Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 12 trang )

Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 901-912

Tạp chí Khoa học Nơng nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 901-912
www.vnua.edu.vn

SO SÁNH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) VỤ ĐƠNG
TRONG AO MỞ NGỒI TRỜI VÀ HỆ THỐNG TRONG NHÀ TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
Nguyễn Hữu Vinh1,2, Đặng Thị Hóa1, Lê Thị Cẩm Vân1, Đồn Thị Nhinh1, Trần Thị Trinh1,
Đỗ Hồng Hiệp3, Trương Đình Hồi1, Kim Văn Vạn1, Phạm Thị Lam Hồng1, Lê Việt Dũng1*
1

Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2
Công ty VMC Việt Nam
3
Trung tâm Giống thủy hải sản Nam Định
*

Tác giả liên hệ:
Ngày chấp nhận đăng: 03.06.2021

Ngày nhận bài: 13.05.2021
TĨM TẮT

Hệ thống ni tơm trong nhà ISPS (Indoor Shrimp Production System) với các hệ thống xử lý nước trong điều
kiện nhiệt độ thấp đã được phát triển ở Nhật Bản. Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá mức độ phù hợp và
hiệu quả kỹ thuật của nuôi tôm chân trắng trong hệ thống ISPS trong điều kiện Việt Nam. Hai ao nuôi trong ISPS
được so sánh với hai ao ni ngồi trời trong vụ đông ở Nam Định. Kết quả cho thấy, nuôi trong ISPS cho năng suất
tôm (51,84 ± 1,45 tấn/ha) và tốc độ sinh trưởng (0,175 ± 0,006 g/ngày) tốt hơn tơm ni trong ao ngồi trời (39,94 ±
0,27 tấn/ha, 0,135 ± 0,001 g/ngày). Thành phần thực vật phù du đều đa dạng ở các ao nhưng mật độ tảo lam trong
nước ao ISPS (< 104 tế bào/ml) thấp hơn ao ni ngồi trời (> 104 tế bào/ml). Mẫu nước ao ni trong ISPS có mật


độ Vibrio parahaemolyticus (từ 0,6 × 101 - 4,4 × 101 CFU/ml) thấp hơn của mẫu nước ao ni ngồi trời (1,2 × 103 2,1 × 103 CFU/ml) trong 11 tuần theo dõi. Thêm nữa, mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong gan tụy tơm
ở ao ISPS (2,3 × 102 - 3,2 × 103 CFU/ml và 1,1 × 102 - 8,9 × 102 CFU/ml, tương ứng) thấp hơn ở ao mở (1,5 × 103 1,6 × 104 CFU/ml và từ 8,3 × 103 - 9,8 × 103 CFU/ml, tương ứng). Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống ISPS có
tiềm năng ứng dụng ni tơm tại miền Bắc Việt Nam.
Từ khóa: ISPS, Vibrio, tôm chân trắng.

Technical Efficiency
of White-Leg Shrimp (Litopenaeus vannamei) Culture over Winter Crop
Between Outdoor Ponds and Indoor Shrimp Production System in Nam Dinh Province

ABSTRACT
The Indoor Shrimp Production System (ISPS) with the treating water systems at low temperature was developed in
Japan. This study evaluated the applicability and technical efficiency of growing white-leg shrimp in the ISPS under
Vietnamese conditions. Two ponds in the ISPS were compared with two outdoor ponds overwinter in Nam Dinh. The
ISPS ponds showed a better yield (51.84 ± 1.45 ton/ha) and growth of shrimp (0.175 ± 0.006 g/day) compared with the
outdoor ones. The phytoplankton communities of the two treatments were diverse; however, the cyanobacteria density
4
4
in the ISPS pond water (<10 cell/ml) was lower than the outdoor water (> 10 cell/ml). The density of Vibrio
1
1
parahaemolyticus in the ISPS pond water (0.6  10 - 4.4  10 CFU/ml) was lower than that in the probiotic one (1.2 
3
3
10 - 2.1  10 CFU/ml) over 11 weeks. In addition, the total Vibrio and V. parahaemolyticus densities of the shrimp’s
hepatopancreas in ISPS ponds (2.3  102 - 3.2  103 CFU/ml và 1.1  102 - 8.9  102 CFU/ml, respectively) were lower
than those in the outdoor ones (1.5  103 - 1.6  104 CFU/ml và 8.3  103 - 9.8  103 CFU/ml, respectively). The results
demonstrated the potential applicability of the ISPS in culturing shrimp in the North of Vietnam.
Keywords: ISPS, Vibrio, white-leg shrimp.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nam Định là một trong những tỉnh ở miền

Bắc có tiềm năng phát triển thâm canh hóa ni
tơm chân trắng. Theo thống kê đến năm 2017,
diện tích ni của Nam Định hơn 810ha, sản

901


So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

lượng đạt khoảng 2.654 tấn với năng suất bình
quân 3-4 tấn/ha/năm (Sở NN&PTNT, 2018).
Đây là các vùng có cơ sở hạ tầng cơ sở tốt và áp
dụng các công nghệ mới trong sản xuất. Một số
cơ sở áp dụng công nghệ kỹ thuật mới đã mang
lại năng suất cao 35 tấn/ha/vụ. Mục tiêu tới
năm 2025, diện tích ni tơm nước lợ đạt
4.175ha với sản lượng 9.700 tấn, trong khi đến
năm 2030 diện tích giảm còn 3.680ha nhưng
sản lượng 11.250 tấn. Xu hướng trong thời gian
tới về diện tích ni là khơng tăng và có nguy cơ
giảm do nhiều diện tích đất đã được quy hoạch
để sử dụng với mục đích khác (UBND tỉnh Nam
Định, 2018). Việc ứng dụng công nghệ nuôi tôm
thẻ trong nhà sẽ góp phần giải quyết các nguy
cơ hiện tại, giúp tăng năng suất và tính bền
vững, đáp ứng định hướng khơng tăng diện tích
ni mà sản lượng tăng.

Ngồi vấn đề diện tích ni hạn chế, tình
hình dịch bệnh tơm ni trên địa bàn tỉnh Nam
Định cũng diễn biến phức tạp. Tại một số vùng
nuôi tôm tập trung của huyện Hải Hậu, huyện
Giao Thủy thường xuyên xuất hiện bệnh đốm
trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp (Sở
NN&PTNT, 2018). Hầu hết khi bị bệnh, nước
thải ao nuôi không được xử lý đều được xả trực
tiếp ra mơi trường, do đó mầm bệnh lây lan
nhanh. Người nuôi tôm chủ yếu theo các quy
trình cơng nghệ thay nước hoặc vi sinh hoặc
phần lớn dựa vào kinh nghiệm. Việc ứng dụng
công nghệ thay nước đang gặp khó khăn lớn do
diện tích đất có hạn và lượng chất thải nhiều.
Bên cạnh đó với tình hình biến đổi khí hậu thất
thường cùng với mùa đơng nhiệt độ thấp khiến
công nghệ vi sinh gặp nhiều thách thức. Vì vậy,
nghiên cứu ứng dụng các cơng nghệ mới vào
ni tôm vụ đông là rất cấp thiết để giải quyết
các vấn đề gặp phải, góp phần vào sự phát triển
bền vững nghề nuôi tôm tại Nam Định.
Từ những năm 2000, Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học nông nghiệp quốc tế Nhật Bản đã hợp
tác với Trung tâm Khuyến ngư quốc gia Nhật
Bản, Công ty TNHH Công nghệ thủy sản quốc tế
IMTE và một số doanh nghiệp Nhật Bản nghiên
cứu hoàn thiện công nghệ nuôi tôm trong nhà
ISPS. Kết quả thử nghiệm với công nghệ ISPS
tại Nhật Bản cho thấy năng suất nuôi tôm đạt
9,43 kg/m3 với tỉ lệ sống 75% (Wider & Nohara,


902

2017), cao hơn so với các mơ hình ni hiện tại ở
tỉnh Nam Định.
Công nghệ này ứng dụng các thiết bị luân
chuyển nước, lưới lọc micron, vi bọt khí và giá thể
vi sinh nhân tạo. Công nghệ ISPS là công nghệ
nuôi tôm trong nhà với các khả năng quản lý
chất lượng nước và chất thải tốt, giảm thiểu dịch
bệnh; đặc biệt được phát triển ở Nhật Bản có
mùa đơng lạnh hơn miền Bắc Việt Nam; vì thế nó
có thể giúp người nuôi tôm ở Nam Định đương
đầu với những thách thức hiện nay. Trong thập
kỷ vừa qua, hệ thống nuôi tôm trong nhà cũng
được thử nghiệm ở nhiều nước khác nhau như
Mỹ (Ray, 2019), Thái Lan (McIntosh, 2019) và
Indonesia (Suantika & cs., 2018) và được xác
định là xu hướng ni bền vững trong tương lai.
Vì vậy, để đánh giá khả năng ứng dụng của
công nghệ này trong điều kiện Việt Nam, chúng
tôi đã thiết kế và xây dựng hệ thống ISPS và
thử nghiệm so sánh giữa nuôi tôm trong hệ
thống ISPS và trong ao ngoài trời.

2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Hệ thống và thiết kế thí nghiệm
Thiết kế hệ thống ISPS được thực hiện theo
nguyên lý được mô tả trong Wider & Nohara
(2017). Tất cả các trang thiết bi, hệ thống vận

hành đi kèm sử dụng trong nghiên cứu được
nghiên cứu chế tạo, lắp đặt tại Việt Nam. Thí
nghiệm được thực hiện ở trang trại nuôi tôm tại
Nam Định với 04 ao liền nhau (dài  rộng  sâu,
25  20  2m). Tôm nuôi theo công nghệ ISPS
được thử nghiệm trong 2 ao có mái che. Vật liệu
phủ gồm 2 lớp bạt dệt PE ngăn mưa từ đỉnh phủ
đến sát mặt dầm bê tông, bụi và giữ nhiệt cho
mùa đơng có khả năng cắt 30% ánh sáng. Tơm
ni theo công nghệ vi sinh được triển khai ở 2
ao ngoài trời (2 ao đối chứng). Hai ao đối chứng
được trang bị sục khí và quạt nước giống như
hai ao ISPS (gồm 1 máy thổi khí 3HP/2 ao và 2
quạt 1,5 kW/ao). Hai ao có mái che được trang bị
hệ thống lọc tuần hoàn và hệ thống cung cấp
oxy (Sansolver, Sanso, Nhật Bản). Hệ thống lọc
tuần hoàn gồm 1 bể hàu, 1 bể lọc lưới (Sakae), 1
bể lọc vi sinh và 1 hệ thống điện hóa siêu âm
(Jetek, Huetronics). Bể hàu có thể tích 1m3 và
chứa 200kg hàu. Bể lọc lưới (3m3) có kích cỡ mắt


Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đồn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh,
Đỗ Hồng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng

lưới 50µm và bộ tự động xịt rửa để loại bỏ cặn.
Bể lọc vi sinh 3m3 chứa giá thể lọc kadness. Hệ
thống điện hóa siêu âm có thể tích 400l với cơng
suất bơm 60 m3/h, cường độ điện hóa 8,9V và
cường độ siêu âm 1.200W. Hệ thống nâng oxy

gồm máy trộn khí và bình oxy. Sơ đồ bố trí hệ
thống ni tơm ISPS được mơ tả ở hình 1.
2.2. Quản lý thức ăn
Tôm chân trắng PL35 được chuyển từ bể
ương xuống các ao thí nghiệm vào đầu tháng
12/2020 và được ni tiếp trong 77 ngày, tương
đương ngày ni 112 tính từ PL12. Mật độ tôm
nuôi trong 4 ao là 400 con/m3. Tôm được cho ăn
thức ăn Grobest No.2, No.2M, No.2ML, No.2L,
No.3 và No.4 (Protein thô: 39-40%; Chất béo
tổng số 5-7%; Lysine tổng số min 1,7%;
Methionine + Cystine tổng số min 0,9%) theo
từng giai đoạn phát trển. Tôm được cho ăn bằng
máy tự động cho đến khi thu hoạch. Máy được
cài đặt chế độ 10 phút quay một lần, một lần
quay 12 giây. Tôm được cho ăn 16 tiếng/ngày.
Trong một số ngày nhiệt độ thấp hoặc thời tiết
thay đổi, tơm có thể được dừng cho ăn hoặc giảm
50% lượng thức ăn đồng loạt ở các ao thí
nghiệm. Khẩu phần ăn hàng ngày được ước tính
theo % sinh khối của đàn tơm và điều chỉnh
thông qua hoạt động kiểm tra nhá. Nếu trong
nhá khơng cịn thức ăn thì tăng lượng thời gian
lên 2 giây và ngược lại. Trộn men hỗ trợ tiêu
hóa và thảo dược phòng bệnh vào thức ăn.
Lọc hàu

Ghi chú:

: Điểm lắp dây khí ;


: Hệ thống nâng oxy:

2.3. Quản lý chất lượng nước
2.3.1. Quản lý các thông số thủy lý thủy hóa
Chế độ thay nước trong 2 ao ni ngồi trời
là 5-20%/ngày và trong 2 ao ni ISPS là
2-5%/ngày theo kích cỡ tơm, tơm càng to thì tỉ
lệ thay nước càng lớn. Oxy trong ao ngoài trời
và ao ISPS được duy trì ở mức tương ứng 5 và
7ppm. Các chỉ tiêu độ mặn, nhiệt độ và oxy hòa
tan được đo hàng ngày và chỉ tiêu pH được đo 2
lần/ngày bằng máy đo các yếu tố môi trường đa
năng Aqua TROLL 500 (In-situ, Mỹ). Chỉ tiêu
tổng ammonia (TAN) và NO2 được đo 3
ngày/lần bằng kit Sera. Hệ thống cấp oxy, sục
khí và quạt nước được kết hợp vận hành để
cung cấp oxy hòa tan và quản lý chất thải rắn.
Trước và trong khi cho ăn, hệ thống cung cấp
oxy và sục khí được chạy, sau khi cho ăn một
đến hai giờ, hệ thống quạt nước được vận hành
để gom chất thải. Siphon chất thải 2-3
lần/ngày và cấp bù nước đã qua xử lý. Tăng
sinh vi khuẩn có lợi hiếu khí từ 1 gói chế phẩm
vi sinh bột (gói 1kg, chứa các chủng Bacillus
spp. như Bacillus licheniformis, Bacillus
megaterium, Bacillus pumilus với lượng tối
thiểu 1 × 1012 CFU) trong xơ 20L và bổ sung
vào ao 2-3 ngày/xô cùng với mật đường theo tỉ
lệ 20-30% lượng thức ăn sử dụng. Chế phẩm

EM và vi khuẩn tía dạng lỏng được nhân sinh
khối rồi tạt đều xuống ao 3 lần/tuần với lượng
100 l/lần.
Lọc
Sakae

Lọc sinh học

: Hệ thống điện hóa siêu âm.

Hình 1. Sơ đồ hệ thống nuôi tôm ISPS

903


So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

2.3.2. Theo dõi thành phần và mật độ tảo
Một lít nước được thu ở mỗi góc ao và trộn
đều với nhau. Một lít nước mẫu được thu từ hỗn
hợp này và bảo quản trong thùng xốp mát. Mẫu
nước được gửi về phịng phân tích 1 tuần/lần để
xác định thành phần và mật độ tảo trong nước.
Một lượng 100ml mẫu nước ao được cố định bằng
formalin 4%. Xác định mật độ tế bào được tiến
hành bằng cách đếm tế bào trên buồng đếm hồng
cầu (thể tích 10-4ml; Neubauer improved, Đức).
Cơng thức tính mật độ tế bào: D = A × 104 (tb/ml),
trong đó: A là tổng số tế bào đếm được trong

buống đếm. Mỗi mẫu được đếm ba lần và giá trị
trung bình của ba lần đếm được tính là mật độ
của mẫu. Mật độ của từng lồi tảo của mỗi ao
được tính bằng giá trị trung bình của mật độ lồi
đó trong cả q trình theo dõi. Tảo được phân
loại và định danh dựa trên hình thái theo
Nguyễn Văn Tuyên (2003) và Tan & cs. (2016).
2.3.3. Định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số
và V. parahaemolyticus trong nước ao nuôi
Phương pháp thu mẫu nước được thực hiện
theo TCVN 5998:1995. Tại mỗi ao nuôi, tiến
hành thu 4 mẫu nước/ao với tần suất 1 tuần/lần
để định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số và V.
parahaemolyticus. Mẫu được bảo quản ở nhiệt
độ 4°C và chuyển về phịng thí nghiệm trong
vịng 3-5 giờ để định lượng ngay sau đó. Mật độ
Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus được xác
định theo tiêu chuẩn TCVN 8988:2012.
2.4. Quản lý sức khỏe tôm
2.4.1. Theo dõi sức khỏe và sinh trưởng tôm
Hàng ngày kiểm tra lượng tơm lột xác mỗi
khi xả đáy xong, nếu có hiện tượng tôm chết sẽ
áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời. Thường
xuyên kiểm tra sức khỏe của tôm nuôi: gan tụy,
đường ruột, các phụ bộ, màu sắc thân tôm, độ
trong và mỏng của vỏ và hoạt động bơi lội. Tôm
được bắt mẫu đo khối lượng 1 tuần 1 lần để
đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng.
2.4.2. Định lượng vi khuẩn Vibrio tổng số
và V. parahaemolyticus trong gan tụy tôm

Mật độ Vibrio tổng số từ gan tụy của tôm
cũng được xác định theo TCVN 8988:2012. Mẫu

904

tôm được thu tại sàng ăn với số lượng 15
con/ao/tuần và được chuyển ngay theo phương
pháp vận chuyển kín về phịng thí nghiệm. Các
khối gan tụy được tách ra trong điều kiện vô
khuẩn, trộn đều, nghiền để đồng nhất mẫu.
Tiến hành lấy 0,1g và pha loãng theo dãy nồng
độ để định lượng vi khuẩn. Phương pháp định
lượng được thực hiện theo tiêu chuẩn TCVN
8988:2012.
2.4.3. Định danh V. parahaemolyticus
Ít nhất 5 khuẩn lạc điển hình và đại điện ở
các mẫu được lựa chọn ngẫu nhiên trên các đĩa
môi trường TCBS, nuôi cấy thuần và tăng sinh.
Kit API 20E được sử dụng để định danh sơ bộ vi
khuẩn theo hướng dẫn của nhà sản xuất. DNA
vi khuẩn được tách từ mơi trường tăng sinh sử
dụng kít tách chiết InstaGene™ Matrix (BioRad, USA), theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Để giám định V. parahaemolyticus, cặp mồi đặc
hiệu phát gen độc độc lực toxR, mồi xuôi toxR-F:
GTCTTCTGACGCAATCGTTG và mồi ngược
toxR-R: ATACGAGTGGTTGCTGTCATG (Kim
& cs., 1999) được sử dụng. Đối chứng dương là
DNA
được
tách

chiết
từ
chủng
V. parahaemolyticus VNUA05-19 được cung cấp
bởi Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
2.5. Phân tích số liệu
Dữ liệu quan trắc từng yếu tố mơi trường
trong thời gian dõi thí nghiệm được tổng hợp
ở dạng giá trị trung bình theo ngày cho từng
ao nuôi.
Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của tôm (ADR;
g/ngày) = (Khối lượng tôm ở thời điểm ngày nuôi
112 - Khối lượng tôm ban đầu)/Số ngày nuôi.
Tốc độ sinh trưởng tương đối của tôm (SGR;
%/ngày) = (ln(Khối lượng tôm ở thời điểm ngày
nuôi 112) - ln(Khối lượng tôm ban đầu))/Số ngày
ni × 100%.
Tổng khối lượng tơm ước tính (kg) = Lượng
thức ăn ở ngày nuôi 112 chia cho tỉ lệ phần trăm
thức ăn trên khối lượng tôm (2%) do tơm chưa
thu vào thời điểm kết thúc thí nghiệm. Lượng
tơm ước tính này đã được xác nhận sát với lượng
tơm cân được sau đó.


Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đồn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh,
Đỗ Hồng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng

trung bình trong 77 ngày theo dõi của nghiệm
thức ISPS luôn cao hơn 2°C so với ao đối chứng

(P <0,05). Giá trị trung bình tổng đạm ammonia
(TAN) của các ao nuôi ISPS cao hơn so với của
các ao đối chứng (P <0,05). Hàm lượng NO2
trong nước ở các ao ISPS thấp hơn có ý nghĩa
thống kê với các ao đối chứng (P <0,05). Độ kiềm
của ao ISPS được xác định cao hơn so với các ao
đối chứng (P <0,05). Nồng độ oxy hòa tan của
các ao ISPS cũng cao hơn của các ao đối chứng
khoảng 2 mg/l (P <0,05).

Tỉ lệ sống (%) = (Tổng khối lượng tơm ước
tính/Kích cỡ tơm) /Số tơm thả ban đầu × 100%.
FCR = Lượng thức ăn sử dụng/ Tổng khối
lượng tăng ước tính của tơm.
Năng suất (tấn/ha) = Tổng khối lượng tơm
ước tính (tấn)/Diện tích ao × 10.000
Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn (SD)
của các số liệu môi trường, sinh trưởng, FCR, tỉ
lệ sống và năng suất ước tính của từng nghiệm
thức được tính cho hai lần lặp lại, tương đương 2
ao. Số liệu tỉ lệ sống được chuyển sang dạng
arcsin trước khi phân tích thống kê. Các thơng
số này giữa hai nghiệm thức được so sánh thống
kê one-way ANOVA và phương pháp Tukey’s
test với độ tin cậy 95% bằng phần mềm Minitab.
Số liệu mật độ tảo, mật độ Vibrio tổng số và
V. parahaemolyticus được phân tích theo thống
kê mơ tả.

Các yếu tố môi trường như pH, TAN, NO2

và độ kiềm của cả 2 nghiệm thức đều ở ngưỡng
thích hợp cho sinh trưởng của tôm do đều được
bổ sung chế phẩm vi sinh và khống định kỳ
trong suốt q trình ni. Giá trị pH có xu
hướng giảm dần trong thời gian theo dõi và nằm
trong ngưỡng thích hợp cho tơm thẻ chân trắng
(Zhang & cs., 2006). Toàn bộ kết quả đo
ammonia đều nằm dưới ngưỡng an tồn cho tơm
chân trắng (Lin & Chen, 2001), trong khi hàm
lượng NO2 cũng ở mức không gây ảnh hưởng tới
khả năng sống sót hay sinh trưởng của tơm
(MELO & cs., 2018). Độ kiềm được duy trì trong
khoảng khuyến cáo phù hợp cho sinh trưởng của
tôm theo Ebeling & cs. (2006). Hàm lượng oxy
hòa tan và nhiệt độ trong ao ISPS luôn ở mức
cao hơn so với các ao đối chứng. Đây là ưu điểm
của công nghệ ISPS trong nuôi tôm vụ đông,
làm tăng tốc độ sinh trưởng của tôm.

3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Biến động một số chỉ tiêu hóa lý trong
mơi trường nước
Giá trị pH nước của các ao nuôi theo công
nghệ ISPS và ao đối chứng có giá trị tương
đương nhau trong suốt quá trình theo dõi (Bảng
1). Chênh lệch pH nước giữa sáng và chiều
trong các ao nuôi ISPS và đối chứng không có sự
khác biệt (P >0,05). Tuy nhiên, nhiệt độ nước ao

Bảng 1. Các chỉ tiêu môi trường của hai nghiệm thức ISPS và đối chứng

Nghiệm thức

Chỉ tiêu

ISPS (TB ± SD, n = 2)

ĐC (TB ± SD, n = 2)

pH sáng

7,3-7,9

7,1-7,5

pH chiều

7,5-8,0

7,3-7,8

Chênh lệch pH sáng - chiều

0,1-0,3

0,1-0,3

a

Nhiệt độ (°C)


22,04 ± 0,00

Độ mặn (ppt)

20 ± 0,00

b

20,08 ± 0,06

a

20 ± 0,00

b

a

1,30 ± 0,007

a

b

TAN (mg/l)

2,09 ± 0,021

NO2 (mg/l)


1,23 ± 0,028

1,82 ± 0,085

Độ kiềm (mg/l)

144,28 ± 0,76

a

131,79 ± 1,12

DO (mg/l)

6,93 ± 0,011

4,94 ± 0,017

a

b

b

b

Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng có mang chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa
thống kê (P <0,05).

905



So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

Bảng 2. Các chỉ tiêu sinh trưởng và tỉ lệ sống của tôm
ở hai nghiệm thức ISPS và đối chứng
Nghiệm thức
W o (g)

ISPS (TB ± SD, n = 2)

Đối chứng (TB ± SD, n = 2)

1,80 ± 0,12

1,823 ± 0,005

a

W t (g)

16,308 ± 0,601

ADW (g/ngày)

0,188 ± 0,006

SGR (%/ngày)


2,286 ± 0,039

Tỉ lệ sống
FCR
Năng suất (tấn/ha)

b

13,225 ± 0,035

a

0,148 ± 0,001

a

2,573 ± 0,007

79,5 ± 0,71

a

75,5 ± 0,71

1,400 ± 0,014

1,425 ± 0,007

a


51,84 ± 1,45

b
b

b

b

39,94 ± 0,27

Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng có mang chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa
thống kê (P <0,05).

3.2. Sinh trưởng của tơm
Khi bắt đầu thí nghiệm, tơm có khối lượng
khoảng 1,8g. Sau 77 ngày ni, khối lượng tơm
trung bình ở các ao ISPS, lớn hơn có ý nghĩa
thống kê với khối lượng tơm trung bình ở ao đối
chứng (Bảng 2, P <0,05). Tốc độ sinh trưởng
tuyệt đối của tôm ở ao ISPS cao hơn so với ao
đối chứng (P <0,05). Tương tự, tốc độ sinh
trưởng tương đối của tơm ở ao ISPS cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với tôm nuôi ở ao đối chứng
(P <0,05). Tỉ lệ sống của tôm nuôi trong các ao
ISPS cao hơn so với của các ao đối chứng
(P <0,05). Không có sự khác biệt về FCR giữa
các ao ni tơm ISPS và ao nuôi đối chứng
(P >0,05). Năng suất trung bình của các ao ni
tơm theo cơng nghệ ISPS đạt 51,84 ± 1,45

tấn/ha, cao hơn so với của các ao ni đối chứng
(P <0,05).
3.3. Thành phần thực vật phù du
Có tổng cộng 6 ngành tảo Chlorophyta,
Cyanobacteriophyta,
Bacillariophyta,
Euglenophyta, Xanthophyta và Pyrrophyta đều
được xác định trong cả ao ISPS và đối chứng.
Trong ngành Chlorphyta, xuất hiện 1 lớp
Chlorophycease, 4 bộ Volvocales, Tetrasporales,
Shizogoniales,
Chlorococcales

7
họ
Chlamydomonadaceae, Polybleplepharidaceae,
Volvocaceae, Tetreasporaceae, Oocystaceae,
Coelastraceae và Micractiniaceae trong nước ao
nuôi. Trong ngành Cyanobacteriophyta, xuất
hiện tảo thuộc 2 lớp Chroococceae và

906

Hormogoneae, 3 bộ Chroococcales, Nostocales
và Oscillatoriales, 7 họ Coccobactreaceae,
Merismopediaceae,
Microcystidaceae,
Anabaenaceae,
Oscillatoriaceae,
Pseudonostocaceae và Gloeocapsaceae. Trong

ngành Bacillariophyta, các lồi tảo được tìm
thấy trong 1 lớp Centricae, 4 bộ Discinales,
Biddulphiales, Thalassiosirales và Raphinales,
5
họ
Coscinodiscaceae,
Chaetocertaceae,
Thalassiosiraceae,
Naviculaceae

Nitzschiaceae. Trong ngành Euglenophyta, tảo
chỉ xuất hiện trong 1 lớp Euglenophyceace, 1 bộ
Euglenales, 1 họ Euglenaceace. Trong ngành
Ochrophyta, tảo chỉ được tìm thấy trong 1 lớp
Xanthophyceae, 1 bộ Heterothrichales và 1 họ
Tribonemataceae. Tương tự, trong ngành
Pyrrophyta, tảo được tìm thấy trong 1 lớp
Dinophyceae, 1 bộ Gymonodimales và 1 họ
Gymnodiniaceae.
Thành phần tảo trong những ao nuôi đối
chứng đa dạng hơn trong những ao ISPS. Số loài
tảo xác định được trong các ao đối chứng là 54
loài và trong ao ISPS là 41 lồi (Hình 2). Các
lồi tảo xác định được trong ao ISPS đều được
tìm thấy trong ao đối chứng. Mật độ tảo trong
ao đối chứng cũng cao hơn so với ao ISPS. Điển
hình nhất là tảo lục Chlamydomonas sp. (> 104
tế bào/ml) và Chlorella spp. (> 104 tế bào/ml);
tảo lam Aphanpcapsa sp. (< 104 tế bào/ml),
Microcytis aeruginosa (> 104 tế bào/ml),

Anabaena sp. (> 104 tế bào/ml) và
Ankistrodesmus falcatus (< 104 tế bào/ml).


Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đồn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh,
Đỗ Hồng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng

Hình 2. Thành phần lồi tảo trong hai nghiệm thức ISPS và đối chứng
Thành phần thực vật phù du là chỉ số quan
trọng để đánh giá điều kiện môi trường và sức
khỏe động vật thủy sản trong ao vì nó nhạy cảm
với những thay đổi môi trường cả về sinh khối và
mức độ da dạng (Li & cs., 2009). Dương Thị
Hoàng Oanh & cs. (2014) đã quan sát thấy ở các
ao tôm bệnh, mật độ các ngành tảo giáp, tảo mắt,
tảo lam đều cao hơn so với ao tôm khoẻ và cao
nhất là tảo lam. Tương tự như các nghiên cứu
trước (Yusoff & cs., 2002; Meng & cs., 2018),
nghiên cứu này cho thấy rằng Chlorophyta,
Bacillariophyta và Cyanobacteriaphyta là những
ngành tảo có thành phần lồi chiếm ưu thế. Mật
độ tảo cao hầu hết đều được quan sát thấy trên
một số loài tảo lam và tảo lục. Mật độ tảo lam ở
mức thấp hơn trong các ao ISPS so với các ao đối
chứng, chứng tỏ hệ thống lọc và thiết bị điện hóa
siêu âm đã có tác dụng trong việc kiểm sốt tảo
lam. Khả năng loại bỏ tảo lam bằng siêu âm cũng
đã được chứng minh trong các nghiên cứu trong
điều kiện phịng thí nghiệm (Wu & cs., 2011;
Huang & cs., 2020). Các ao đối chứng có mật độ

tảo lam vượt mức 104 tế bào/ml, cho thấy tình
trạng phú dưỡng cao hơn ao ISPS. Theo Paerl

(1988), tảo nở hoa khi một hay hai loài chiếm ứu
thế với mật độ 104-106 tế bào/ml và các loài này
chiếm 95-99% trong tổng sinh khối. Mặc dù tảo
lam ở mật độ cao trong các ao đối chứng, nhưng
chưa xuất hiện hiện tượng tảo nở hoa trong hệ
thống ni. Điều này có thể do thành phần lồi
tảo trong nước ni khá đa dạng (nhiều hơn 8
lồi tảo/mẫu) khiến quần xã tảo chưa bị đẩy tới
pha tàn.
3.4. Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus
từ mẫu nước và gan tụy tơm
Các khuẩn lạc phát triển trên TCBS có hình
thái điển hình như trịn, lồi, bờ đều, màu xanh
đều cho kết quả kiểm tra sinh hóa tương đồng với
chủng chuẩn V. parahaemolyticus VNUA05-19
gây bệnh hoại tử gan tụy cấp ở tôm ni (Hình
3). Kết quả giám định PCR từ DNA vi khuẩn có
khuẩn lạc đặc trưng cũng dương tính và có sản
phẩm 368bp trùng với sản phẩm của chủng đối
chứng dương (Hình 4). Như vậy những khuẩn lạc
vi khuẩn phát triển trên mơi trường TCBS có
hình thái đặc trưng như trên được định danh là
vi khuẩn V. parahaemolyticus, vì vậy kết quả

907



So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

đếm riêng những khuẩn lạc dạng này phát triển
trên đĩa nuôi cấy từ nước ao hoặc từ gan tụy tơm
được sử dụng để tính mật độ vi khuẩn
V. parahaemolyticus.
Mật
độ
Vibrio
tổng
số

V. parahaemolyticus (0-1,3 × 103 CFU/ml và
0-2,0 × 102 CFU/ml, tương ứng) trong mẫu nước
ao ISPS thấp hơn nhiều so với của ao đối chứng
trong suốt q trình thử nghiệm (0-4,4 × 104
CFU/ml và 0-1,6 × 104 CFU/ml, tương ứng;
Hình 5). Mật độ Vibrio tổng số và
V. parahaemolyticus trong mẫu nước ao đối
chứng có xu hướng tăng dần trong q trình
ni. Hai ao đối chứng có mật độ Vibrio tổng số
trong nước tăng mạnh vào ngày ni 42 (1,4 ×

104 - 1,6 × 104 CFU/ml) và 56 (3,4 × 104 - 4,4 ×
104 CFU/ml). Tương tự, mật độ vi khuẩn
V. parahaemolyticus tăng mạnh vào cùng thời
điểm ngày 42 (2,2 × 103 - 2,5 × 103 CFU/ml) và
ngày 56 (6,0 × 103 - 1,6 × 104 CFU/ml). Mặc dù
không tăng mạnh vào sau ngày 56, mật độ

Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus ở ao đối
chứng vẫn có xu hướng tăng theo chu kỳ 3 tuần
tương ứng từ khoảng 0 tới 4,0 × 103 CFU/ml và 0
tới 2,7 × 103 CFU/ml. Trong khi đó, mật độ vi
khuẩn Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus
của nước ao ISPS được kiểm soát liên tục ở mức
thấp (< 103 CFU/ml và < 102 CFU/ml, tương
ứng) như khuyến cáo của Tang & cs. (2020) và
khơng tăng theo chu kỳ.

Hình 3. Ni cấy vi khuẩn Vibrio tổng số (A)
và cấy thuần V. parahaemolyticus (B) trên môi trường thạch TCBS

Ghi chú: M-Marker; 1-5: một số chủng đại diện V. parahaemolyticus phân lập từ mẫu nước và gan tụy tôm;
6: đối chứng âm; 7: đối chứng dương (chủng VNUA05-19).

Hình 4. Nhuộm Gram vi khuẩn V. parahaemolyticus sau khi cấy thuần (A)
và kết quả giám định vi khuẩn bằng kỹ thuật PCR (B)

908


Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đồn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh,
Đỗ Hồng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng

Ghi chú: Đường đứt đoạn ngang là mức khuyến cáo theo Tang & cs. (2020).

Hình 5. Mật độ Vibrio tổng số (A)
và V. parahaemolyticus (B) trong nước ao giữa hai nghiệm thức ISPS và đối chứng
Tơm có tỉ lệ sống và tốc độ sinh trưởng

trong nghiệm thức ISPS cao hơn trong nghiệm
thức đối chứng. Một phần nguyên nhân tỉ lệ
sống cao hơn có thể là do mật độ Vibrio tổng số
và V. parahaemolyticus trong nước và gan tụy
tôm được kiểm soát ở mức thấp hơn trong các
ao ISPS. Khi cảm nhiễm tôm thẻ chân trắng
với V. parahaemolyticus ở nồng độ 104 và 105

CFU/ml, Soto-Rodriguez & cs. (2015) đã quan
sát thấy tỉ lệ chết tương ứng là 50% và 93% sau
46 giờ, trong khi mật độ vi khuẩn này ở mức
dưới 103 CFU/ml thì khơng gây chết cho tơm
chân trắng sau 167 giờ. Nước ở 2 ao đối chứng
có mật độ V. parahaemolyticus lên tới 6 × 103
và 1,6 × 104 CFU/ml vào ngày 56, có thể là
nguyên nhân gây chết, giảm tỷ lệ sống của tôm

909


So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

trong hệ thống nuôi này. Ngay sau khi có kết
quả phân tích, chúng tơi đã tiến hành khử
trùng nước kịp thời để giảm mật độ vi khuẩn
trong nước ao đối chứng, làm giảm tỷ lệ tơm
chết. Trong khi đó, nước trong các ao ISPS
được kiểm soát mật độ khuẩn Vibrio liên tục,
hầu hết các thời điểm đều thấp hơn 103 CFU/ml

nhờ khả năng diệt khuẩn của thiết bị điện hóa
siêu âm. Hiệu suất diệt khuẩn của thiết bị này
có thể đạt tới 94,4% trong 300 giây với mẫu
nước ao tơm có mật độ Vibrio 19,7 × 103

CFU/ml (Nguyễn Văn Cường, 2016). Sóng siêu
âm tạo ra các vi bọt khí trong nước do áp suất
tĩnh của chất lỏng giảm dưới mức ấp suất bay
hơi của nó (Doosti & cs., 2012). Khi các bọt khí
vỡ, một nguồn năng lượng lớn được giải phóng,
áp suất có thể đạt tới 500-10.000 atm và nhiệt
độ lên đến 3.000- 5.000°K các gốc tự do
hydroxyl (OH°) và hydro (H°) sẽ được hình
thành (Patil & Pantid, 2007). Sau đó, nhiệt độ
và áp suất cao cục bộ cùng với các gốc tự do
giết chết vi khuẩn (Piyasena & cs., 2003).

Ghi chú: Đường đứt đoạn ngang là mức khuyến cáo theo Tang & cs. (2020).

Hình 6. Mật độ Vibrio tổng số (A)
và V. parahaemolyticus (B) trong gan tụy tôm giữa hai nghiệm thức ISPS và đối chứng

910


Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đồn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh,
Đỗ Hồng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng

Năng suất nuôi tôm trong nhà dao động lớn
giữa các cơng bố. Đối với các ao trong nhà có

diện tích lớn (0,5-0,8ha) ở Trung Quốc, năng
suất lại chỉ đạt 0,69 kg/m3 (Peng & cs., 2014). So
với hệ thống nuôi tôm trong các bể 100 L tuần
hoàn trong nhà ở Indonesia (Suantika & cs.,
2018) hệ thống ISPS hiện tại có năng suất tương
đương (5 kg/m3). Với công nghệ ISPS đã được tối
ưu hóa (như nhiệt độ, độ mặn, oxy hịa tan, lọc
sinh học) ở Nhật Bản, năng suất nuôi tôm dao
động 6-9 kg/m3 (Wider & Nohara, 2017). Trong
khi đó, năng suất nuôi tôm trong nhà sử dụng
các bể 40 và 100m3 ở Mỹ dao động 4-9 kg/m3
(Samocha, 2019). Như vậy, việc ứng dụng các
công nghệ tiên tiến trong hệ thống nuôi tôm
trong nhà đã giúp tăng năng suất nuôi tôm.

4. KẾT LUẬN
Năng suất nuôi tôm của công nghệ ISPS
lần đầu được thử nghiệm tại Việt Nam ở quy mô
ao 500m2 cho thấy tiềm năng ứng dụng công
nghệ này vào thực tiễn sản xuất. Năng suất ước
tính vào ngày ni thứ 112 từ PL12 ở các ao
ISPS (51 tấn/ha) cao hơn ở các ao đối chứng (39
tấn/ha). Mặc dù năng suất này chưa bằng kết
quả thử nghiệm tại Nhật nhưng cơ sở vật chất
và thiết bị đều được xây dựng và chế tạo trong
nước. Một số ưu điểm có thể thấy của cơng nghệ
ISPS là khả năng kiểm sốt mơi trường, mật độ
vi khuẩn và mật độ tảo tốt hơn so với ni ao
ngồi trời.


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi “Chương
trình Khoa học và Cơng nghệ phục vụ xây dựng
Nông thôn mới giai đoạn 2018-2020”. Chúng tôi
xin chân thành cảm ơn các đơn vị phối hợp đã
đóng góp cơ sở vật chất để thực hiện đề tài này.
Xin cám ơn sự trợ giúp kỹ thuật của các sinh viên
Khoa Thủy sản trong việc thu và phân tích mẫu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aguirre‐Guzmán
G.,
Sánchez‐Martínez
J.G.,
Pérez‐Casteda
R.,
Palacios‐Monzón
A.,
Trujillo‐Rodríguez T. & De La Cruz‐Hernández N.I.

(2010). Pathogenicity and infection route of Vibrio
parahaemolyticus in American white shrimp,
Litopenaeus vannamei. Journal of the World
Aquaculture
Society.
41:
464-470.
/>Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1995). TCVN
5998:1995. Tiêu chuẩn Việt Nam về Chất lượng
nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn lấy mẫu nước biển.

Bộ Khoa học và Công nghệ (2012). TCVN 8988:2012
(2012). Tiêu chuẩn quốc gia về Vi sinh vật trong
thực phẩm, phương pháp định lượng Vibrio
parahaemolyticus.
Doosti M.R., Kargar R. & Sayadi M.H. (2012). Water
treatment using ultrasonic assistance: A review.
Proceedings of the International Academy of
Ecology and Environmental Sciences. 14: 96-110.
Dương Thị Hoàng Oanh, Huỳnh Trường Giang &
Nguyễn Thị Kim Liên (2014). Mối liên hệ giữa sức
khỏe tôm và biến động quần thể phytoplankton
trong các ao ni tơm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) thâm canh. Tạp chí Khoa học, Trường
Đại học Cần Thơ. 2. 159-168.
Ebeling J.M., Timmons M.B. & Bisogni J.J. (2006).
Engineering analysis of the stoichiometry of
photoautotrophic, autotrophic, and heterotrophic
removal of ammonia-nitrogen in aquaculture
systems. Aquaculture. 257: 346-358.
Gomez-Gil B., Lucia Tron-Mayén, Ana Roque, James
F. Turnbull, Valerie Inglis & Ana L. GuerraFlores, (1998). Species of Vibrio isolated from
hepatopancreas, haemolymph and digestive tract of
a population of healthy juvenile Penaeus
vannamei. Aquaculture. 163(1-2): 1-9.
Gomez-Gil B., Soto-Rodríguez S., Lozano R. &
Betancourt-Lozano M. (2014). Draft genome
sequence of Vibrio parahaemolyticus strain
M0605, which causes severe mortalities of shrimps
in Mexico. Genome Announc. 2(2): 14.
Huang Haocai, Wu Gang, Sheng Chaowu, Wu Jiannan,

Li Danhua & Wang Hangzhou (2020). Improved
cyanobacteria removal from harmful algae blooms
by two-cycle, low-frequency, low-density, and
short-duration
ultrasonic
radiation. Water.
12(9): 2431.
Kim Y.B., Okuda J., Matsumoto C., Takahashi N.,
Hashimoto S. & Nishibuchi M. (1999).
Identification of Vibrio parahaemolyticus strains at
the species level by PCR targeted to the toxR gene.
J. Clin. Microbiol. 37: 1173-1177.
Li W.K., McLaughlin F.A., Lovejoy C. & Carmack
E.C. (2009). Smallest algae thrive as the
arctic ocean freshens. Science. 326: 539
Lin Y.C. & Chen J.C. (2001). Acute toxicity of ammonia
on Litopenaeus vannamei Boone juveniles at
different salinity levels. Journal of Experimental
Marine Biology and Ecology. 259: 109-119.

911


So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đơng trong ao mở ngồi trời và hệ thống
trong nhà tại tỉnh Nam Định

McIntosh (2019). Modeling a sustainable shrimp
industry. Shrimp: Modelling for Sustainability,
INFOFISH, Thailand.
MELO F.B., Ferreira M.G.P., Braga Í.F.M. & Correia

E.d.S. (2018). Toxicity of nitrite on shrimp
Litopenaeus vannamei reared in clear water and
biofloc systems. Boletim do Instituto de Pesca.
42(4): 855-865.
Meng N., Yuan J.L., Liu M. & Gu Z.M. (2018).
Assessment of water quality and phytoplankton
community of Litopenaeus vannamei pond in
intertidal zone of Hangzhou Bay, China.
Aquaculture Reports. 11: 53-58.
Nguyễn Văn Cường (2016). Nghiên cứu ứng dụng siêu
âm xử lý khuẩn và tảo trong môi trường nước.
Luận văn thạc sĩ. Đại học Khoa học Huế. tr. 58
Nguyễn Văn Tuyên (2003). Đa dạng sinh học tảo trong
thủy vực nội địa Việt Nam triển vọng và thử thách.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp. tr. 264-483.
Paerl H.W. (1988). Nuisance phytoplankton blooms in
coastal, estuarine and inland waters. Limnology
and Oceanography. 33: 823-847.
Patil M.N. & Pandit A.B. (2007). Cavitation - a novel
technique for making stable nanosuspensions.
Ultrasonics Sonochemistry. 14: 519-530.
Peng J., Dong Qiufen, Zhang Song & Yang Yong
(2014). Shrimp farming in greenhouses: a
profitable model to culture Penaeus vannamei
in China. International Aquafeed, JanuaryFebruary. p. 53.
Piyasena P., Mohareb E. & McKellar R.C. (2003).
Inactivation of microbes using ultrasound: a
review. Int. J. Food Microbiol. 87: 207-216.
Ray A.J. (2019). Indoor Marine Shrimp Farming.
SRAC Publication No. 2602: 1-7.

Samocha T.M. (2019). Sustainable Biofloc Systems
For Marine Shrimp. Academic Press. ISBN 978-012-818040-2.
Soto-Rodriguez S.A., Gomez-Gil B., Lozano-Olvera
R., Betancourt-Lozano M. & Morales-Covarrubias
M.S. (2015). Field and experimental evidence of
Vibrio parahaemolyticus as the causative agent of
acute hepatopancreatic necrosis disease of cultured
shrimp (Litopenaeus vannamei) in northwestern
Mexico. Appl. Environ. Microbiol. 81: 1689-1699.
doi:10.1128/AEM.03610-14.
Soto-Rodriguez S.A., Gomez Gil B., Lozano R. &
Roque A. (2010). Density of vibrios in hemolymph
and hepatopancreas of diseased pacific white
shrimp, Litopenaeus vannamei, from Northwestern

912

Mexico. Journal of the World Aquaculture Society.
41: 76-83.
Suantika G., Situmorang M.L., Nurfathurahmi A.,
Taufk I., Aditiawati P., Yusuf, N., Aulia, R. (2018)
Application of Indoor Recirculation Aquaculture
System for White Shrimp (Litopenaeus vannamei)
Growout Super-Intensive Culture at Low Salinity
Condition. J Aquac Res Development 9: 530. doi:
10.4172/2155-9546.1000530.
Sở NN&PTNT tỉnh Nam Định (2017). Báo cáo Quy
hoạch phát triển kinh tế thủy sản và bảo vệ nguồn
lợi thủy sản tỉnh Nam Định đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030. tr. 180.

Tan TohHii, Leaw Chui Pin, Leong Sandric, LIM Lay,
Chew S.M., Teng Sing Tung & Lim Po Teen
(2016). Marine micro-phytoplankton of Singapore,
with a review of harmful microalgae in the region.
Raffles Bulletin of Zoology. 34: 78-96.
Tang K.F.J., Bondad-Reantaso M.G., Arthur J.R.,
MacKinnon B., Hao B., Alday-Sanz V., Liang Y.
& Dong X. (2020). Shrimp acute hepatopancreatic
necrosis disease strategy manual. FAO Fisheries
and Aquaculture Circular No. 1190. Rome, FAO.
Tran L., Nunan L., Redman R.M., Mohney L.L.,
Pantoja C.R., Fitzsimmons K. & Lightner D.V.
(2013). Determination of the infectious nature of
the agent of acute hepatopancreatic necrosis
syndrome affecting penaeid shrimp. Dis. Aquat.
Organ. 105(1): 45-55.
UBND tỉnh Nam Định (2018). Quyết định V/v phê
duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế thủy sản và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Nam Định đến năm
2025, định hướng đến năm 2030. tr. 14.
Wu X.G., Eadaoin M. Joyce & Timothy J. Mason
(2011). The effects of ultrasound on cyanobacteria.
Harmful Alga., 10(6): 738-743.
Wilder M.N. & Nohara S. (2017). White
Shrimp Litopenaeus vannamei. In: Takeuchi T.
(eds) Application of Recirculating Aquaculture
Systems in Japan. Fisheries Science Series.
Springer, Tokyo. pp. 145-173.
Yusoff F.M., Zubaidah M.S., Matias H.B. & Kwan T.S.
(2002). Phytoplankton succession in intensive

marine shrimp culture ponds treated with a
commercial bacterial product. Aquaculture
Research. 33: 269-278.
Zhang P., Zhang X., Li J. & Huang G. (2006). The
effects of body weight, temperature, salinity, pH,
light intensity and feeding condition on lethal DO
levels of whiteleg shrimp, Litopenaeus vannamei
(Boone, 1931). Aquaculture. 256(1-4): 579-587.



×