Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.42 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TÂN HƯƠNG HUÊ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

TÂN HƯƠNG HUÊ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG


Hà Nội, năm 2021


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) vừa là một hình thức chuyển giao rủi ro, vừa
là một hình thức đầu tư tài chính. Mục tiêu của BHNT là đảm bảo khả năng chi
trả các chi phí tài chính của người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra
đối với người được bảo hiểm (NĐBH). Trong quan hệ BHNT, do hạn chế về
trình độ chuyên môn và khả năng đàm phán trực tiếp với doanh nghiệp bảo
hiểm (DNBH), người mua bảo hiểm thường ở vị thế bất lợi hơn trong việc thỏa
thuận dẫn đến nguy cơ từ chối chi trả bảo hiểm. Vì vậy, các quy định của pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng (người mua BHNT) trở thành yếu tố quan trọng
chi phối đến hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, một số
quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) đã khơng
cịn phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới.
Điều này vừa là rào cản cho sự phát triển của thị trường kinh doanh BHNT,
vừa khơng bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người mua BHNT hoặc
người thụ hưởng bảo hiểm.
Luật kinh doanh bảo hiểm (KDBH) đã được Quốc hội nước Cộng hịa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000 (sửa
đổi bổ sung năm 2010 và năm 2019) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong việc xây dựng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDBH trong đó có giao dịch
BHNT.
Hiện nay, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng (NTD) chưa quy định người
mua các sản phẩm BHNT là NTD thực thụ dẫn đến việc bảo vệ quyền lợi cho
họ gặp nhiều bất cập, rất khó khăn khi giải quyết các tranh chấp hoặc vi phạm
xảy ra.
Từ thực tiễn phát sinh, kết quả giải quyết các tranh chấp về BHNT và kết
quả nghiên cứu về thực trạng trên, có thể thấy các nguyên nhân chính ảnh hưởng

đến quyền lợi của NĐBH đó là hệ thống pháp luật về KDBH, quy định về bảo
vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, bất cập.
Việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) khi tham gia BHNT là vơ cùng cần thiết, có
1


ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên,
tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai ” làm
luận văn tốt nghiệp cấp học thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, một số cơng trình nghiên cứu cấp trường, cấp
bộ và các báo cáo chuyên sâu, chi tiết về BHNT như các yếu tố chi phối đến
pháp luật kinh doanh BHNT; đánh giá nội dung pháp luật về kinh doanh BHNT,
bao gồm những ưu điểm và hạn chế của các quy định hiện hành. Việc đánh giá
được thực hiện chi tiết theo cấu trúc của từng bộ phận pháp luật nhằm phát hiện
những bất cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành; xây dựng
các giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về kinh doanh BHNT nhằm thúc
đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường KDBH, đáp ứng quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Đơn cử một số cơng trình nghiên cứu như:
Năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê cho tái bản lần thứ nhất cuốn “Một
số điều cần biết về pháp lý trong Kinh doanh Bảo hiểm” của GS.TSKH. Trương
Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh. Trong lần tái bản này, cuốn sách đã bước
đầu đề cập những nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và
đây có thể coi là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam về vấn đề này.
Luận án tiến sỹ “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam,
những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Vũ Hải, trường Đại học
Luật, Hà Nội năm 2014, Luận án tập trung nghiên cứu những quan điểm hiện

hành và từ đó xây dựng nội dung lý luận về pháp luật kinh doanh; Đánh giá
nội dung pháp luật về kinh doanh BHNT, bao gồm những ưu điểm và hạn chế
của các quy định hiện hành. Việc đánh giá được thực hiện chi tiết theo cấu trúc
của từng bộ phận pháp luật nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế cơ bản của
các quy định pháp luật hiện hành; Xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật
hiện hành về kinh doanh BHNT; Là cơng trình chuyên khảo xây dựng hệ thống
lý luận về pháp luật kinh doanh BHNT cũng như đánh giá tương đối toàn diện
thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này.
2


Đề tài Bảo hiểm Nhân thọ theo pháp luật Việt Nam của tác giả Trịnh Thị
Bích Thủy, luận văn thạc sỹ nghành luật năm 2014. Luận văn là một trong
những cơng trình nghiên cứu chun sâu về BHNT theo pháp luật Việt Nam,
làm tài liệu tham khảo rất quý giá cho những cơng trình nghiên cứu tiếp theo
và trong hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, những ý kiến đóng góp tích cực
của Luận văn cũng góp phần giải quyết những bất cập hiện tại liên quan đến
vấn đề BHNT. Đồng thời Luận văn cũng tác động đến những nhà làm luật trong
việc ban hành quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong BHNT. Ngoài
ra, qua những tranh chấp được phân tích trong luận văn cũng phần nào góp
phần cung cấp những tri thức quý giá cho những người tham gia ký kết hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ.
Ngoài ra, cịn có một số cơng trình nghiên cứu liên quan cũng có nhiều
đề xuất, kiến nghị đáng chú ý đã được cơng bố, như:
Tác giả Phí Thị Quỳnh Nga (2006) trong bài báo “Những bất cập của
điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong Luật kinh doanh bảo hiểm” cho
rằng một số quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm cần được sửa đổi vì chưa
bao quát được hết các trường hợp cần điều chỉnh [54]
Tác giả PGS, TS. Hoàng Trần Hậu và ThS. Nguyễn Tiến Hùng (2013)
trong “Giám sát an tồn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt

Nam” đề xuất giải pháp khắc phục sự khác biệt giữa Chuẩn mực kế toán số 19
và quy định về trích lập dự phịng nghiệp vụ theo Thơng tư 125/2012/TT-BTC.
Tác giả Võ Trí Thành & Lê Xuân Sang (2013) trong tác phẩm “Giám
sát hệ thống tài chính: Chỉ tiêu và mơ hình định lượng” có đề xuất về xây dựng
mơ hình giám sát hợp nhất từ nay đến năm 2020. Tuy nhiên, các tác giả chưa
đề xuất cụ thể các bước thực hiện mục tiêu này.
Qua rà sốt, các cơng trình nghiên cứu chun sâu về BVQLNTD trong
lĩnh vực BHNT hiện nay là rất ít. Phần lớn các cơng trình nghiên cứu chỉ đề
cập đến pháp luật KDBH, về vấn đề quản lý, kinh doanh của các DNBH, số ít
các cơng trình nghiên cứu, các bài viết về vấn đề BVQLNTD trong lĩnh vực
BHNT cũng chỉ đề cập khái quát.

3


Việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là cần thiết để đảm bảo lợi ích cho
các bên khi tham gia bảo hiểm và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường
KDBH trong nước. Từ đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền lợi
NTD trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam hiện nay, thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai" là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận pháp luật
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực
BHNT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Làm rõ một số khía cạnh lý luận pháp luật về BVQLNTD như: Khái
niệm người tham gia bảo hiểm, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, cấu

trúc pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT.
- Đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về BVQLNTD trong lĩnh vực
BHNT tại Đồng Nai (thực tiễn áp dụng pháp luật của doanh nghiệp BHNT; cơ
quan giám sát, quản lý; cơ quan giải quyết tranh chấp...)
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật để BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh mối quan hệ giữa
người tham gia BHNT và doanh nghiệp kinh doanh BHNT kể từ khi có Bộ Luật
Dân sự năm 2015; Luật KDBH năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và năm
2019; Luật BVQLNTD năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Căn cứ trên các dữ liệu thu thập từ các cơng trình nghiên cứu, bài viết,
số liệu thống kê, tài liệu tham khảo, các báo cáo pháp luật hiện hành về

4


BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT, tình hình thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai được
công bố gần đây.
Luận văn chỉ đề cập và nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn thi
hành pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT ở Việt Nam hiện nay, thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai và khơng nghiên cứu các hình thức KDBH khác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên các quy định pháp luật Việt Nam về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
Phương pháp phân tích tổng hợp được dùng để phân tích, lập luận và
tổng hợp những vấn đề lý luận về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT.

Phương pháp so sánh pháp luật được dùng để so sánh quy phạm pháp
luật về BVQLNTD dùng trong lĩnh vực BHNT so với các nước phát triển và
đang phát triển.
Phương pháp thống kê được dùng để thống kê, thu thập dữ liệu báo cáo
thực tế ở địa phương để đánh giá hiệu quả thực hiện về BVQLNTD trong lĩnh
vực BHNT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nội dung Luận văn này là nghiên cứu chuyên sâu về BVQLNTD trong
lĩnh vực BHNT ở trình độ thạc sỹ. Kết quả nghiên cứu (sau khi được Hội đồng
thông qua) sẽ làm tài liệu tham khảo cho đối tượng có nhu cầu, tìm hiểu về
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT dưới góc độ khoa học pháp lý.
Luận văn là cơng trình nghiên cứu hệ thống lý luận pháp luật về BVQLNTD
trong lĩnh vực BHNT và đánh giá thực tiễn thi hành các quy định đó tại tỉnh Đồng
Nai, từ đó có những giải pháp phù hợp, mang tính khả thi, hạn chế phát sinh
các tranh chấp, vi phạm nhằm BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT trong thời gian
tới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung của luận văn có 3 chương, cụ thể như sau:

5


Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Người tiêu dùng (NTD) là người mua hàng hoá, dịch vụ để trực tiếp sử dụng
hoặc sở hữu.
Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là kinh doanh dịch vụ tài chính, theo đó,
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người cần được pháp luật bảo hộ.
Pháp luật của các nước về lĩnh vực KDBH khơng có định nghĩa riêng về quyền
lợi của người được bảo hiểm (NĐBH).
Do đó quyền lợi của NĐBH có thể được nhận diện qua suy luận từ quyền
lợi của NTD hưởng dịch vụ của nhà kinh doanh. Người tiêu dùng trong lĩnh
vực BHNT có thể là bên mua bảo hiểm (BMBH), NĐBH hoặc người thụ hưởng.
Từ phân tích trên ta có thể kết luận rằng quyền lợi của NTD trong lĩnh vực
BHNT chính là quyền lợi của BMBH, NĐBH hoặc người thụ hưởng.
Bên mua bảo hiểm (BMBH) được hiểu là NTD theo đúng định nghĩa về
NTD hiện hành.
1.1.2. Khái niệm và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) trong lĩnh vực BHNT
gắn liền với ý tưởng về quyền NTD và với sự thành lập của các tổ chức
BVQLNTD giúp NTD lựa chọn tốt hơn trên thị trường và trợ giúp họ bảo vệ
quyền lợi. Một số tổ chức thúc đẩy việc bảo vệ NTD bao gồm các tổ chức chính
phủ và các tổ chức kinh doanh tự điều chỉnh như các tổ chức và cơ quan bảo
vệ NTD, các cán bộ thanh tra, ở Mỹ có Uỷ ban Thương mại Liên bang và các

Văn phòng kinh doanh tốt hơn (Better Business Bureau) ở Mỹ và Canada...
Ngồi ra, lợi ích của NTD cịn được bảo vệ bằng cách thúc đẩy thương mại,
cạnh tranh lành mạnh, công bằng và minh bạch thông tin trên thị trường để
7


phục vụ NTD, phù hợp với hiệu quả kinh tế, tuy nhiên chủ đề này lại được đề
cập trong Luật Cạnh tranh.
Về mặt pháp lý, NTD được bảo vệ qua các quy định pháp luật trong đó
có Luật BVQLNTD, bao gồm những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD.
Ví dụ: Pháp luật có thể u cầu doanh nghiệp công bố thông tin về các sản
phẩm liên quan tới an toàn, sức khoẻ của cộng đồng. Luật pháp được thiết kế
như là các quy định để ngăn chặn các doanh nghiệp có các hoạt động gian lận
hoặc có các hoạt động không công bằng do giành được nhiều lợi thế hơn so với
các đối thủ cạnh tranh, giúp bảo vệ, bổ sung cho những người dễ bị tổn thương
nhất trong xã hội. Bảo vệ NTD cũng có thể được thực hiện thơng qua các tổ
chức phi chính phủ và cá nhân như là hoạt động của NTD.
Bản chất của BHNT là cách thức dự phịng tài chính an tồn cho tương
lai với mục đích thay thế nguồn thu nhập khi người tham gia gặp rủi ro bất trắc
(quyền lợi BHNT). Chính vì thế BHNT có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con
người, nó khơng chỉ giúp ổn định cuộc sống khi rủi ro bất ngờ xảy ra mà còn
là cách thức chia sẻ rủi ro trong cộng đồng bằng cách lấy số đơng bù số ít.
1.1.3. Các hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực

bảo hiểm nhân thọ
- Người tiêu dùng (NTD) tự bảo vệ mình trong quá trình đàm phán, ký
kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Người tiêu dùng phải ý thức, nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình trong việc đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
(HĐBHNT). Ngoài ra, NTD cần hiểu rõ quy định về các quyền của mình, cần

có kiến thức, tự tìm hiểu thêm để am hiểu về sản phẩm mà mình sẽ mua và có
năng lực để đối phó với các tranh chấp có thể xảy ra trước, trong hoặc sau quá
trình thực hiện HĐBHNT.
Trong quan hệ với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (DNBHNT), hơn ai
hết, NTD chính là người hiểu về nhu cầu của chính bản thân mình khi quyết
định tham gia vào các giao dịch, họ có quyền lựa chọn sản phẩm phù hợp với
nhu cầu và năng lực tài chính của mình hay u cầu được cung cấp thêm thông

8


tin hoặc thay đổi, bổ sung, hủy bỏ các điều khoản giao dịch và quyết định tham
gia hoặc không tham gia HĐBHNT.
Như vậy, NTD cần chủ động tự bảo vệ mình trước khi cần đến sự trợ giúp
của các cơ quan chức năng hoặc của pháp luật.
- Được bảo vệ thông qua pháp luật Nhà nước
Đây là một trong các quy định về quyền con người, với chức năng của
Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người được thực thi trên thực tế.
Trách nhiệm bảo vệ NTD sẽ do Nhà nước đảm nhận, để BVQLNTD,
pháp luật và thực thi pháp luật trong lĩnh vực BHNT là công cụ để nhà nước
bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm, duy trì trật tự, ổn
định xã hội.
- Được bảo vệ thông qua các tổ chức xã hội
Để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của bản thân, người
tiêu dùng có thể liên hệ với các tổ chức xã hội tham gia BVQLNTD. Vai trò
của các tổ chức xã hội này đã được xã hội hóa trong Luật Bảo vệ NTD năm
2010 và Nghị định số 99/2011/NĐ-CP.
Các tổ chức xã hội này sẽ hướng dẫn, giúp đỡ và tư vấn cho NTD khi
được yêu cầu, đại diện cho NTD khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện khi lợi ích
NTD bị xâm hại.

- Được bảo vệ thông qua Cục quản lý, giám sát bảo hiểm
Nhiệm vụ BVQLNTD trong BHNT thuộc trách nhiệm chủ yếu của Cục
quản lý, giám sát bảo hiểm. Đây là cơ quan thuộc Bộ tài chính, có chức năng
thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực KDBH; trực tiếp quản lý, giám sát
hoạt động KDBH; thực hiện chức năng BVQLNTD thông qua những hoạt động
như: xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH; giải quyết khiếu nại, tố cáo;
kiểm tra và giám sát hoạt động của DNBH; tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ để cấp, gia
hạn, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của DNBH; tổ chức thực hiện, tuyên
truyền về bảo hiểm; phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và các văn bản pháp luật về KDBH v.v.
- Được bảo vệ thông qua hoạt động tài phán

9


Các tranh chấp phát sinh từ giao kết HĐBHNT thường xuất phát từ hành
vi vi phạm hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên với lỗi cố ý hoặc vô ý làm
trái các điều, khoản trong hợp đồng. Trong trường hợp NTD thấy mình bị xâm
hại về quyền lợi chính đáng thì có quyền u cầu giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại hoặc tòa án, các phán quyết có giá trị bắt buộc các bên
phải thi hành.
1.1.4 Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ
Khái niệm bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là sản phẩm của các doanh nghiệp kinh
doanh bảo BHNT nhằm bảo vệ con người trước những rủi ro liên quan đến sức
khỏe, thân thể, tính mạng. Đơn giản là người tham gia thỏa thuận và ký kết
HĐBHNT với công ty bảo hiểm về việc sẽ đóng đúng những khoản phí đều
đặn vào quỹ dự trữ tài chính do cơng ty bảo hiểm quản lý để được chi trả số
tiền nhất định khi không may gặp rủi ro hoặc đến thời điểm đáo hạn.
Theo Khoản 1, Điều 12, Luật KDBH: Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả

thuận giữa BMBH và DNBH, BMBH phải đóng phí bảo hiểm, khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho NĐBH.
Đặc điểm bảo hiểm nhân thọ
BHNT là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho NĐBH sống hoặc chết. Chính
vì vậy mà BHNT mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe con người không xác định được
giá trị.
Thứ hai, sự kiện bảo hiểm khơng hồn tồn gắn liền với rủi ro. Sự kiện
bảo hiểm là sự kiện khách quan mà theo đó, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì
DNBHNT phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
NĐBH.
Thứ ba, chỉ DNBHNT mới được cung cấp. BHNT là bảo hiểm con người,
đây là thuộc tính cơ bản nhất của BHNT mà các loại bảo hiểm khác khơng có.
Ví dụ: bạn tham gia bảo hiểm tính mạng, sức khỏe thì bạn phải đóng phí khi
tham gia bảo hiểm. Trong khoản thời gian tham gia bảo hiểm nếu bạn gặp rủi
10


ro như tai nạn thì bạn sẽ được bên bảo hiểm chi trả các chi phí phát sinh trong
việc gặp rủi ro này.
Thứ tư, đây là loại hợp đồng dài hạn và thường mang tính tiết kiệm.
Khái niệm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi
trên cơ sở chấp nhận rủi ro của BMBH; KDBH chính là nghiệp vụ bảo hiểm
mà theo đó, KDBH chính là việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm
bao gồm khai thác bảo hiểm, lưu giữ hồ sơ và giải quyết bồi thường, hoặc bao
gồm việc thiết kế sản phẩm, định phí, lập dự phòng và phân phối sản phẩm bảo
hiểm. BHNT là sản phẩm của các DNBH nhằm bảo vệ con người trước những
rủi ro liên quan đến sức khỏe, thân thể, tính mạng. Đơn giản là người tham gia

thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo hiểm với DNBH về việc sẽ đóng đúng những
khoản phí đều đặn vào quỹ dự trữ tài chính do DNBH quản lý để được chi trả
số tiền nhất định khi không may gặp rủi ro hoặc đến thời điểm đáo hạn.
Chính vì thế BHNT có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó
khơng chỉ giúp ổn định cuộc sống khi rủi ro bất ngờ xảy ra mà còn là cách thức
chia sẻ rủi ro trong cộng đồng bằng cách lấy số đơng bù số ít.
1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ
Những vấn đề chung pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT
gồm: Pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT; đặc điểm pháp luật về
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT; vai trò và vị trí của pháp luật về BVQLNTD
trong lĩnh vực BHNT trong hệ thống pháp luật được phân tích chi tiết như sau:
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Luận văn đưa ra khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(BVQLNTD) trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là hệ thống các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận đảm bảo thực hiện, điều
chỉnh những quan hệ phát sinh giữa bên mua bảo hiểm (BMBH) với doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của BMBH.
11


Theo quy định tại Khoản 2, Điều 9 Luật KDBH năm 2000, sửa đổi năm
2010 và năm 2019 thì quyền lợi được bảo hiểm là: “quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối
với đối tượng được bảo hiểm”. Theo đó, xét dưới góc độ BHNT thì quyền lợi
bảo hiểm trong BHNT là “quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối
tượng được bảo hiểm”. “Cấp dưỡng” được định nghĩa tại Khoản 24, Điều 3
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Nghĩa vụ ni dưỡng, cấp dưỡng là nội dung quan trọng của pháp luật

hơn nhân và gia đình: nghĩa vụ nuôi dưỡng được xác lập giữa cha mẹ (cả cha
mẹ ruột, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế) với con cái (cả con ruột, con nuôi,
con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng) và ngược lại, giữa ông bà đối với
cháu và ngược lại, giữa cô, dì, chú, bác ruột với cháu. Ngoài nghĩa vụ được
pháp luật hơn nhân và gia đình xác lập, khơng cịn tồn tại bất kỳ quy định pháp
luật nào khác về quyền hoặc nghĩa vụ ni dưỡng, cấp dưỡng. Do đó, căn cứ
để xác lập quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng là quy định của pháp
luật hôn nhân và gia đình. Cách hiểu này là rất hẹp so với thực tiễn. Bởi vì,
ngồi mối quan hệ ni dưỡng, cấp dưỡng được xác lập theo quan hệ hơn nhân,
huyết thống thì cịn tồn tại các mối quan hệ ni dưỡng, cấp dưỡng khác như:
quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, quan hệ cấp dưỡng của
người phạm tội đối với những người mà người bị hại phải ni dưỡng nếu người
bị hại cịn sống…
Theo quy định của khoản 3 Điều 9 Luật KDBH, nghĩa vụ nuôi dưỡng,
cấp dưỡng phải gắn với đối tượng được bảo hiểm. Khoản 1, Điều 31 Luật Luật
KDBH quy định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ,
tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người”. Như vậy, có thể hiểu, quyền lợi bảo
hiểm trong BHNT là quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng của BMBH
đối với NĐBH phát sinh liên quan đến tuổi thọ, sức khỏe hoặc tính mạng của
NĐBH. Pháp luật KDBH Việt Nam khơng bảo hiểm cho những yêu tố khác
thuộc về con người như nghề nghiệp, bộ phận cơ thể người,… Ví dụ, pháp luật
bảo hiểm Việt Nam không cho phép một cá nhân mua bảo hiểm cho giọng hát của
nghề ca sĩ, hoặc đơi chân của cầu thủ bóng đá. Người mua bảo hiểm chỉ có thể
12


mua bảo hiểm cho cầu thủ bóng đá với sản phẩm bảo hiểm sức khỏe, sinh kỳ hoặc
tử kỳ. Theo đó, cầu thủ bóng đá chỉ được bảo hiểm cho tổn thất về sức khỏe khi
bị gãy chân chứ không được bảo hiểm cho tổn thất về thu nhập, chi trả tài chính
cho cuộc sống khi phải giải nghệ vì gãy chân.

Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm quyền lợi có thể
được bảo hiểm trong BHNT như sau: Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT
là quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa của người mua bảo hiểm với
NĐBH gắn liền về tính mạng, tuổi thọ, sức khỏe và tai nạn con người.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Về phương pháp luận, pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là
một bộ phận của pháp Luật KDBH và trong quan hệ KDBH, ngồi lợi ích chung
của nhà nước, của xã hội thì cịn có quan hệ lợi ích trực tiếp giữa DNBH và
NTD. Vì vậy, nền tảng của pháp luật về BVQLNTD xác định cần làm rõ những
tư tưởng mang tính nguyên tắc:
Thứ nhất, pháp luật phải thực hiện đúng chức năng công cụ của công
quyền với đúng nghĩa là sự bảo đảm của nhà nước trong một trật tự xã hội,
trong đó các chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, nội dung là sự
phản ánh nhu cầu của xã hội và pháp luật phải bảo đảm cân bằng lợi ích giữa
quyền tự do kinh doanh của DNBHNT với QLNTD. Nếu pháp luật chỉ chú
trọng đến QLNTD thì có thể dẫn tới tình trạng hạn chế quyền tự do kinh doanh
của DNBHNT và ngược lại, nếu tuyệt đối hóa quyền tự do kinh doanh của
DNBHNT thì sẽ dẫn đến tình trạng quyền lợi của NĐBH khơng được bảo đảm.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của DNBHNT với việc bảo đảm an toàn, hạn
chế rủi ro kinh doanh là hai vấn đề cần phải giải quyết đối với loại doanh nghiệp
này, vì đây là chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
Thứ hai, về phía NĐBH, pháp luật phải đảm bảo các quyền sau:
- Quyền được bình đẳng trong giao kết và thực hiện HĐBHNT. Tuy
nhiên thực tế cho thấy, đối với quan hệ BHNT, người tham gia bảo hiểm thường
là cá nhân, là bên yếu thế hơn so với DNBHNT khi giao kết và thực hiện hợp
đồng.
13



- Quyền được hướng dẫn, giải thích chi tiết để hiểu đúng và đầy đủ nhất
các nội dung của HĐBHNT. Hoạt động kinh doanh BHNT gồm các tác nghiệp
mang tính kỹ thuật kinh tế cao, đòi hỏi người mua bảo hiểm phải có kiến thức
hoặc hiểu biết tối thiểu về bảo hiểm. Nếu khơng, người mua bảo hiểm có thể sẽ
thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, dẫn đến bất lợi, hoặc có thể
khơng được trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Quyền được trả tiền bảo hiểm theo đúng nội dung đã thỏa thuận. Đây
là quyền lợi quan trọng nhất, vì nó là mục đích chính của BMBH.
- Ngồi ra BMBH cịn có các quyền như quyền được lựa chọn, được lắng
nghe, được khiếu nại, được an toàn và được đền bù.
Thứ ba, pháp luật về BVQLNTD đảm bảo ràng buộc trách nhiệm của
các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong mối quan hệ với NTD; có chế tài, xử lý đủ
sức răn đe, loại bỏ những bất cập vốn có, huy động được sự tham gia của toàn
xã hội trong việc bảo vệ NTD.
Chính vì lẻ đó, pháp luật BVQLNTD cần chứa các yếu tố cân bằng lợi
ích giữa DNBHNT và NTD cũng như lợi ích của xã hội, tạo nên mơi trường
kinh doanh lành mạnh, bền vững; thông qua hoạt động bảo vệ NTD nhằm nâng
cao trách nhiệm của DNBHNT với NTD, đảm bảo trật tự công, đảm bảo các
quyền lợi của doanh nghiệp, tránh tình trạng NTD lợi dụng chính sách để trục
lợi bảo hiểm, gây thiệt hại cho DNBHNT.
Như vậy pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT cần có là tổng
hợp các quy định về tư cách pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết
HĐBHNT, về cơ chế kiểm soát, giám sát đối với hoạt động KDBH nhằm mục
tiêu bảo đảm NTD được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm theo HĐBHNT hoặc
theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Vai trị và vị trí của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ trong hệ thống pháp luật
Người tiêu dùng (NTD) trong quan hệ giao dịch với doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ (DNBHNT) luôn ở vị thế yếu hơn, khơng cân xứng. Vì thế, vai
trị của pháp luật BVQLNTD nên là công cụ để đảm bảo hiệu chỉnh, khắc phục

vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa NTD và DNBHNT.
14


Pháp luật BVQLNTD tại Việt Nam trước đó có quy định tại Pháp lệnh
BVQLNTD có hiệu lực từ 01/10/1999. Pháp lệnh đã điều chỉnh việc bảo vệ
quyền lợi của người tham gia BHNT trong thời gian này với những ghi nhận rõ
ràng về quyền và trách nhiệm của NTD, trách nhiệm của các cơ quan chính
quyền cũng như của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Sau đó, pháp luật
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT tiếp tục được quy định tại các văn bản pháp
luật khác nhau như Luật KDBH năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010 và năm
2019), Luật BVQLNTD năm 2010, Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản
hướng dẫn liên quan. Những văn bản này đã và đang có tác động trực tiếp, tích
cực đến nền kinh tế, xã hội, đến nhận thức của các DNBHNT và bản thân NTD
trong giao kết HĐBHNT nói riêng và trong vấn đề BVQLNTD nói chung.
1.2.4. Cấu trúc nội dung pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT đã trở thành một lĩnh vực
pháp luật độc lập, có vị trí nhất định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, góp phần
tạo nên một mơi trường kinh doanh công bằng, pháp quyền và hiện đại.
Cấu trúc pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT có thể được nhận
diện từ nhiều góc độ khác nhau với những mục tiêu khác nhau.
Theo NAIC (National Association of Insurance Commissioners) Hiệp
hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm Hoa Kỳ thì mục tiêu của pháp luật KDBH là
để bảo vệ NTD, bảo đảm những cam kết của DNBHNT phải được thực hiện
đúng. Nội dung pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT bao gồm các quy
định về cấp phép cho DNBHNT, dịch vụ bảo hiểm; quy định về quy chế tài
chính; quy định về sản phẩm bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
(HĐBHNT), trách nhiệm của người bán sản phẩm; quy định về bồi thường, về
giải quyết tranh chấp giữa NTD và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

(DNBHNT).
Để phân tích cấu trúc pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tham
BHNT, cần làm rõ từ “cái gốc” của hiện tượng xã hội, đó là các quan hệ phát
sinh từ hoạt động kinh doanh BHNT. Theo đó, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
của người tham gia BHNT cần điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội sau:
15


Thứ nhất, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội định hình tư
cách chủ thể của các bên trong HĐBHNT nhằm xác định địa vị pháp lý của
NTD, của DNBHNT với những quyền và nghĩa vụ phù hợp với chức năng của
nó trong mối tương quan với các chủ thể khác của nền kinh tế. Với năng lực
chủ thể được pháp luật quy định, DNBH kinh doanh BHNT sẽ có cơ sở pháp
lý để tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách là một chủ thể độc lập bao
gồm những quy định: Thành lập và hoạt động của DNBHNT; quy định về cơ
cấu, tổ chức cùng với những quyền và nghĩa vụ của DNBHNT khi hoạt động,
trong đó quyền và nghĩa vụ khi thực hiện hoạt động kinh doanh BHNT là những
quy định quan trọng, đặc trưng nhất.
Thứ hai, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ HĐBHNT giữa
DNBHNT với người mua BHNT. DNBHNT với tư cách chủ thể kinh doanh
sản phẩm BHNT, sẽ tiến hành “phân phối” các sản phẩm của mình thơng qua
một giao dịch HĐBHNT. Do sản phẩm BHNT là dịch vụ, không giống như
những sản phẩm hàng hóa nên trong HĐBHNT cần phải mô tả rõ ràng và cụ
thể về nội dung dịch vụ đó với những quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
hợp đồng. Vì thế, pháp luật điều chỉnh về HĐBHNT được xem như một bộ
phận pháp luật quan trọng đối với việc BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT.
Thứ ba, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội là các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện việc giám sát, giải quyết tranh chấp và xử lý các vi phạm
khi có khiếu nại, tố cáo của người tham gia bảo hiểm hoặc DNBHNT với mục
đích là BVQLNTD.

Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ với tư cách là một chủ thể kinh doanh,
chịu sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Quan hệ pháp
luật phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với DNBHNT chủ
yếu là quan hệ pháp luật hành chính, dựa trên nguyên tắc mệnh lệnh giữa một
bên là chủ thể quản lý và một bên là chủ thể chịu quản lý, bao gồm các nội
dung: Xác định những quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể
khác có thẩm quyền trong hoạt động giám sát; xác định những nghĩa vụ mà
DNBHNT cần phải tuân thủ và thực hiện để đảm bảo sự minh bạch, công bằng

16


trên thị trường bảo hiểm tự do cạnh tranh và đảm bảo nguyên tắc bảo vệ người
tham gia bảo hiểm.
Nội dung pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT cụ thể như sau:
1.2.4.1. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên
- Quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHNT
Điều 8 của Luật BVQLNTD năm 2010 quy định về tám quyền của NTD
như sau: (1) quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; (2) quyền được an
toàn; (3) quyền được thông tin; (4) quyền được lắng nghe; (5) quyền được lựa
chọn; (6) quyền được giáo dục, đào tạo và tiêu dùng; (7) quyền được khiếu nại
và bồi thường; (8) quyền được có mơi trường sống lành mạnh và bền vững.
Người tiêu dùng có bốn nghĩa vụ sau: (1) biết phê bình; (2) có ý thức
cộng đồng và xã hội; (3) hành động; (4) hiểu biết về tiêu dùng và mơi trường.
Ngồi các quyền và nghĩa vụ nêu trên, theo Điều 18 Luật KDBH, người tham
gia bảo hiểm cịn có các quyền và nghĩa vụ như sau:
Bên mua bảo hiểm có quyền:
Lựa chọn DNBH hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm;
Yêu cầu DNBH giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm;

Đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBHNT theo quy định tại Khoản 3
Điều 19, Khoản 1 Điều 20 của Luật KDBH: “Yêu cầu DNBH trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH theo thỏa thuận trong
HĐBHNT khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; chuyển nhượng HĐBH theo thỏa thuận
trong HĐBHNT hoặc theo quy định của pháp luật; và các quyền khác theo quy
định của pháp luật”.
Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:
Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận
trong HĐBH; kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến HĐBH
theo yêu cầu của DNBH; thơng báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro
hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện
HĐBH theo yêu cầu của DNBH; thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện
bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT; áp dụng các biện pháp đề phòng,
17


hạn chế tổn thất theo quy định của Luật KDBH và các quy định khác của pháp
luật có liên quan; và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
- Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền: thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong
HĐBHNT; yêu cầu BMBH cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến
việc giao kết và thực hiện HĐBHNT; đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBH
theo quy định tại Khoản 2 Điều19, Khoản 2 Điều 20, Khoản 2 Điều 35 và
Khoản 3 Điều 50 của Luật KDBH; từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc từ chối bồi thường cho NĐBH trong trường hợp không thuộc phạm
vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo
thỏa thuận trong HĐBHNT; yêu cầu BMBH áp dụng các biện pháp đề phòng,
hạn chế tổn thất theo quy định và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: giải thích cho BMBH về các điều

kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của BMBH; cấp cho BMBH giấy
chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết HĐBHNT; trả tiền
bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm; giải thích bằng văn bản lý do từ chối chi trả bảo hiểm hoặc
từ chối bồi thường; và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của hai bên cần minh bạch thông tin khi giao kết
HĐBHNT là để đảm bảo cho HĐBHNT có hiệu lực pháp. DNBHNT có nghĩa
vụ bảo đảm cho BMBH thực sự hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của mình trong
hợp đồng, giúp cho BMBH có thể lường trước được những khó khăn, rủi ro có
thể gặp phải khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Ngồi ra, DNBHNT phải cơng
bố thơng tin chung về hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp; tình hình
tài chính cũng như mức độ rủi ro và giải pháp quản lý rủi ro ... trước cơ quan
giám sát và cơng chúng. Cũng như phía DNBHNT, bên mua bảo hiểm cũng
phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin đầy đủ và rõ ràng cho DNBHNT biết nhằm
bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Người tham gia bảo hiểm hay NTD trong
lĩnh vực BHNT có cả NĐBH và người thụ hưởng, tuy nhiên hiện nay chưa có
quy định nào đề cập về vấn đề này.
18


1.2.4.2. Quy định về điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
nhân thọ
- Quy định về cấp phép hoạt động
Kinh doanh về BHNT là một lĩnh vực có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế
và xã hội. DNBHNT phải được cấp phép thành lập theo các điều kiện do pháp
luật quy định nhằm đảm bảo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
chức năng giám sát.
Những điều kiện DNBHNT cần đáp ứng khi được cấp phép là điều kiện
về quy mơ vốn; có trụ sở chính ổn định; năng lực của đội ngũ quản lý, điều
hành; có chiến lược kinh doanh và KDBH là hoạt động chính của doanh nghiệp.

- Quy định về cơ cấu tổ chức, nhân sự và quản lý
Pháp luật Việt Nam cũng như các quốc gia đều đưa ra những yêu cầu,
quy định về cơ cấu, tổ chức nhân sự, đặc biệt là quy định đối với thành viên
Hội đồng quản trị, các chủ sở hữu và cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý điều hành
cấp cao của DNBHNT, quy định về điều kiện cung ứng sản phẩm BHNT, quy
định về hoạt động đầu tư của DNBHNT; quy định về khả năng thanh toán của
DNBHNT.
1.2.4.3. Quy định về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Về bản chất, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là giao dịch dân sự, về nguyên
tắc của giao dịch dân sự nói chung ln được pháp luật tơn trọng. Từ mối quan
hệ giữa người tham gia BHNT và DNBHNT, cùng với bản chất của sản phẩm
BHNT mà pháp luật về HĐBHNT thường tập trung quy định về mặt nội dung,
về mặt hình thức và về hiệu lực của HĐBHNT.
Người tham gia bảo hiểm
Trong lĩnh vực BHNT, khái niệm về người tham gia bảo hiểm hay NTD
như đã phân tích ở trên là để chỉ bên mua bảo hiểm (BMBH) và các chủ thể có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến HĐBHNT, nó bao gồm cả NĐBH và người
thụ hưởng. Ngoài những điều kiện chung để đảm bảo tư cách chủ thể của
BMBH như trong các giao dịch dân sự khác thì một nội dung đặc biệt được
pháp luật quy định là BMBH phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Mục đích

19


của bảo hiểm chỉ đạt được nếu BMBH phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm,
điều này sẽ làm hạn chế được tình trạng trục lợi bảo hiểm xảy ra.
Quyền lợi có thể được bảo hiểm là những lợi ích của BMBH đối với đối
tượng được bảo hiểm, nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm thì BMBH sẽ bị thiệt hại.
Việc giải thích có hay khơng có quyền lợi có thể được bảo hiểm là ở ba trường
hợp:

Một là, trong trường hợp mua bảo hiểm cho bản thân mình hoặc cho vợ,
chồng, con...;
Hai là, có thể xảy ra tổn thất về mặt tài chính;
Ba là, có lợi ích về tài chính theo quy định của pháp luật.
Nội dung và hình thức của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Nội dung của HĐBHNT là những thỏa thuận giữa người tham gia bảo
hiểm và DNBHNT được ghi nhận trong HĐBHNT. Trong quan hệ HĐBHNT
có một số thỏa thuận rất đặc trưng, vì HĐBHNT là một loại hợp đồng rất phức
tạp, do đó người tham gia bảo hiểm có thể khơng lưu ý được hết các điều khoản
quan trọng trong hợp đồng đã được DNBHNT soạn thảo sẵn. Vì vậy, để bảo vệ
quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, pháp luật phải quy định chi tiết về
những nội dung cần phải có trong HĐBHNT. Trên thực tế thì một bộ HĐBHNT
thường có nhiều văn bản khác nhau tập hợp lại như giấy yêu cầu bảo hiểm,
bẳng minh họa quyền lợi bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm .v.v.
Một bộ HĐBHNT thường bao gồm nhiều văn bản khác nhau là do: một
là, quá trình giao kết hợp đồng gồm nhiều bước công việc và hai bên thường
không trực tiếp gặp nhau để cùng ký kết, nên để được bảo hiểm thì BMBH phải
thực hiện kê khai một số mẫu biểu theo trình tự thủ tục quy định của DNBHNT;
hai là, trong cùng một sản phẩm BHNT thì tập điều khoản bảo hiểm là giống
nhau, thậm chí giữa các sản phẩm BHNT tương tự nhau, nên DNBHNT thường
in sẵn để dùng chung cho các HĐBHNT; ba là, DNBHNT và BMBH có thể
thỏa thuận thêm về một hay một số sản phẩm bổ trợ cho sản phẩm chính, sự
thỏa thuận này có thể khác nhau giữa những người mua bảo hiểm, và sau cùng,
DNBHNT cịn có thể yêu cầu BMBH thực hiện thêm một số loại giấy tờ khác

20


để đảm bảo đánh giá đúng tình trạng của đối tượng bảo hiểm và những yêu cầu
này giữa các HĐBHNT là không giống nhau.

Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Quy định về hiệu lực (quy định về thời điểm có hiệu lực và những trường
hợp HĐBHNT bị vơ hiệu) của HĐBHNT rất quan trọng bởi vì chỉ khi hợp đồng
có hiệu lực thì các bên mới có quyền và nghĩa vụ với nhau.
Thời điểm có hiệu lực của HĐBHNT được quy định tương tự như các
hợp đồng thông thường. Do đặc thù của việc giao kết HĐBHNT thường không
được các bên trực tiếp thực hiện việc ký kết, nên hiệu lực của HĐBHNT thường
bắt đầu kể từ khi DNBHNT chấp nhận bảo hiểm.
Khi xét đến tính hiệu lực của HĐBHNT, một vấn đề pháp lý hết sức quan
trọng cần lưu ý đó chính là trường hợp hợp đồng vơ hiệu. Có hai trường hợp
đương nhiên vơ hiệu và có khả năng vơ hiệu. Các hợp đồng thực hiện giao dịch
khơng hợp pháp, khơng đảm bảo tính cơng bằng hoặc có ảnh hưởng đến lợi ích
chung hoặc do chủ thể giao kết không đủ năng lực hành vi dân sự v.v. là trường
hợp hợp đồng đương nhiên vô hiệu. Đối với các hợp đồng đã có hiệu lực, đang
được thực hiện tuy nhiên việc giao kết hợp đồng là do nhầm lẫn, thiếu tự do ý
chí, trình bày khơng đúng hình thức hoặc khi có vi phạm nghiêm trọng các điều
khoản của hợp đồng gây thiệt hại cho một bên thì đây là những trường hợp hợp
đồng có khả năng vơ hiệu.
Ngồi những trường hợp HĐBHNT bị vơ hiệu theo quy định chung của
pháp luật về hợp đồng, pháp luật về kinh doanh BHNT cịn có những quy định
riêng đối với một số trường hợp, chẳng hạn như trường hợp một trong các bên
không trung thực khi giao kết hợp đồng hoặc khi BMBH khơng có quyền lợi
có thể được bảo hiểm.
1.2.4.4. Quy định về giám sát kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Đối với lĩnh vực BHNT, hoạt động giám sát và khả năng xử lý những vi
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giữ một vai trò rất quan
trọng nhằm đảm bảo ở mức độ lớn nhất có thể để DNBHNT ln đảm bảo
nguồn tài chính để thanh tốn tất cả các khiếu nại khi đến hạn cũng như đảm
bảo cho DNBHNT sẽ xử sự một cách công bằng đối với người tham gia bảo
21



hiểm trong tất cả các giao dịch. Pháp luật về giám sát hoạt động kinh doanh
BHNT về cơ bản thường có những quy định sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định về thẩm quyền giám sát của các cơ quan
nhà nước. Chức năng giám sát được giao cho các cơ quan chuyên trách nhằm
bảo đảm yếu tố độc lập cũng như hiệu quả về chun mơn. Trách nhiệm giám
sát có thể được kết hợp giữa cơ quan nhà nước với các hiệp hội có liên quan,
các cơ quan kiểm tốn, hội đồng các giám đốc DNBHNT...
Thứ hai, pháp luật quy định về nội dung giám sát. Nhìn chung, pháp luật
Việt Nam và các quốc gia đều ghi nhận nội dung giám sát phải đa dạng để đảm
bảo cho các cơ quan giám sát có khả năng đánh giá đúng về thị trường bảo hiểm
cũng như tình hình hoạt động của DNBHNT với hai mục tiêu chính đó là đảm
bảo sự tn thủ quy định pháp luật của DNBHNT và có khả năng đưa ra những
cảnh báo kịp thời để đảm bảo sự an toàn cho DNBHNT và BVQLNTD trong
lĩnh vực BHNT. Giám sát được tập trung chủ yếu vào các nội dung chính sau:
việc cấp phép hoạt động; đầu tư vốn cũng như các biện pháp phòng ngửa rủi ro và
xử phạt; tiêu chuẩn đối với người quản lý, điều hành, hoạt động kinh doanh. Bằng
tất cả những nguồn lực sẵn có cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát
với nhau, cơ quan giám sát thực hiện giám sát hoạt động thị trường bảo hiểm, phân
tích những yếu tố tác động đến thị trường bảo hiểm cũng như DNBHNT. Việc
thực thi quyết định và xử phạt vi phạm được thực hiện rõ ràng, khách quan và phải
công bố công khai.
Thứ ba, pháp luật quy định về phương thức giám sát. Có hai phương thức
giám sát cơ bản là giám sát gián tiếp và giám sát trực tiếp, pháp luật trao quyền
cho cơ quan giám sát căn cứ tình hình thực tiễn thực hiện một trong hai hoặc
cả hai phương thức giám sát trên. Giám sát gián tiếp được thực hiện bằng hoạt
động tiếp nhận thông tin và đánh giá thơng tin theo những tiêu chí quy định cụ
thể. Giám sát trực tiếp được các cơ quan giám sát thực hiện kiểm tra trực tiếp
tại DNBHNT đối với hoạt động kinh doanh, việc tuân thủ pháp luật và các yêu

cầu của cơ quan giám sát. Để đảm bảo hoạt động giám sát được thực hiện hiệu
quả, các cơ quan giám sát có thể kết hợp giữa hai phương thức giám sát nêu
trên.

22


1.2.4.5. Quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tham
gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Cần có phương thức giải quyết hiệu quả đối với các tranh chấp phát sinh
do xung đột về lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Pháp luật về hợp
đồng quy định bốn phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản, gồm: thương
lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Bốn phương thức này được pháp luật
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT kế thừa làm cơ sở pháp lý giải quyết tranh
chấp giữa NTD và DNBHNT. Cơ quan nhà nước và trọng tài chỉ can thiệp theo
yêu cầu của các bên tranh chấp vì việc giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh dựa trên nguyên tắc tự định đoạt của các bên.
Khi có cơ sở cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm
thì bên mua bảo hiểm (BMBH) có quyền gửi yêu cầu đến DNBHNT để yêu cầu
giải quyết và thương lượng. DNBHNT có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu và tiến
hành thương lượng với BMBH trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được yêu cầu của BMBH. Kết quả thương lượng thành hoặc
không thành đều phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác.
Khi xảy ra tranh chấp, DNBHNT và NTD có quyền thỏa thuận lựa chọn
bên thứ ba để thực hiện việc hịa giải (có thể là cá nhân hoặc tổ chức hòa giải) trên
nguyên tắc khách quan, trung thực, thiện chí, khơng bị ép buộc, lừa dối. Các bên
có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc kết quả hòa giải thành trong thời hạn đã được
thỏa thuận ghi cụ thể trong biên bản hòa giải, nếu một bên khơng thực hiện nghiêm
túc theo biên bản hịa giải thành thì bên kia có quyền khởi kiện ra Tịa án để yêu

cầu giải quyết.
DNBHNT phải thông báo về điều khoản trọng tài cho người tham gia
bảo hiểm biết và phải được người tham gia bảo hiểm chấp thuận trước khi thực
hiện giao kết HĐBHNT. Trường hợp điều khoản trọng tài được DNBHNT thiết
kế sẵn trong HĐBHNT theo mẫu hoặc là điều kiện giao dịch chung thì khi xảy
ra tranh chấp, người tham gia bảo hiểm là cá nhân có quyền lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp khác.

23


×