Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Cac bai van hay lop 9 313 de part1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.68 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề 1 : Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương</b>


Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi
lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hồ vào dịng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân
Nam bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.


Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chức
bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ơng. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần
gũi. Chính vậy nhà thơ Tố hữ có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc độgn.
Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác khơng ngi ngóng chờ, cho đến những ngày trước luc lâm chung thì trái tim ngươờ vẫn ln
huớng về mìen Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một nàgy mai nước nhà thống
nhất. Nhưng…Bác đã khơng chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân
ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc độgn, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân
tộc.


Và trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt
Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đén với Bác là
đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hố hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con
người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vnọg, hạnh phúc và hồ bình.
Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:


“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg”


Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”



Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho mn lồi, vạn
vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhận dân VN. “mặt trời” trong lăng thì vẫn ln chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi.
Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thốt khỏi kiếp đời nơ lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái
con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn
trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.


Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ


Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xn”


Hình ảnh dịng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín
màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa
xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình
tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá.


Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc nào khơng hay:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình n


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vãn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”


Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm
giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thơi. Lí trí thì nói bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống
mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ
mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta
nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã khơng cịn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các
hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lịng tơn kíh vô hạn
của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.



Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia
tay với Bác, tâm trạgn nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương
trào nước mắt” :


“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Múon làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”


Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chin” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đoá hoa” dâng hương
thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm”
nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Đề 2: Phân tích hình ảnh "Đầu súng trăng treo" trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu</b>


Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ
mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.


Đầu súng trăng treo - đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm
thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương
phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hồ quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình
ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn,
soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như khơng cịn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo
trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày
nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và
một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút
nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng.


Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến


cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong
sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.


Đầu súng trăng treo - hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh
của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ
kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích
chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy
tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khốc trên vai, nịng súng chếch lên
trời và ánh trăng lơ lửng ngay nịng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hồ Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh, lãng mạn
của người bảo vệ Tổ quốc.


Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà q, làm sao cịn nét lãng mạn? Và hãy thay
một lần nữa bằng từ “lên” cũng khơng phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ khơng cịn cái bất ngờ
màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm
trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một
không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng
phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có
hình khối của khơng gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó mang tính
biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên
trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thơi một nửa. Ai bỏ qn ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cơ kết nhất, hay nhất vẫn
là “Đầu súng trăng treo”.


Như đã nói ở trên, khơng phải ngẫu nhiên mà Chính Hun lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng,
là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng khơng thốt li, khơng qn được nhiệm
vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh
đạm thì cuộc sống vơ cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong
thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu


Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tơi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo
nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy


hát vang lên ca khúc Hồ Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.


Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình " Đồng chí"


Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng có cảm xúc, thơ sẽ khơng thể có sức lay động hồn người, khơng có sự chân
thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lịng
người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như đã trở
thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lịng cảm thơng sâu sắc của một nhà thơ cách mạng


Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm
xúc?


Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành
linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu
vào cả xuất thân của những người lính:


<i>"Quê hương anh đất mặn đồng chua</i>
<i>Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt
màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như khơng thể làm cho những người lính chùn
bước:


<i>"Anh với tôi đôi người xa lạ</i>


<i>Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau</i>
<i>Súng bên súng, đầu sát bên đầu</i>
<i>Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"</i>


Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý


tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái
chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:


<i>"Súng bên súng đầu sát bên đầu</i>
<i>Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ</i>
<i>Đồng chí !..."</i>


Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ khơng chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm
điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao q hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo
nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lịng người đọc. Trong mn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái
cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính
Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất
trong thơ Chính Hữu.


Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:


<i>"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày</i>
<i>Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay"</i>


Cái chất nơng dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ
quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà khơng mặc kẹ gió lung
lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé
nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau
lưng tất cả nhưng bóng hình của q hương vẫn trở thành nỗi nhớ khơn ngi của mỗi người lính. Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lịng họp vị
trí của q hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ
văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:


<i>"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"</i>


Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa "giếng nước gốc


đa" cũng có nỗi nhớ khơn ngi với những người lính. Nhưng khơng kể những vật vơ tri, tác giả cịn sử dụng nghệ thuật hốn dụ để nói lên nỗi
nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trơng của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chịng và những đơi trai gái yêu nhau....
Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:


<i>"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh</i>
<i>Sốt run người vầng trán đẫm mồ hơi</i>
<i>Áo anh rách vai</i>


<i>Quần anh có vài mảnh vá</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân không giày"</i>


Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính
Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta cịn nghèo, những người lính cịn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của
màn đêm...Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lịng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm.
Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, khơng giả dối, cao xa...Tình cảm ấy lan tỏa trong lịng
của tất cả những người lính. Tình đồng chí:


<i>"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa</i>
<i>Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa</i>
<i>Chia khắp anh em một mẩu tin nhà</i>


<i>Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp</i>
<i>Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"</i>
<i>(Nhớ - Hồng Nguyên)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>"Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"</i>


Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cơ đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính.


Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời
Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn.
Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:


"Đầu súng trăng treo"


Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
"Hồi chiến tranh ở rừng


Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)


Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hịa giữa khơng gian, thời gian,ánh trăng và người lính.
Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình u làm cho biểu tượng người lính khơng những chân thực mà cịn rực
rỡ đến lạ kì. Chất lính hịa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả
bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của
màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ
đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.


Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con
đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây u thương vơ hình.


Bài thơ " Đồng chí" với ngơn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người.
Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau...


<b>Đề 3 : Phân tích bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu</b>


Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả
chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mĩ vĩ đại. Giữa những đau
thương chiến đấu, cuộc chiến cịn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên khơng có gì khó hiểu khi vào


năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng
chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh
giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng
nhiều thế hệ.


<i><b>Đồng chí</b></i>


<i>Q hương anh nước mặn đồng chua</i>
<i>Làng tơi nghèo đất cày lên sịi đá</i>
<i>Anh với tơi vốn người xa lạ</i>


<i>Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.</i>
<i>Súng bên súng, đầu sát bên đầu</i>
<i>Đên rét chung chăn, thành đôi tri kỷ</i>
<i>Đồng chí!</i>


<i>Ruộng nương anh gửi bạn thân cày</i>
<i>Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay</i>
<i>Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.</i>
<i>Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh,</i>
<i>Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.</i>
<i>Áo anh rách vai</i>


<i>Quần tôi có vài mảnh vá</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân khơng giày</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành cơng cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng


như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nơng dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê


hương, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành một con



người mới: Người Lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con


trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đừơng chiến đấu:



<i>“Quê hương anh nước mặn đồng chua</i>
<i>Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá</i>


Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành


“đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.Câu thơ biến hố 7,8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại,


nén chặt lại.Những ngày đầu đứng dưới lá qn kì:”Anh với tơi đơi người xa lạ-Tự phương trời chẳng hen quen nhau”.


Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:



<i>“Súng bên súng đầu sát bên đầu</i>
<i>Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ</i>
<i>Đồng chí!”</i>


Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một


chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trỏ thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến


những con người xa lại thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn,


tình đồng chí.



Tấm lịng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày ,


mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thơi , nhưng nếu khơng có một tình


u đất nước sâu nặng khơng thể có một thái độ ra đi như vậy.



<i>“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày</i>
<i>Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay “</i>


Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi


vậy, nơng dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng.


Chỉ đến khi ở nơi kháng chiến người lính nơng dân áo vải lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa



cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính ln hiểu rằng


nơi q nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ cùng đám con thơ đang trơng ngóng anh trở về:



“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”



Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một


sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời


mìn.



Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nơng dân. Với họ vượt qua gian khổ


thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, khơng có gì phi thừơng cả.



<i>“Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh,</i>
<i>Sốt run người, vừng trán ướt mồ hơi.</i>
<i>Áo anh rách vai</i>


<i>Quần tơi có vài mảnh vá</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân không giày</i>


<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ Quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:


<i>“Đêm nay rừng hoang sương muối</i>


<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo.”</i>


Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối. Những


người lính kề vai, sát cánh cùng hứơng mũi súng vào kẻ thù . Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất



ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những ngừơi lính nơng dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như


những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.



Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập q nhiều đến hình tượng người lính mà lại khơng nói về tình đồng chí, tình


đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung q hương vất vả


khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền


vững nối cuộc đời ngững người lính với nhau để làm nên hai tiếng “ đồng chí " xúc động và thiêng liêng.



<i>“Quê hương anh nước mặn đồng chua</i>
<i>Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”</i>


Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính khơng chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ vừng ánh


sang lung lính, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng! Những căn bệnh quái ác, những đêm tối


lạnh buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gầy dựng vội vã. Nhưng những người lính đã cùng


nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng míếng áo rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội


giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ơi ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó.


Cái xiết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua


với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan .



<i>"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,</i>
<i>Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.</i>
<i>Áo anh rách vai</i>


<i>Quần tơi có vài mảnh vá</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân khơng giày</i>


<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"</i>


Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đừơng kháng chiến dân tộc. Nhưng dường như trước mắt những con



người này, mọi thứ khơng cịn hiểm nguy. Trong đêm trăng váng lặn, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những


người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.



<i>“Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới"</i>


Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng


đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh


mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích


hợp chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa những người lính …


Khơng chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí” cịn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao


hơn ở cuối bài:



<i>“Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo.”</i>


Người lính khơng cơ đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí


đã sưởi ấm lịng anh. Người chiến sĩ tồn tâm tồn ý hường theo mủi sung. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện


tưỡng kì lạ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng


chí, trải qua những thử thách khác nhau, Chình Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên khơng kết


hợp với hình ảnh “ đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược lại, nếu khơng có sự nâng đỡ của


của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hố cuộc sống chiến đấu người lính. Sự quyện nhuần nhuyễn giữa hiện


thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “ đầu súng trăng treo" trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ


ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự càm nhận


tinh tế của Chính Hữu. Nhờ sự lien tưởng thong minh tài tình, tâm hồn giàu cảm xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không


gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái gì đó rất bồng bềnh, huyền bí , khó tả .Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm


mĩ sâu sắc với người đọc . đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. “ Đầu súng trăng treo “ được



xây dựng bằng bút pháp siêu thực, đầy chất thơ. Tại sao vậy ? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật


hiện thực của “ nuớc mặn đồng chua", “ đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “ rừng hoang sương muối"; nó đã


góp phần tơ đẹp thêm hình tượng vầng trăng, cây súng. Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng


muôn thưở hấp dẫn và kì la, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hồ bình, hạnh phúc của nhân


loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tượi đẹp hồ bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan


hệ với súng . Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lí tưởng cao đẹp ,


tinh thần chếin đấu vì cuộc sống hồ bình dân tộc của ngừơi chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực . Tuy


đối lập , nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đep cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hồn mĩ nhất. Khơng phải ngẫu nhiên


khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ . Qua đó ơng muốn khẳng định cái khát vọng về một


cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sang mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải


cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình ảnh “ Đầu súng trăng treo" là một phát hiện thú vị, mới lạ độc đáo của Chính Hữu.


Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trăng và súng kết thành


một khơng gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thưở của dân tộc nói chung và ngừơi


lính nói riêng.



</div>

<!--links-->

×