng 4,2%- Quý
II tăng 4,5%- Quý III tăng 5%... làm xuất hiện khả năng chặn đà giảm sút,
tuy còn phải phấn đấu rất cao mới biến khả năng đó thành hiện thực.
Đặc biệt giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,2% so với năm 1998, mức tăng
cao nhất từ trước tới nay và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Với sản lượng
lương thực 33,8 triệu tấn đủ khẳng định khả năng của ngành nông nghiệp
với nền kinh tế quốc dân là rất lớn. Cùng với nông nghiệp trồng trọt các
ngành khác như chăn nuôi, đánh bắt thủy sản, hải sản đều có mức tăng
trưởng khá và ổn định.
Về cơng nghiệp, mặc dù chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng trên thế
giới, cũng như khu vực, thị trường bị thu hẹp, đầu tư nước ngoài giảm nhưng
mức tăng trưởng vẫn duy trỳ trên 10%, đó là một sự cố gắng lớn của tốn
ngành cơng nghiệp. Nhất là sản phẩm quan trọng có nhu cầu lớn và thị
trường đạt mức tăng trưởng khá so với năm 1998: Dầu thô tăng 20,5%, điện
tăng 8,2%, thép tăng 11,8%, may mặc tăng 12%, xe đạp tăng 16,3%, động
cơ Diêzen tăng 31%...
Các cân đối kinh tế vĩ mô được duy trỳ tạo điều kiện cho phát triển.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn kế hoạch dự kiến, thu hẹp đáng kể
chênh lệch xút nhập khẩu.
Trong điều kiện, bối cảnh kinh tế thế giới giảm sút, thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp, giá hầu hết các mặt hàng giảm mạnh nhưng tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu cả nước năm 1999 vẫn đạt 10,7 tỷ USD, vượt hai lần so với kế hoạch
dự kiến.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 11,3 tỷ USD giảm 2% so với năm 1998
làm cho mức nhập siêu khoảng 600 triệu USD, bằng 5,6% so với kim ngạch


Tiểu luận triết
xuất khẩu. Đây là mức thấp nhất trong nhiều năm qua, nhờ có cán cân thanh
tốn quốc tế cả năm có được cải thiện, bội thu khá làm cho dự trữ ngoại tệ

được tăng lên.
Trong bối cảnh đầu tư nước ngoài giảm do hậu quả của khủng hoảng kinh tế,
tài chính trong khu vực và trên thế giới, với tư tưởng chỉ đạo của TW4 và
nghị quyết TW6 lần 1, chúng ta đã có một bước tiến trong việc phát huy nội
lực để bù đắp và bổ xung một phần thiếu hụt cho đầu tư phát triển do sự
giảm sút của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Đánh giá sơ bộ cho thấy tổng đầu tư xã hội năm 1999 đạt 105 ngàn tỉ (tăng
9% so với năm 1998), đây là một sự cố gắng lớn. Nét nổi bật là trong khi
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngồi giảm từ 24,3 ngàn tỉ (năm 1998) xuống
cịn 18,8 ngàn tỉ đồng (năm 1999) nhưng tổng vốn đầu tư phát triển vẫn tăng
9%. Điều đó nói lên tư tưởng phát huy nội lực của các Nghị quyết Trung
ương bước đầu đi vào cuộc sống.
Nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội đã được tập trung đầu tư nhiều hơn cho
nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển công nghiệp chế biến và các
ngành công nghiệp then chốt, xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, bưu điện,
giáo dục, khoa học cơng nghệ, y tế, văn hóa...
Thu ngân sách có nhiều cố gắng đạt dự tốn năm. Việc thơng qua và
đưa vào áp dụng lần đầu tiên ở nước ta thuế V.A.T là một cố gắng lớn, bước
đầu có sự chuyển biến tích cực ở một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Như vậy, mặc dù đứng trước hoàn cảnh kinh tế thế giới giảm sút, khủng
hoảng kinh tế thế giới và khu vực, nhưng nền kinh tế nước ta cơ bản có sự
phát triển và đổi sắc, góp phần nâng cao cuộc sống của người dân, ổn định
xã hội. Thành tựu đó là phần góp của mọi người dân lao động, công nhân
sản xuất và sự lãnh đạo tài tình của Đảng về mọi mặt của xã hội.
1.2 .Những mặt yếu kémvà tồn tại:


Tiểu luận triết
Mặc dù duy trì được sự ổn định trong bối cảnh phức tạp, song tình hình
kinh tế xã hội còn chứa đựng những yếu tố đáng lo ngại.

- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp từ năm 1990 đến nay, cụ thể:
Giai đoạn 1991-1995 GDP tăng 8,2%, năm 1996 tăng 9,3%, năm 1997 tăng
8,2%, năm 1998 tăng 5,8%, năm 1999 GDP chỉ tăng 4,7%-5% và vẫn trên
đà giảm sút, mặc dù nhịp độ giảm sút có chậm lại. Nếu khơng có biện pháp
đủ mạnh “chặn đà suy giảm và phục hồi nhịp độ tăng trưởng” cao thì khó có
khả năng đạt được những mục tiêu chính sách đến năm 2020 là cơ bản biến
nước ta thành nước công nghiệp và gần đây nhất là các chỉ tiêu kinh tế năm
2000.
Mức sản xuất bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ do thị trường ngày càng thu
hẹp và càng khó tính trong khi chúng ta chưa bắt kịp được với thời thượng.
Các biện pháp kích cầu mới được triển khai chưa phát huy được tác
dụng như mong muốn làm cho thị trường kém sơi động, một số sản phẩm
vẫn cịn tồn đọng, dư thừa.
Khu vực dịch vụ tăng quá quá chậm, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 3,53,8% (kế hoạch đề ra là 4-5%) thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm trước
là 6%. Ngành thương nghiệp chiếm tỉ trọng cao thong lĩnh vực dịch vụ
nhưng chỉ đạt mức tăng trưởng dưới 2%.
Tốc độ tăng tỉ trọng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng giảm dần:
từ 28%GDP (năm 1997) xuống còn 26,7% (năm1998) và 26,3% (năm
1999). Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vẫn tiếp tục giảm mạnh. Điều
này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở những năm đầu thế kỷ XXI.
Chỉ số giá tiêu dùng giảm mạnh dẫn đến hàng hóa ứ đọng, thị trường
kém sơi động, cơ hội và mơi trường đầu tư cịn bấp bênh. Tỉ lệ nợ quá hạn


Tiểu luận triết
trong hệ thống tín dụng vượt quá giới hạn an tịan (mức an tồn là 5%,
nhưng hiện nay đã lên tới 14%). Trong số nợ quá hạn thì trên 7% là nợ khó
địi. Đây là vấn đề bức xúc trong ngành tín dụng-ngân hàng.

Một vấn đề được tồn xã hội quan tâm đó là tình trạng thất nghiệp. Hiện
nay thất nghiệp ở Hà Nội đã dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội vì tỷ lệ thất nghiệp
đã lên tới 10%, Thành phố Hồ Chí Minh 7%. Đặc biệt ở nông thôn số thời
gian lao động mới được sử dụng khoảng 70%.
* Một số vấn đề cản trở sự phát triển:
Vấn đề chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp vẫn là tồn tại lớn nhất
của nền kinh tế nước ta, vấn đề này đã được hội nghị trung ương khóa VIII
chỉ ra song trong hai năm qua khơng có chuyển biến tích cực. Biểu hiện rõ
nét nhất là chi phí vật chất trong việc sản xuất kinh doanh có chiều hướng
tăng cao và khó tiêu thụ. Chi phí sản xuất vật chất tồn bộ các ngành kinh tế
chiếm khoảng 48% trong giá trị sản xuất năm 1998 và tăng lên 50% trong
năm 1999.
Sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta đã thấp lại càng thấp hơn khi các nền
kinh tế bị khủng hoảng trong khu vực đang có dấu hiệu phục hồi. Điều này
chúng ta khơng thể đổ lỗi cho các ngành sản xuất kinh doanh vì trình độ phát
triển của kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội: Điện, nước, đường, bến cảng, viễn
thông... ở nước ta còn thấp.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm nên chưa phát huy được nguồn lực các
thành phần kinh tế trong từng ngành và từng vùng để phát triển. Đặc biệt
khu vực kinh tế Nhà nước: Chỉ có 21% các doanh nghiệp, thậm chí 15-20%
có nguy cơ bị phá sản. Việc thực hiện cổ phần hóa và các bện pháp sắp xếp
đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế.
Ngân sách Nhà nước ln trong tình trạng căng thẳng bởi vì quy mơ kinh tế
cịn q nhỏ bé, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, tỷ lệ thất thu lớn dẫn


Tiểu luận triết
tới chi đầu tư phát triển ngân sách chủ yếu còn phải dựa vào nguồn vay
trong nước và nước ngồi.
Chất lượng tín dụng thấp cũng là tồn tại lớn cản trở phát triển bền vững của

nền kinh tế nước ta. Nợ quá hạn cao hơn mức dự kiến (5%- mức dự kiến).
Gây khó khăn cho ngân sách quốc gia.
Chúng ta chủ trương thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, nhưng đến nay các yếu tố của kinh tế thị trường chưa hình thành đồng
bộ, mơi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng chưa được tạo lập đầy đủ.
Trong chính sách, thể chế quản lý của Nhà nước cịn tồn tại nhiều hình thức
hành chích bao cấp, vẫn mang nặng cơ chế "Xin -cho", gắn với thủ tục phiền
hà thiếu tính cơng khai, nhưng lại có nhiều mặt bng lỏng quản lý, khơng
giữ được trật tự kỷ cương. Tình hình đó khiến cho kinh tế vận hành trục trặc,
không ăn khớp...
Từ những nhận định và đánh giá ấy ta đi tìm nguyên nhân của thành tựu
thắng lợi cũng như những mặt tồn tại và yếu kém.
1.3 . Đánh giá chung nguyên nhân
Đánh giá khái quát tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1999
kết luận của hội nghị Trung ương 8 ghi rõ:
- Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1999
theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 6 (lần 1) và nghị quyết
06 của Bộ chính trị, mặc dù gặp phải khó khăn và thách thức to lớn do
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới chúng ta vẫn duy trì được
tốc độ tăng trưởng khoảng 5%.
Theo số liệu thống kê của bá Nguyễn Thị Hằng - Đăng trên tạp chí Cộng sản
2/2000.
Hàng năm chúng ta giải quyết việc làm mới cho 1,2 -1,3 triệu người lao
động có trình độ nghề.


Tiểu luận triết
Đời sống của tuyệt đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỉ lệ đói
nghèo cả nước đã giảm từ 20,3%(năm 1995)- xuống 14% (1999).
Bình quân mỗi năm giảm 300 ngàn hộ (2% tổng số hộ đói nghèo) 805 người

có cơng đã có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư
cùng xã, phường nơi cư trú.
Để đạt được những thành tựu đó là do: Sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn
dân, toàn Đảng, sự cố gắng của các ngành, các cấp thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4, và Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1).
Cơ chế, chính sách, pháp luật đã được đồng bộ hóa thêm một bước. Cơng tác
chỉ đạo, điều chỉnh của Chính phủ, các ngành, các cấp có tiến bộ. Bám sát
kịp thời những biến động bất thường trong tình hình kinh tế - xã hội.
Một số mặt tồn tại và yếu kém của Đảng- Nhà nước ta xuất phát từ các
nguyên nhân sau:
Công tác dự báo có cố gắng nhưng cũng có nhiều thiếu sót là một trong
những nguyên nhân dẫn đến cơ cấu đầu tư kém hiệu quả. Khó khăn ngày
càng tồn đọng là áp lực đè nặng lên sự phát triển.
Các chính sách, cơ chế được ban hành chưa thực sự đồng bộ, hợp với thực
tiễn và thực hiện các đường lối kinh tế vừa chậm và vừa không đến nơi, đến
chốn.
Thu nhập dân cư thấp, thị trường bị thu hẹp, nên sức mua bị hạn chế, giá thị
trường giảm liên tục, sản xuất có dấu hiệu bị đình trệ, hàng tồn kho tăng nên
kìm hãm sự phát triển.
Các doang nghiệp trong nước chậm chuyển biến, không gắn kết sản xuất với
thị trường trong từng sản phẩm, dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm đầu tư
theo hướng phát triển năng lực sản xuất không chú ý tới đầu ra của sản
phẩm, gây ứ thừa, tồn kho, thiệt hại tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp.


Tiểu luận triết
Nguồn lực phát triển của đất nước chưa đủ sức điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế
theo hướng phát huy lợi thế trong ngành, vùng.
Huy động vốn trong dân cư còn thấp nên dự trữ tiền tệ trong tín dụng ngân
hàng chưa cao, chưa phát huy được những tiềm lực kinh tế.

Cuối cùng là bộ máy quản lý điều hành còn cồng kềnh trùng lặp chức năng.
Sự phối hợp giải quyết các công việc giữa các ngành, các cấp chưa chặt chẽ.
Phân công công việc chưa rõ ràng, chưa đảm bảo tập trung thống nhất lại
vừa thiếu dân chủ trong điều hành nên gây nhiều chủ trương, quyết định
đúng đắn không được tổ chức triển khai kịp thời nên hiệu quả kém.
Trên đây ta đã nghiên cứu thực trạng kinh tế Việt Nam trong những năm đổi
mới đặc biệt là năm 1998-1999 là hai năm đánh dấu những bước ngoặt kinh
tế của thế kỷ XX mở đầu cho những định hướng kinh tế trong tương lai. Với
những thành tựu đã đạt được là nguồn cổ vũ khích lệ cho các cấp, các ngành
để cùng nhau tiến bộ. Nhưng những yếu kém và tồn tại cũng là những bài
học đầy ý nghĩa cần phải được nghiên cứu lại một cách hòan thịên bộ máy
Nhà nước và sau nữa là định hướng đường lối phát triển cuả đất nước nhằm
biến nước ta thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu, trở thành một nước cơng nghiệp
để có thể "sánh vai" với những cường quốc năm châu - như ý nguyện của
Bác Hồ vĩ đại.
Với những tiên đề tiền lệ đó Đảng ta có những chính sách, chủ trương gì để
phát triển đất nước trong thời kì đổi mới ?
Một trong những chính sách và chủ trương lớn của Đảng, của Nhà nước là:
ta tiếp tục nghiên cứu:
2.Đường lối lãnh đạo của Đảng.
Với chủ trương "''Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống
ngân hàng ở nước ta'', Đảng ta đã vận dụng linh hoạt học thuyết hình thái
kinh tế-xã hội vào thực tiễn và lý luận nhằm phát triển nền kinh tế nước ta.
2.1 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở việt nam


Tiểu luận triết
Những nhược điểm và sai lầm của cơ chế quản lý kinh tế theo mơ hình kinh
tế hóa tập trung thật ra đã được Đảng và Nhà nước ta phát hiện từ lâu. Ngay
từ 1972 Hội nghị TW Lần thứ 20( khóa III )đã dề ra “Xóa bỏ lối quản lý

hành chính cung cấp”. Đặc biệt từ sau khi thống nhất đất nước, những ý đồ
chủ quan , duy ý chí , muốn áp đặt cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp trên cả nước đã gặp khơng ít những phản ánh từ cơ sở ,địa phương , nhất
là ở các tỉnh miền Nam. Các cấp lãnh đạo của Đảng và nhà nước, các nhà
nghiên cứu và quả lý kinh tế đều nhận thức được rằng trong suốt một thời
gian quá dài chúng ta điều hành nền kinh tế chỉ bằng những mệnh lệnh hành
chính ,bằng bằng những Nghị quyết của Đảng là chủ yếu mà không coi trọng
đầy đủ các quy luật khách quan, coi nhẹ lợi ích kinh tế, quan hệ thị trường,
quan hệ hàng hóa tiền tệ. Chúng ta từ lâu cũng đã nhìn thấy tính chất bao
cấp tràn lan trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đơn thuần
dựa vào chế độ cấp phát và giao nộp, hạch tốn kinh tế chỉ là giả tạo hình
thức chính vì vậy mà các cơ sở kinh doanh luôn ở trong tình thế bị gị bó,
thụ động và ỷ lại mất hết động lực kinh tế, không quan tâm tới năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Chính vì vậy đỏi mơí chính
sách kinh tế ở việt nam là một yếu tố cấp thiết cần sớm được thực hiện.
2.2. Đổi mới quản lý kinh tế tất yếu phải đổi mới hệ thống tiền tệ, tín dụng
ngân hàng
Nền kinh tế hiện đại thực chất là nền kinh tế tiền tệ nền kinh tế đã được tiền
tệ hóa cao độ. Những cơng trình nghiên cứu về các nước công nghiệp mới
trong khu vực trong những năm gần đây để đi đến một kết luận thống nhất là
nền kinh tế nào được tiền tệ hóa cao thì nền kinh tế đó có điều kiện tăng
trưởng tốt nhất.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế
thị trường về thực chất cũng là một q trình tiền tệ hóa mọi hoạt động của
đất nước.


Tiểu luận triết
Trong cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp như văn kiện
đại hội VI đã vạch rõ: “ Cơ chế đó chưa chú ý đầy đủ đến quan hệ hàng hóatiền tệ và hiệu quả kinh tế, dẫn tới cách quản lý và kế hoạch hóa thơng qua

chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện vật là chủ yếu”. Cơ chế bao
cấp ở nước ta thể hiện qua bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ lương hiện
vật, bao cấp qua chế độ cấp phát vốn, kể cả vốn tín dụng ngân hàng với lãi
suất rất thấp.
Rõ ràng là trong một cơ chế quản lý như vậy mọi động lực kinh tế đều bị
triệt tiêu, các hoạt động kinh tế khơng thể điều tiết và kiểm sốt được, tính
năng động và sáng tạo bị tê liệt, và hiệu quả kinh tế thật sự thấp kém, mọi
hiện tượng tiêu cực và rối ren trong xã hội đều phát sinh từ đó. Quan hệ
hàng hóa tiền tệ trong điều kiện đó, dù có khơi dậy và áp đạt bằng mệnh
lệnh hành chính cũng không thể nào phát huy được hiệu quả.
Như vậy, quá trình đổi mới cơ chế quản lý đã tạo điều kịên cho quan hệ
hàng hóa phát sinh và phát triển tạo quá trình đổi mới hệ thống tiền tệ ,tín
dụng, ngân hàng. Nhưng ngược lại q trình đổi mới hệ thống tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng lại đóng vai trị “bà đỡ” trong tiến trình đối mới kinh tế.
Chính vì vậy, trong điều kiện kinh tế của ta hiện nay, như trong nhiều Nghị
quyết của Đảng đã đánh giá, cịn ở trong tình trạng phân tán, chia cắt, cơ chế
thị trường đang ở dạng hoang sơ , quá trình đổi mới kinh tế còn phải tiến
hành trong một thời gian tương đối dài mới trở nên tương đối hoàn chỉnh,
q trình đổi mới hệ thống tiền tệ tín dụng, ngân hàng nhất thiết phải được
coi như một khâu quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong cơng cuộc đổi
mới cơ chế kế hoạch và quản lý kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Ngân hàng
phải thực sự là một tác nhân thúc đẩy mạnh mẽ q trình hồn thiện cơ chế
thị trường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thực sự là “bà
đỡ” của tiến trình đổi mới kinh tế theo những định hướng mà Đảng đã đề ra.
2.3. Tiếp tục đổi mới và chấn chỉnh hệ thống ngân hàng


Tiểu luận triết
Trong nhiệm vụ chấn chỉnh và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, cùng với
việc xúc tiến mạnh hơn các biện pháp theo chương trình đã đề ra, cần giả

quyết vấn đề bức xúc hiện nay là tỉ lệ quá cao của nợ quá hạn đang gây ách
tắc, ứ đọng vốn trong hoạt động tín dụng. Giải pháp cơ bản và lâu dài là đổi
mới cơ chế lãi suất, đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi,
trả được nợ, nếu mất khả năng thanh tóan thì áp dụng luật phá sản, kể cả với
doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống ngân hàng thương mại mà hạt nhân là các
ngân hàng phải được chấn chỉnh và tổ chức lại để kinh doanh có hiệu quả,
thực hiện đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động tín dụng,
chấm dứt việc ngân hàng thương mại cho vay cho vay theo lệnh hành chính.
Chính phủ tạo nguồn vốn để hỗ trợ việc giải quyết các khoản nợ quá hạn, có
cơ chế xử lý tài sản thế chấp bị xiết nợ đồng thời triển khai xây dựng công ty
mua bán nợ, tạo cơ sở để sớm hạ thấp tỷ lệ nợ quá hạn xuống giới hạn cho
phép, tăng khối lượng và vòng quay vốn qua ngân hàng.
2.4.Xây dựng chiến lược cải tổ hệ thống ngân hàng.
Để công cuộc cải tổ thu được nhiều kết quả mong muốn địi hỏi khơng chỉ
thực hiện cải tổ tồn bộ hệ thống tài chính nói chung mà cịn phải cải tổ hoạt
động của các ngân hàng riêng lẻ.
2.4.1.Đánh giá:
Để xây dựng một chiến lược hoạt động và xác định công cụ nhằm đạt được
các mục tiêu của nó, các nhà hoạch định chính sách cần phải đánh giá điều
kện tài chính và hoạt động của các ngân hàng riêng lẻ và những vấn đề trong
hệ thống ngân hàng nói chung. Trong đánh giá cần phân loại các ngân hàng
có khả năng đứng vững, có thể đưa vào chương trình cải tổ và những ngân
hàng khơng đứng vững cần phải đóng cửa.
2.4.2.Phân bổ thiệt hại:


Tiểu luận triết
Các khoản thiệt hại của các ngân hàng vỡ nợ trong những giai đoạn đầu của
quá trình cải tổ cần được phân bổ một cách rõ ràng và cơng bằng đến mức có
thể. Các khoản thệt hại trước tiên phải được bù đắp bằng vốn tự có để có thể

nâng cao động cơ bảo tồn vốn của giới chủ ngân hàng tương lai.
2.4.3.Hoạch định chiến lược:
Những thiếu sót trong quản lý và điều hành ngân hàng là những nguyên
nhân chủ yếu gây nên các vấn đề của hệ thống ngân hàng. Do đó cải tổ hoạt
động các ngân hàng riêng lẻ phải là một bộ phận không thể tách biệt của
chiến lược.
Đối với hệ thống ngân hàng như một thực thể thống nhất, điều đó có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng là phải xây dựng khung
pháp lý, thể chế đầy đủ và đồng bộ tăng cường cơ chế điều tiết giám sát và
cơ cấu của khu vực ngân hàng không dược ngăn cản sự cạnh tranh và tìm
kiếm lợi nhuận trong kinh doanh.
2.4.4. Các công cụ thực hiện cải tổ:
Mục tiêu cải tổ tài chính nhằm phục hồi khả năng thanh tốn của các ngân
hàng bằng cách lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản và báo cáo thu nhập để
đảm bảo các tiêu chuẩn về vốn, khả năng sinh lời, tăng cường khả năng
thanh toán, quản lý rủi ro.
3/ ý nghĩa rút ra đối với bản thân:
Nhận thức được vai trò to lớn của “hoạt động đổi mới hệ thống ngân
hàng” Đảng và Nhà nước ta luôn ra sức phát triển và xây dựng, nhằm phục
vụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa cao cả là: Vì con người, do con người. Chính vì
lẽ đó phát huy nhân tố con người, ln là mục tiêu hàng đầu và thiết thực
nhất. Đảng và Nhà nước ta đã luôn cố gắng không mệt mỏi để đấu tranh vì
nhân quyền và nhân lợi đi đơi với giáo dục đào tạo vì một tương lai tươi
sáng hơn.


Tiểu luận triết
Là một sinh viên khoa Ngân Hàng Tài Chính, KTQD, em hiểu ý nghĩa của
học thuết kinh tế-xã hội có tác dụng như thế nào đối với bản thân và ln tự
nhủ mình phải làm gì để học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đi sâu hơn vào

cuộc sống.
Sống và học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, mỗi sinh viên chúng ta
được thừa hưởng những thành quả to lớn mà chế độ đã mang tới. Đó là một
cơ sở hạ tầng tương đối hồn chỉnh với một hệ thống trường lớp từ thấp đến
cao. Cộng với một đội ngũ thầy cô giáo được đào tạo căn bản và chuyên sâu
là một nguồn tài sản vô giá của quốc gia bởi nguồn nhân lực của một nước
mạnh hay yếu là phụ thuộc vào giáo dục và đào tạo.
Thoát khỏi các cuộc chiến tranh liên miên, đặc biệt là sau chiến thắng năm
1975 cả nước ta đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa với một cơ sở hạ tầng bị
tàn phá gần hết. Nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chúng ta từng bước
xây dựng lại đất nước: " Đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" theo như mong muốn
của Bác và toàn thể mọi người dân Việt Nam.
Được thừa hưởng thành quả to lớn mà Đảng đã mang lại cho mỗi sing viên
chúng em được sống và học tập trong điều kiện hịa bình của đất nước và
chứng kiến sự đổi thay từng ngày, từng giờ trên mọi mặt của đời sống, kinh
tế - xã hội. Hơn bao giờ hết chúng em tự hỏi mình đã làm gì để góp phần
nhỏ bé của mình vào sự nghiệp đổi mới đó.
Là sinh viên năm thứ nhất, tư duy lý luận và tư duy thực tế chưa hoàn chỉnh
nên nhận định về thực tiễn của em chưa thật sát thực, nhưng với sự giảng
dạy nhiệt tình của thầy cô em thấy được cái bản chất tốt đẹp của chế độ mà
Đảng ta xây dựng và phát triển. Thấy được vấn đề cốt yếu của quá trình xây
dựng và phát triển và để góp phần nhỏ bé của mình vào q trình đó, em
cũng như bao bạn bè khác, phải cố gắng phấn đấu học tập trong trường
nhằm tiếp thu những kiến thức để sau này có thể đứng vào hàng ngũ của
Đảng nhằm xây dựng lý tưởng xã hội chủ nghĩa.


Tiểu luận triết

Học tập là vấn đề trọng tâm nhưng đi đơi với nó, chúng ta phải biết hịa

vào thực tế để khơng bị lạc hậu với nền văn hóa hiện tại. Đồng thời phải biết
"Gạn đục khơi trong " tiếp thu những văn minh tiên tiến của nhân loại và
chống những tư tưởng phản động, làm tổn hại đến nền hịa bình dân tộc, phá
vỡ nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó thật là lớn lao, nhưng đặt ra
trách nhiệm đối với mỗi con người, mỗi học sinh, sinh viên mà là sinh viên
Kinh tế quốc dân thì trách nhiệm lại càng lớn hơn. Vì khi ra trường, với tấm
bằng cử nhân kinh tế sẽ đi vào mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Là
những nhà kinh tế trong tương lai thì tất nhiên phải hiểu kinh tế mà những
việc cần làm trước mắt là trau dồi kiến thức đã học, chịu khó nghiên cứu tìm
hiểu tài liệu và đón nhận thơng tin cập nhật về các lĩnh vực đời sống kinh tế
- xã hội.
Cùng với chủ trương "Phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa ". Trong
sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay, nhiều vấn đề cũng đượcđặt ra, mà
giải quyết được nó phải có sự đồng lòng, đồng sức của tất cả mọi người như:
Vấn đề nổi cộm là tình trạng phân biệt chủng tộc, khác biệt tôn giáo..., vấn
đề môi sinh môi trường và đặc biệt là hịa bình và ổn định thế giới, ổn định
trong nước. Nhưng chúng ta tin rằng với chủ trương và đường lối chíng sách
của Đảng, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, tạo mọi hành lang pháp lý thuận
lợi cho cả xã hội phát triển.
C. KẾT LUẬN.
Thực tế đã khẳng định rằng, cho đến nay học thuyết của Mác về hình
thái kinh tế -xã hội vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để
nghiên cứu phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề trong xã hội . Bởi vì
học thuyết đó địi hỏi phải phân tích sự phát triển của các xã hội như một
quá trình lịch tổng hợp các nhân tố và quy luật khách quan, nó là cơ sở


Tiểu luận triết
phương pháp luận của sự phân tích khoa học về xã hội, là hòn đá tảng của

khoa học xã hội. Là nguyên lý để nước ta áp dụng vào phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế không những là đòi hỏi cho mỗi Đảng mỗi Nhà nước mà
còn là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội. Nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam "Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho hành động " đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, đi từ khó khăn ban đầu đến vẻ vang độc lập như
ngày hôm nay.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta với tư cách là thành viên của giai
cấp vô sản trên thế giới đã đồng tâm, đồng sức cùng với nhân dân cả nước,
nhân dân tiến bộ trên thế giới mãi mãi dương cao ngọn cờ cách mạng phấn
đấu khơng mệt mỏi vì ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh
".
Cùng với các chủ trương đường lối chíng sách phát triển kinh tế đất
nước, Đảng luôn ra sức để phát huy nhân tố con người là yếu tố quyết định
cho sự tồn tại của đất nước.
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng hiện nay, Đất nước ta đã đạt được
những thành tựu rất đáng khích lệ. Nền kinh tế chuyển từ "Kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước "
đã đánh dấu một chấm son trong lịch sử kinh tế - xã hội. Đi từ khó khăn ban
đầu Đảng đã nỗ lực không mệt mỏi cải cách sửa đổi những đường lối chính
sách cho phù hợp với tình hình đất nước và xu thế của thời đại.
Với vấn đề "đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng " đã làm cho bộ
mặt nền kinh tế nước ta có sự đổi sắc. Nó được đánh dấu bằng các chỉ tiêu
kinh tế đạt được, mà theo nhận định của Đại hội đại biểu tồn quốc khóa VII
thì: Đó là một sự chuyển mình của kinh tế đất nước.
Đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng trong điều kiện đất nước ta
hiện nay khơng gì khác là cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ cơng nghệ


Tiểu luận triết

khoa học vì trong một thời gian dài chúng ta đã đóng cửa kinh tế làm cho
máy móc cơng nghệ cũng như trình độ khoa học lạc hậu quá xa so với thế
giới và khu vực. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải biết đào tạo chiến lược con
người, vì chính con người là chủ thể của xã hội, chủ thể của sản xuất. Đi liền
với nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, cơng nghệ chúng ta phải biết chú
trọng các ngành công nghệ mũi nhọn, những ngành có khả năng và tiềm
năng.
Trong thực tế hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mở có
sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Đó cũng là biện pháp tốt nhằm phát
huy sức mạnh toàn diện và phát huy những mặt mạnh của xã hội.
Trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa quan hệ sản xuất mặc dù bị
chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng nó cũng có tác động rất lớn tới lực
lượng sản xuất, tới sự phát triển của xã hội. Xây dựng cơ chế "Thị trường "
mà sản phẩm là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đa dạng hóa các
loại hình sản xuất kinh doanh.
Như vậy sự nghiệp đổi mới hoạt động hệ thống ngân hàng của Đảng ta hiện
nay là phù hợp. Đó cũng là sự vận dụng phù hợp quy luật của các phương
thức sản xuất xã hội. Và cũng là sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào
thực tế của đất nước ta.


Tiểu luận triết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph Ăng Ghen tồn tập - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà
Nội 1993
2. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lenin trong thời đại ngày nay (nhà xuất
bản chính trị quốc gia Hà Nội 1996)
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1991)
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII (nhà xuất bản sự

thật Hà Nội 1991)
5. Văn kiện hội nghị lần thứ 2,3,5 ban chấp hành trung ương khóa VIII (nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 1999)
6. Tạp chí nghiên cứu trao đổi số 5 (tháng 3 năm 1999)
7. Tạp chí nghiên cứu lý luận số 1 năm 2000
8. Giáo trình triết học Mác-Lênin (nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội
2004)
9.Tạp chí Cộng sản số 5 năm 1997
10. Tạp chí Cộng sản số 561 năm 1999
11. Tạp chí Cộng sản số 622 năm 2001



×