Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN LUYEN TU VA CAU LOP 5 NAM 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.03 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HS LỚP 5A3 TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC A PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG NGHĨA - TỪ NHIỀU NGHĨA - TỪ ĐỒNG ÂM PHẦN I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1-Cơ sở lí luận : Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và trong đời sống của mỗi con người. Mục tiêu của chương trình Tiếng việt tiểu học mới ngoài việc cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng, nắm rõ nghĩa của từ có ý nghĩa quan trong trong giao tiếp, giúp học sinh tự tin tham gia vào hoạt động giao tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt. Muốn làm được điều này học sinh phải có kiến thức vững chắc về Tiếng Việt. Đó không chỉ là kiến thức về ngữ pháp, về vốn từ mà còn phải nắm vững kiến thức về nghĩa cuả từ. Trong chương trình Tiếng Việt 5 học sinh được học kiến thức về nghĩa của từ: các hiện tượng trái nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa và nhiều nghĩa. Trong các hiện tượng đó thì kiến thức về từ nhiều nghĩa là phức tạp nhất. Là một giáo viên lớp 5, qua nhieàu năm kinh nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh còn rất nhiều lúng túng, khó khăn, khi học nội dung kiến thức này dẫn tới các tiết học nặng nề, không hứng thú, không lôi cuốn được các em. Nguyên nhân nào dẫn tới những khó khăn đó? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa? Đó là lý do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A 3 trường tiểu học Mỹ Phước A phân biệt từ đồng âm – từ đồng nghĩa - từ nhiều nghĩa”..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 2-Cơ sở thực tiễn Thực tế ở đây đã cho thấy có nhiều GV không ngừng say sưa tìm tòi sáng tạo trong giảng dạy, đưa chất lượng ngày càng đi lên về mọi mặt, đáp ứng được với nhu cầu đòi hỏi của xã hội trong thời kì đổi mới; nhưng cũng thật đáng buồn vì còn có một số ít GV còn coi nhẹ vấn đề này. Mặt khác chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng. Đến trường là là một bước ngoặt lớn của các em, trong đó họat động học là họat động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tỉnh cảm của mình còn quá ít. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm. Hơn thế nữa các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho người khác ngôn ngữ cần chính xác, rõ ràng đúng đắn và dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt . Qua thực tế giảng dạy dự giờ đồng nghiệp ở trường, tôi nhận thấy việc dạy và học về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn có một số tồn tại sau : + GV truyền kiến thức về khái niệm từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm còn máy móc, rập khuôn và sơ sài, lấy ví dụ mà chưa hiểu được bản chất của nó .Chỉ bó hẹp trong phạm vi SGK. Khi thoát khỏi phạm vi này thì HS hầu hết đều luống cuống và nhầm lẫn . + Khi thể hiện tiết dạy hầu như GV chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá, giỏi , còn lại đa số HS khác thụ động ngồi nghe rồi một số em khác có muốn nêu cách hiểu của mình về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm cũng sợ sai lệch, từ đó tạo nên không khí một lớp học trầm lắng, HS làm việc tẻ nhạt , thiếu hứng thú không tạo được hiệu quả trong giờ học ..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> +Trong những bài dạy về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm hầu như GV ít đọc tài liệu tham khảo, ít học hỏi và trao đổi với đồng nghiệp Phải chăng những tồn tại đó còn tiềm ẩn trong mỗi tiết dạy để rồi GV tự dấu đi những kiến thức tài năng sẵn có và những gì đã được học tập, lĩnh hội ở nhà trường sư phạm rồi dần dần đánh mất. Đứng trước thực trạng như vậy và rút kinh nghiệm qua nhiều năm dạy-học lớp 5, năm nay tôi có : “Một số kinh nghiệm giúp HS lớp 5A3 phân bịêt từ nhiều nghĩa- từ đồng nghĩa, từ đồng âm”. Nhằm giúp học sinh tháo gỡ những lầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm tạo nền tảng để các em học tốt môn Tiếng Vịêt. Tuy là bước đầu nhưng tôi mạnh dạn nêu lên và mong được sự ủng hộ quan tâm, đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi được hòan thiện hơn về kinh nghiệm này . II-MỤC ĐÍCH , ĐỐI TƯỢNG VÀ PHUONG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Mục đích nghiên cứu: Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích : - Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho HS. - Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tác được ý nghĩa từ vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ . - Giúp HS có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm trong sinh sản văn bản bằng hình thức nói họăc viết, để từ đó các em sử dụng được Tiếng Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy. 2-Đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này, vấn đề tôi nghiên cứu ở đậy: Một số kinh nghiệm giúp HS phân bịêt về từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm” và chỉ nghiên cứu trên những học sinh lớp 5A3 trường tiểu học Mỹ Phước A mà tôi đã chủ nhiệm có những.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> khó khăn phân biệt từ. Nhằm tìm ra những phương pháp hạn chế tối đa tình trạng nhằm lẩn các từ nêu trên. 3. Phương pháp nghiên cứu: 3. 1. Phương pháp quan sát và đàm thoại : Từ những giờ dạy cụ thể trên lớp tôi đã quan sát, ghi nhận những biểu hiện về kĩ năng đọc của các em. Bên cạnh đó tôi còn trực tiếp phỏng vấn, nói chuyện với một các em học sinh trong những giờ sinh hoạt lớp hay sinh hoạt ngoài giờ lên lớp. Qua đó nắm bắt thêm những biểu hiện – kĩ năng của các em . 3.2 . Phương pháp điều tra : Tôi dùng một số câu hỏi để hỏi trực tiếp, các em trả lời miệng những câu hỏi tôi đã nêu. Từ đó tôi thu thập, ghi nhận những gì đã tìm hiểu được . 3.3 . Phương pháp thu thập tài liệu, phân tích tổng hợp: - Cho các em phân biệt nghĩa một số từ ngữ ( 3 loại từ) để theo dõi nhận xét, đánh giá và kết luận . 3.4. Phöông phaùp thoáng keâ: Thống kê là phương pháp giúp chúng ta nắm được khả năng phân biệt nghĩa của từ, trong chương trình thơng quan các bài tập học. Từ đó có kế hoạch bồi dưỡng và có phương pháp hướng dẫn thích hợp cho từng đối tượng học sinh . 3. 5 . Phương pháp đọc sách và tài liệu . - Đọc sách để tìm cơ sở lí luận cho cách làm của mình, để nắm được yếu tố tâm lý, xu hướng của học sinh.. - Đọc sách và tài liệu nhằm giúp bản thân trau dồi thêm kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân. - Đối với học sinh các em thường xuyên đọc và tham khảo để các em có khả năng đọc nhuần nhuyễn và xác định được phù hợp hơn về nghĩa của các loại từ..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 3.6. Phöông phaùp troø chuyeän: Phương pháp trò chuyện đem lại nhiều thông tin bổ ích như tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của học sinh, trao đổi việc học tập của các em qua tiếp xúc với phụ huynh học sinh. Trò chuyện với các em để biết những khó khăn của học sinh đối với tiết Tập đọc. Từ đó tôi sẽ rút kinh nghiệm và tìm ra những phương pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng môn luyện từ và câu cho học sinh lớp tôi. III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TAØI : Phạm vi tôi nghiên cứu và áp dung sáng kiến này ở lớp 5A 3 trường tiểu học Mỹ Phước A trong năm học 2012 – 2013. Môn: Luyện từ và câu Phần: Giúp học sinh phân biệt các từ nhiều nghĩa - từ đồng nghĩa - từ đồng âm. IV. CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU: Nếu học sinh lớp 5A3 trang bị tốt kĩ năng phân biệt được nghĩa của từ. Đó cũng là một tiền đề cho các em học tốt các môn học còn lại. Bởi vì không chỉ có môn luyện từ và câu học sinh mới cần nắm được nghĩa của từ mà hầu như tất cả các môn. . Thông qua việc phân biệt nghĩa của các loại từ giúp cho các em hiểu được vận dụng rất nhiều trong thực tế. Nếu các lớp áp dụng đồng bộ các kinh nghiệm mà đề tài đã nêu ra thì kĩ năng phân biệt của học sinh sẽ đạt được kết cao trong các Luyện từ và câu tới. V. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN: Tháng 9/201: Đăng kí sáng kiến, sưu tầm tài liệu. Tháng 10/2012: Điều tra thực trạng, thu thập và xử lí các số liệu . Thaùng 11 / 2012: Lập đề cương. Thaùng 12/ 2012 – 01/2013: Viết sáng kiến và báo cáo sơ bộ. Thaùng 2 - 3/ 2013: Chỉnh sửa sáng kiến kinh nghiệm. Thaùng 04/ 2013: Hoàn thiện đề tài và nộp về trường..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> PHẦN II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I-THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU Qua những năm tôi được ban giám hiệu phân công giảng dạy trực tiếp lớp 5. Với môn Luyện từ và câu qua phần “từ nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa – từ đồng âm”. Tôi nhận thấy học sinh của mình còn vướng mắc một số thực trạng sau : Sau khi học sinh học về từ đồng nghĩa học sinh nắm được “ Từ đồng nghĩa là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa. Rất nhiều học sinh nêu được định nghĩa này, thậm chí là thuộc lòng và đã biết vận dụng vào việc xác định được từ đồng âm, mặc dù chưa được chính xác, vẫn có những học sinh lúng túng. Nhưng sau tiết củng cố, luyện tập, học sinh dần dần nắm được và vận dụng được từ đồng âm. Đến khi xuất hiện từ nhiều nghĩa thì học sinh thực sự lúng túng. Lúng túng phân vân giữa việc xác định, phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa. Rất nhiều học sinh thậm chí chỉ biết đoán mò kết quả. Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ, giải nghĩa từ học sinh còn làm sai nhiều. Đặt câu có sử dụng từ từ nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa – từ đồng âm: chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu. Một phần học sinh chưa có ý thức học tập còn ỉ lại dựa dẫm vào giáo viên. Bên cạnh đó đại đa số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình mà phán trắng cho giáo viên. Kết quả khảo sát đầu năm: Sỉ số 22/11. Giỏi SL Tỷ lệ % 3 13,63. SL 5. Khá Tỷ Lệ % 22,73. Trung bình SL Tỷ Lệ % 5 22,730. SL 9. Yếu Tỷ lệ % 40,91. II . CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Khắc phuc tình trạng này quả là khó vì từ đồng âm - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa là hai nội dung khá khó, khó phân biệt và không phải là không được. Quan trọng là phải tìm hiểu về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa nhung không phải trên lý thuyết.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> mà phải bắt đầu từ các ví dụ. Học sinh phải biết làm quen với nhiều với việc phân tích ví dụ để hiểu rõ hơn về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để từ đó học sinh hiểu rõ hơn được bản chất của vấn đề nhằm nhận biết, phân biệt và vận dụng chúng một cách linh hoạt. Để có được điều đó thì chỉ có vận dụng trong các giờ luyện tập, đặc biệt việc củng cố kiến thức không chỉ ngày một, ngày hai mà phải cả quá trình, mọi lúc, mọi nơi có thể. Song sau tiết học về đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa thì cần thiết phải có tiết củng cố kiến thức này, củng cố một cách tổng hợp về từ đồng âm từ nhiều nghĩat - từ đồng nghĩa . Nói là củng cố kiền thức chung nhưng cũng phải bắt đầu từ các ví dụ cụ thể. Qua đó để thấy được chỗ “hổng” của học sinh để kịp thời củng cố, khắc sâu. Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của từ đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa, xuất phát từ những khó khăn mà học sinh còn gặp phải khi học các tiết học về từ đồng am - nhiều nghĩa – từ đồng nghĩa và nguyên nhân của những khó khăn đó, để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, qua nghiên cứu và thử nghiệm tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: 1. Từ đồng nghĩa : Định nghĩa : *Từ đồng nghĩa là các từ khác nhau về mặt ngữ âm nhưng giống nhau về mặt ý nghĩa, chúng cùng biểu thị các sắc thái khác nhau của cùng một khái niệm.( Tài liệu của Trường đại học Vinh ) Ví dụ: Cùng nói đến khái niệm ăn có xơi, nhậu nhẹt ... *Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau . Ví dụ: siêng năng , chăm chỉ,cần cù, ... *Có những từ đồng nghĩa hoàn toàn , có thế thay thế cho nhau trong lời nói. Ví dụ : hổ, cọp, hùm, ... *Có những từ đồng nghĩa không hoàn toàn .Khi dùng những từ này ,ta phải cân nhắc để lựa chọn cho đúng .Ví dụ :.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> +ăn, xơi, chén,... (biểu thị thái độ, tình cảm khác nhau đối với người đối thoại hoặc điều được nói đến). +mang, khiêng, vác, ...( biểu thị những cách thức hành động khác nhau ) (Sách Tiếng Việt 5 tập 1) 2. Từ nhiều nghĩa : Định nghĩa :*Là từ dùng một hình thức âm thanh biểu thị nhiều ý nghĩa (biểu thị nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau ), các ý nghĩa có quan hệ với nhau, chúng lập thành một trật tự,một cơ cấu nghĩa nhất định . Ví dụ : đầu : (1)bộ phận trên hết của người, bộ phận trước hết của người của vật (2)trí tuệ thông minh : anh ấy là người có cái đầu. (3)Vị trí danh dự : anh ấy luôn đứng đầu lớp về mọi mặt. (4)Vị trí tận cùng của sự vật : Anh ở đầu sông em cuối sông (Tài liệu của trường đại học Vinh –Chu Thị Thủy An) *Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau Ví dụ: - Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt) - Quả na mở mắt ( quả na bắt đầu chín , có những vết nứt rộng ra giống hình con mắt). ( Sách Tiếng Việt 5 Tập 1). 3.Từ đồng âm a) Định nghĩa: *Là những từ giống nhau về ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa. Ví dụ: Cổ: bộ phận cơ thể con người và cổ :xưa, lạc hậu bác: anh, chị của bố mẹ và bác là chưng cất, bác là phủ định, bác là bố( Bác mẹ em nghèo) ( Tài liệu của trường Đại học Vinh –Chu Thị Thủy An).

<span class='text_page_counter'>(9)</span> b) Ngôn ngữ có tính tiết kiệm co nên tất yếu dẫn đến hiện tượng đồng âm .Tuy nhiên đồng âm trong Tiếng Việt có đặc điểm riêng : - Thường xẩy ra ở những từ có cấu trúc đơn giản ( các từ đơn tiết) . - Các từ đồng âm trong Tiếng Việt chỉ xẩy ra trong ngữ cảnh vì Tiếng Việt là ngôn ngữ không biến hình *Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa Ví dụ : a) Ông ngồi câu cá. (Câu là họat động bắt cá, tôm bằng móc sắt. nhỏ (thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây ) b) Đoạn văn này có 5 câu( câu là đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn , trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu ) (Sách Tiếng Việt 5 tập 1) 4-Hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm 4.1- Từ đồng nghĩa * Bản chất của từ đồng nghĩa: Thực tế học sinh thường nhầm lẫn giữa từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì định nghĩa về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa chính xác dẫn đến sự khó khăn cho HS trong vịêc nhận diện. Phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chỉ dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế đó nên tôi đã mở rộng thêm cho HS một số kiến thức sau: - Từ đồng nghĩa: Bản chất của từ đồng nghĩa ( tính ở mức độ của từ đồng nghĩa ) Khả năng họat động tác động đến sự di chuyển của các sự vật có các từ: ném, lao, phóng, quăng, vứt, xán xô, đẩy liệng, tống đạp, đá, nhấn, dìm, kéo, dật, rút, gieo, rắc, vãi, trút, xoay, quay, gồng,, gánh... Căn cứ vào chiều di chuyển để chia ra các nhóm đồng nghĩa . - Di chuyển ra xa chủ thể: ném, phóng, lao... - Di chuyển gần lại : lôi, kéo, co, giật, rút....

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Di chuyển quay xung quanh chủ thể: gánh,xoay, quay... - Di chuyển cùng chủ thể : Gồng, gánh, bưng, đội, cõng... Các từ trong từng nhóm có mức độ đồng nghĩa cao hơn so với các từ trong các nhóm khác . a) Bản chất của từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng có tính mức độ.Tính mức độ này là do các từ ngoài sự đồng nhất thì có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa . Ví dụ : Về trạng thái chấm dứt sự sống: chết, hi sinh, tử, mất Về hiện tượng hấp thụ thức ăn: Tống, hốc, tọng, ăn... Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái. Ví dụ 1: Quả, trái Giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định (quả mít/ trái mít) Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc thái tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương,...( quả tim/ trái tim; quả trứng/trái trứng*) Ví dụ 2 : Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một cái gì đó (Giữ quần áo; bảo vệ quần áo) Tuy nhiên hai từ này điểm khác nhau : + Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn trừu tượng ; Giữ gìn phù hợp với đối tượng nhỏ, quý (Giữ gìn đòan kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, Bảo vệ đất nước ) + Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động của bên ngoài; giữ gìn có tính chất thụ động giữ cái đã có, không có sắc thái chống lại thế lực bên ngoài. (Bảo vệ luận văn khác Giữ gìn luận văn)..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Ví dụ 3: Không phận, vùng trời có nét nghĩa chung là chỉ biên giới phía trên của một quốc gia .( Địch xâm phạm vùng trời Việt Nam; Địch xâm phạm không phận Việt Nam ). Sự khác nhau là: Vùng trời có khả năng chỉ một khoảng không cụ thể Còn Không phận thì không có khả năng này. ( Vùng trời quê tôi thật yên là ả .) Ví dụ 4: Chọn,lựa, tuyển, kén có nghĩa chung là tìm ra cái gì đó cùng loại với nó. Khác nhau ở điểm: Chọn thiên về cái tốt, số lượng đối tượng nhiều, từ cái mình có mà ra; lựa thiên về loại bỏ cái xấu, số lượng đối tượng ít, xuất phát từ đối tượng mà tìm; Tuyển là số lượng đã biết trước; Kén dùng cho người có tính chất khắt khe cá nhân. Ví dụ 5: Nhanh, mau, chóng ( Hiệp thợ này nhanh vì họ làm mau nên chóng xong). Nhanh chỉ tính chất chung, mau chỉ thao tác, chóng chỉ thời gian. b) Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm Ví dụ 1: Cho, biếu, tặng: Cho có sắc thái trung hòa, Biếu có sắc thái kính trọng , tặng có sắc thái thân mật . c) Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng các từ đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng thay thế cho nhau được, chúng đồng nghĩa với nhau vì chúng vừa giống nhau vừa khác nhau . Ví dụ: Hoài sơn/ củ mài; trần bì/ vỏ quýt: Các từ Hán Việt dùng trong khoa học, các từ thuần Việt dùng trong đời sống . d) Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là nguyên nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng nghĩa về tòan bộ dung lượng nghiã của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa nào đó mà thôi. Ví dụ : Trông có ba nghĩa : - Hướng mắt quan sát - Giữ, chăm sóc - Nương vào, nhờ vào Dựa có ba nghĩa : - Theo , căn cứ theo.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Tựa vào, nhờ vào - Nương vào, nhờ vào Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba. *Một từ nếu là từ đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể đồng nghĩa với nhiều từ khác nhau Ví dụ: Ăn. - Thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua ) - Hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình ) - Hưởng, nhận ( tàu ăn than - Hao, tốn ( xe ăn xăng). *Phân loại từ đồng nghĩa: Từ đồng nghĩa xẩy ra ở nhiều cấp độ : - Hình vị với hình vị : xanh- thanh - lam-bích- lục Đánh- chiến – kích -đấu - Từ với từ: Thiên- trời ; sơn –núi - Từ Hán Việt với từ thuần Việt : Huynh đệ-Anh em; phụ nữ - đàn bà - Từ thuần Vịêt với từ Thuần Việt: ăn-xơi - Cụm từ với cụm từ : .... *- Nguồn gốc của từ đồng nghĩa a) Đồng nghĩa do cấu tạo từ, đồng nghĩa sẵn có giữa các yếu tố thuần Việt . Ví dụ: Từ các từ Nhanh, mau, chóng có thể cấu tạo ra hàng lọat từ: Nhanh : nhanh chóng, nhanh nhanh, nhanh nhẹn, nhanh nhạy Mau: mau chóng, mau lẹ Chóng chóng vánh, nhanh chóng... b) Đồng nghĩa do vay mượn: Đó là hiện tượng đã có từ A vay mượn B và cả hai cùng chi X - Đồng ở nghĩa cấp độ yếu tố cấu tạo ( hình vị): xa-xe ; bích , thanh-xanh - Đồng nghĩa giữa từ với từ: bằng hữu - bạn bè.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Đồng nghĩa giữa các từ vay mượn với nhau điện thoại – Telephon. Bụt ( bụt đà)- phật. cân – ki-lô- gám. (Môn khơme)-(Hán). (Hán) - (Pháp) c) Từ đồng nghĩa do từ tòan dân và từ địa phương Ví dụ: Bắp/ ngô/ sạo/xà lì; bát/đọi-chén; heo/ lợn; đu đủ/moọng coong/; hành tăm/thun... d) Từ đồng nghĩa do sự phảt triển của từ đa nghĩa Ví dụ: Trông: (1) nhín (2)chăm sóc (3)căn cứ theo Do sự phát triển nghĩa như trên mà hai từ trông, dựa, có quan hệ đồng nghĩa với nhau: (3) của trông đồng nghĩa với ha của dựa 4.2-Từ nhiều nghĩa * Cơ cấu của từ đa nghĩa Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm nhiều nghĩa mới ( nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ nghĩa cơ sớ (nghĩa gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định. Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của sự vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong nghĩa gốc của từ dưới dạng các nét nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới. Nhờ vào quan hệ liên tưởnhg tương đồng (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ )người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vẩt ấy.Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng. (2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao nhất .( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín) (3) Sự thay đổi màu sắc nước da. ( ngượng chín cả mặt ) (4) Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm. (cam chín). Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải, miêu tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở : + Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau : - Dạng: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng. Ví dụ: Mũi1 ( mũi người) và Mũi2( mũi thuyền) :Miệng1 ( miệng xinh) và miệng2( miệng bát) Dạng 2: Nghĩa của từ phát triểm trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng, của các sự vật, đối tượng . Ví dụ : cắt1 ( cắt cỏ) với cắt2 ( cắt quan hệ ) Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người. Ví dụ: đau1 (đau vết mổ ) và đau2 (đau lòng ) + Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng. - Dạng1: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể. Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể ( anh ấy có chân2 trong đội bóng Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có Mặt2 trong hội nghị) Dạng 2: nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa. Ví dụ: Nhà1 Là công trình xâu dựng (Anh trai tôi đang làm nhà).

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Nhà2 là gia đình ( Cả nhà có mặt) Ví dụ 2: Thúng1 : Đồ vật dùng để đựng đan bằng tre hoặc nứa( Cái thúng này đan khéo quá) Thúng2: Chỉ đơn vị ( Hai thúng lúa) Dạng 3: Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó . Ví dụ: Muối1: Nguyên liệu ( Một kg muối); muối2: hành động làm cho thức ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa ngon lắm) 4.3 Từ đồng âm : a) Văn cảnh ( ngữ cảnh) là tập hợp những từ đi kèm một từ nào đó tạo cho từ tính xác định về nghĩa . b) Họat động của từ đồng âm : - Tạo ra những văn cảnh trong đó có nhiều từ đồng âm xuất hiện: Con ngựa đá con ngựa đá con ngựa đá không đá con ngựa. - Tạo ra những ngữ cảnh đan xen nhau trong đó có một yếu tố nào đó được hiểu gấp đôi. Bà già đi chợ cầu đông, Bói xem một qủalấy chồng lợi chăng. Thầy bói gieo quả nói rằng Lợi thì có lợi nhưng răng không còn . - Tạo ra những ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện nhưng nó lại được đi kèm với yếu tố khác, có tác dụng nhắc gợi nhau. Con công đi qua chùa kênh,Có nghe tiếng cồng nó kềnh cổ ra . Con cóc leo cây võng cách , nó rơi phải cọc nó cạch đến già . - Tạo ra ngữ cảnh trong đó chỉ có một yếu tố đồng âm xuất hiện được trong quan hệ với các yếu tố đồng nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 1 - Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia 2 - Cuốc xuống ao uống nước, Gà vào vườn ăn kê 3 - Chuồng gà kê áp chuồng vịt 4 - Trời mưa đất thịt trơn như mỡ Dò đến hàng nem chả muốn ăn 5 - Một chiếc cùi lim chân có đế Ba vòng xịch sắt bước còn vương c) Nguyên nhân có hiện tượng đồng âm - Sẵn có - Vay mượn - Từ đa nghĩa phát triển đến mức tối đa . Sau khi mở rộng cho HS một số khái niệm cơ bản cần thiết về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa chúng . *Khác nhau : Từ đồng. Từ nhiều nghĩa. Từ đồng âm. nghĩa Là những từ. Nghĩa của từ được phát triển dựa trên hai cơ. Cơ sở tạo ra từ đồng. có nghĩa. sở :. âm là do tính chất. giống nhau. - Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có. tiết kiệm. hoặc gần. hai dạng sau :. -Thường xẩy ra ở. giống nhau .. + D1:Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống những từ có cấu trúc. Ví dụ : Siêng. nhau về hình thức giữa các sự vật hiện tượng. đơn giản. năng, chăm. hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương. -Các từ đồng âm. chỉ, cần cù ,... quan về hình dáng Ví dụ : Mũi1( mũi người), mũi2(mũi thuyền). trong Tiếng Việt chỉ xẩy ra trong ngữ.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> + D2: Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ. cảnh vì Tiếng Việt là. về cách thức hay chức năng của các sự vật,. ngôn ngữ không biến. đối tượng .Ví dụ: Cắt1( cắt cỏ), cắt2(cắt quan. hình. hệ) D3:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với con người Ví dụ: đau1(đau vết mổ), đau2(đau lòng) - Theo cơ chế hóan dụ có các dạng: + D1:Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và tòan thể Ví dụ : Chân1, tay1,mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang chỉ cái toàn thể (Anh ấy có Chân2 trong đội bóng ; Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba có mặt2 trong hội nghị ) + D2: Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.Ví dụ :Nhà1là công trình xây dựng (Tôi đang làm nhà),Nhà2 là gia đình(Cả nhà ăn cơm ) D3:Nghĩa của từ phát triển dựa trên quan hệ nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ đó .Ví dụ: Muối1 nguyên liệu( một kg muối);muối2hành động làm cho thức ăn chín hoặc lên men ( Chị ấy muối dưa rất ngon).

<span class='text_page_counter'>(18)</span> *Giống nhau : Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn : Ví dụ: ba: ba: (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo. (2) số từ: Số ba là con số không may mắn . Học sinh có thể nhầm lẫn từ“ba” là từ nhiều nghĩa vì có hình thức âm thanh giống nhau. Khi gặp trường hợp này tôi đã phân biệt để HS thấy được giữa các nét nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau còn ở đây các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa Trường hợp ví dụ trên là từ đồng âm. Để giúp HS có thể phân biệt được là từ nhiều nghĩa hay là từ đồng âm cần giúp HS xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối với từ nhiều nghĩa ) , nêu loại trừ được có quan hệ về các nét thì đó là từ đồng âm còn ngược lại nếu đồng âm nhưng có quan hệ về các nét nghĩa nữa thì đó là từ nhiều nghĩa III- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1. Kết quả Năm học 2012-2013 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A 3 có 22 em học sinh .Tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp lí theo từng nội dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa để học sinh nắm được đặc điểm cơ bản của các loại từ trên từ đó có thể phân biệt và nhận dạng dễ dàng hơn trong khi làm bài tập .Tôi đã thu được kết quả sau: Thời điểm dạy và học Số học sinh phân biệt được từ đồng nghĩa,. Học kì I. Giữa học kì II. từ nhiều nghĩa, từ đồng âm 54,55% 90,90% Số học sinh đạt điểm khá, giỏi . 31,81% 50% Qua kết quả khảo sát trên và qua thực tế lớp, tôi nhận thấy trong các giờ Luyện từ và câu học sinh rất say mê học tập làm cho không khí lớp trở nên sôi nổi, kĩ năng.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> phân biệt từ của học sinh được nâng lên rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học chưa biết nhưng đến gần cuối năm đã tuến bộ rõ ràng,, nhiều em đạt điểm khá tốt. 2. Phaïm vi, vi moâ aùp duïng : Sau khi được tổ khối 5 và BGH trường thống nhất với các giải pháp mà tôi đã đưa ra trong đề tài. Vì vậy đề tài của tôi đã được áp dụng cho khối lớp 5 ở trường tiểu học Mỹ Phước A. Nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. PHẦN III. KẾT LUẬN I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC : Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp đã nghiên cứu vào thực tiễn cho thấy: kết quả dạy và học có chuyển biến rõ rệt. Bước đầu đã đem lại nhiều cái hay, cái đúng. Cái hay ở đây là cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, học sinh thật sự là trung tâm trong quá trình dạy học, các em đã có động cơ thích thú khi học Luyện từ và câu, các em đã tự mình tìm tòi học hỏi, đã có một thái độ học tập chăm chỉ. Với qúa trình thực hiện như thế các em học sinh đã có tâm lý sẵn sàng đến lớp học và có hứng thú nhiều trong việc Luyện từ và câu. Ngòai ra, các em đã có động cơ học tập đúng đắn, giúp các em nhận ra được phương thức học đúng, để thực hiện những hành động cần thiết. Còn cái đúng là học sinh đã hiểu bài một cách chắc chắn ngay tại lớp, nắm được bài một cách nhanh nhẹn cơ bản. Có được kỹ năng xác định chính xác về từ nhiều nghĩa, kiến thức học luôn được ghi nhớ bền lâu. Thật đáng mừng vì sau mấy tháng áp dụng biện pháp nghiên cứu này đã giúp cho chất lượng học tập của các em đã vươn lên rõ rệt, trình độ được nâng dần lên và khá đồng đều. Vai trò của người giáo viên lúc này thật sự là người tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra trong suốt hoạt động học tập của học sinh, còn học sinh mới là chủ thể trong quá trình khai thác tiếp thu kiến thức. II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN:.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Từ thực tiễn giảng dạy và những kết quả đạt được, tôi tự rút ra cho mình những bài học nhỏ trong việc dạy về từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. trong phân môn Luyện từ và câu như sau : - Lên kế hoạch điều tra đầu năm, theo dõi để nắm được năng lực học tập của từng em . - Chuẩn bị chu đáo cho giờ học, dự tính các tình huống xảy ra trên lớp. - Tìm biện pháp khắc phục, tức là biết áp dụng các phương pháp dạy khoa học, phù hợp với những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học phần từ nhiều nghĩa. Củng cố khái niệm, qui tắc: so sánh, nhận biết nghĩa của từ. Tăng cường luyện tập tạo thành kĩ năng trong xác định nghĩa cho học sinh, nhất là những học sinh yếu kém luyện từ và câu. - Rèn cho học sinh xác định , phân biệt xác khi làm bài cần nhớ lâu , nắm vững kiến thức , nắm bài có khoa học tránh trường hợp học vẹt , bằng phuơng pháp học nhóm ở nhà và ở lớp . - Liên hệ gia đình tìm hiểu nguyên nhân vì sao học sinh học yếu và nghỉ học nhiều , động viên phụ huynh tạo điều kiện cho các em có thời gian học ở nhà và kèm cặp thêm . - Khen thưởng kịp thời đối với HS yếu học có tiến bộ. - Ngoài ra tôi học thêm ở các bạn đồng nghiệp bằng nhiều hình thức , và tự học, tự nghiên cứu qua sách vở, báo đài . - Người giáo viên phải tận tụy với nghề, mến trẻ, tận tâm với nghề. III. ĐỀ XUẤT Dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học là một vấn đề rất khó và phức tạp. Việc nắm vững các kiến thức về từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. góp phần quan trọng nâng cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh để từ đó học sinh có thể giao tiếp tôt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Thực tế hiện nay chất lượng các tiết học về từ nhiều nghĩa chưa cao, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong những.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> tiết học. Giáo viên chưa lôi cuốn thu hút được học sinh vào hoạt động học tập tích cực. Nguyên nhân của vấn đề này có từ hai phía: giáo viên và học sinh. Qua nghiên cứu tôi cũng nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy học giáo viên sử dụng khéo léo các phương pháp dạy học, các hình thức dạy học khác nhau có thể phát huy được tính tích cực của học sinh và kích thích, lôi kéo các em vào quá trình học tập, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học. Qua những năm nghiên cứu thử nghiệm tôi nhận thấy để dạy các tiết học về ttừ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. có kết quả cao, hạn chế được những khó khăn của học sinh khi học đồng thời kích thích hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học tập của học sinh, tôi xin đề xuất một số biện pháp sau: 1.Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ SGK, tài liệu tham khảo về hiện tượng từ nhiều nghĩa – đồng nghĩa – đồng âm. của từ để từ đó nắm vững, giải nghĩa từ một cách chính xác. 2. Giáo viên cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác định những khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả các tiết học. 3. Với mỗi tiết học giáo viên cần phải phân loại các dạng bài tập, lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau để kích thích hứng thú học tập của học sinh. 4. Sau mỗi bài học giáo viên nên đưa ra một số dạng bài tập khác nhau để củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm bản thân chưa nhiều, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn chế nên đề tài chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong các bạn đồng nghiệp đọc và góp ý để đề tài hoàn thiện hơn. 5. Mở lớp chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối với “ Từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm”. 6. Cung cấp thêm cho các trường tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp..  Tài liệu tham khảo:.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Sách giáo khoa lớp 5 Tập 1. - Sách giáo viên lớp 5 tập 1. - Từ điển tiếng việt. - Sách phương pháp dạy học Tiếng việt. - Một số loại tạp chí giáo dục. Xin chân thành cảm ơn! Mỹ Phước,ngày 15/04/2013 Người viết. Hồ Minh Tâm ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________ _____________________________________________________________________.

<span class='text_page_counter'>(23)</span>

×