Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.66 KB, 20 trang )

BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
----------

MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chủ đề:

PHÂN TÍCH NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ ĐƯỢC BẢO ĐẢM QUY ĐỊNH
TẠI ĐIỀU 26 BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
Sinh viên thực hiện : ĐINH THỊ ANH PHƯƠNG
Lớp

: K6B

Mã số sinh viên

: 183801010122

Hà Nội – 2021


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 2
I. Khái quát chung về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm... 2
1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự .............................. 2


2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ................................ 3
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự ............................ 4
II. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26 Bộ luật tố tụng
hình sự 2015) ........................................................................................................ 5
III. Mở rộng một sô vấn đề ................................................................................ 11
1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử ................................................................................. 11
2. Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm .............................................................................................................. 12
3. Kiến nghị, giải pháp ................................................................................. 14
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 18


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

A.

MỞ ĐẦU

Từ trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được
quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn
đề này, nhưng chưa được phát huy hiệu quả trong thực tiễn hoạt động. Tuy có sự
thể hiện ở các mức độ khác nhau, mặc dù có thể được thể hiện hoặc chưa thể hiện
trong văn bản pháp luật cụ thể là Bộ luật tố tụng hình sự thì nguyên tắc tranh tụng
vẫn đang là cơ sở định hướng cho việc xây dựng quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự cũng như thực hiện quá trình giải quyết vụ án để tìm ra sự thật khách
quan. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Trên
cơ sở đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản

để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 tại Điều 26, đưa vấn đề tranh
tụng trong xét xử trở thành một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng của tất
cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Nguyên tắc
này không chỉ là một trong những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của
luật tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền và là giá trị pháp lí tiến bộ của
nền văn minh nhân loại đã có cội nguồn từ rất lâu đời mà cịn khẳng định vai trò
tài phán rất quan trọng của Tòa án trong hoạt động tố tụng hình sự và phù hợp với
tư tưởng nhân đạo về tăng cường tranh tụng dân chủ tại phiên tịa.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề xung quanh vấn đề này sẽ giúp cho
việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có hiệu quả. Từ nhận định đó, trong nội
dung bài tiểu luận dưới đây, em đã chọn đề tài “Phân tích nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự 2015”.
Đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong pháp luật tố tụng hình sự, điều này có ý nghĩa quan trong việc hồn thiện
pháp luật tố tụng hình sự nhằm phù hợp với thực tiễn hoạt động. Do năng lực,
trình độ cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những sơ sót, em rất mong nhận được
các ý kiến nhận xét đóng góp từ phía thầy/cô!
1


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

B.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Theo từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải
tuân theo trong một loại việc làm. Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc của pháp

luật là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể
hiện tính tồn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung và hiệu
lực của pháp luật.
Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ “tranh tụng” được ghép từ hai từ “tranh
luận” và “tố tụng”. Tranh tụng được hiểu là tranh luận trong tố tụng, là hoạt động
của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để
bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia. Tranh tụng là cơ sở để
Tịa án đánh giá tồn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo
tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Theo Từ điển Luật học, “tranh tụng” được hiểu là hoạt động tố tụng được
thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền
bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm
và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh
tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử
bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của phía bên kia,
dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trị trung gian, trọng tài. Tuy
nhiên, ở khía cạnh này, thuật ngữ tranh tụng được dùng để nói chung trong tất các
các hình thức tố tụng như: dân sự, hình sự, hành chính…
Khái niệm “tranh tụng” là phạm trù rộng lớn mà trên cơ sở nghiên cứu lí luận
và xuất phát từ thực tiễn tố tụng hình sự, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa
học đầy đủ của khái niệm nguyên tắc tranh tụng của luật tố tụng hình sự như sau:
Tranh tụng với tính chất là một ngun tắc của luật tố tụng hình sự chính là q
trình tranh luận của các bên tại phiên tịa sau khi đã nghiên cứu đầy đủ và toàn
diện các chứng cứ trên cơ sở đảm bảo sự độc lập, bình đẳng với nhau và tách riêng
2


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

ba chức năng buộc tội, biện hộ và phán xét vụ án để xác định sự thật khách quan

nhằm đưa ra bản án (quyết định) tương ứng có hiệu lực pháp luật của tịa án một
cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần thể hiện bản chất nhân
đạo và dân chủ, bảo vệ vững chắc các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân
trong hoạt động tư pháp hình sự. Tóm lại, trong tố tụng hình sự, tranh tụng là tranh
luận, đối đáp trên cơ sở chứng cứ, tài liệu thu thập được giữa Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác với người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác trong tố
tụng hình sự.
Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng
là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc thực hiện quá
trinh tranh cãi bình đẳng dựa trên chứng cứ, quy định của pháp luật nhằm thực
hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, từ đó tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là những quy định pháp
luật tố tụng hình sự có ý nghĩa chỉ đạo và thể hiện bản chất, mục đích tố tụng xác
định được việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự.
2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được phân định rõ ràng:
Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành
tố tụng chính, sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. Viện kiểm sát, người bị hại
là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, còn luật sư, người bào chữa, bị cáo là chủ
thể thực hiện chức năng gỡ tội, Hội đồng xét xử thực hiện vai trò là trọng tài – tài
phán.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối
kháng rõ rệt – bên buộc tội và bên gỡ tội bình bằng nhau: Trong tố tụng tranh
tụng, Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo hoàn tồn bình đẳng nhau trong
hoạt động tố tụng tại phiên tòa, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng
với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công
3



BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

việc của mình. Viện kiểm sát đưa ra các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên gỡ
tội là bị cáo và người bào chữa cũng dùng các chứng cứ, lập luận được luật pháp
cho phép để đối đáp lại. Hai bên sẽ xét hỏi bị cáo, tranh luận trực tiếp và trả lời
các vấn đề mâu thuẫn nhau cơng khai tại phiên tịa để làm rõ những vấn đề có
trong vụ án.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài: Do tranh tụng chưa được
quy định trong giai đoạn khởi tố, điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực
tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng trong xét xử tại phiên tòa giữa Kiểm sát viên
và bị cáo, người bào chưa. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra các chứng cứ
hợp pháp trong vụ án, đã được Kiểm sát viên đưa ra để buộc tội cho bị cáo và căn
cứ vào quá trình tranh tụng giữa bên buộc tội – Viện kiểm sát và bên gỡ tội –
người bào chữa cho bị cáo mà Thẩm phán ra quyết định, bản án cho phù hợp với
quy định của pháp luật.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc tranh tụng giúp đảm bảo sự thật vụ án thông qua tranh tụng tại
các giai đoạn trước xét xử cũng như giai đoạn xét xử. Bởi vì tranh tụng làm cho
các yếu tố của vụ án như chứng cứ, lời khai,… của các bên rõ ràng, đồng thời
cũng tìm ra điểm mâu thuẫn của chứng cứ. Điều này là căn cứ để tìm ra sự thật
dưới những cách nhìn khác nhau đem lại cái nhìn tồn diện về vụ án.
Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo
quyền con người và quyền công dân. Khi chức năng gỡ tội được nâng cao sẽ bình
đẳng hơn với chức năng buộc tội của cơ quan buộc tội. Từ đó, làm giảm các vụ
án oan sai, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công
dân. Bởi lẽ, tác động to lớn của hoạt động xét xử đem đến cho xã hội, bản thân
người bị buộc tội là rất lớn, quyền tự do thân thể, tính mạng, tài sản,… và có
những quyền khi mất đi sẽ không thể phục hồi được nên chúng ta cần thực sự cẩn
trọng khi đưa ra một phán quyết sao cho đúng người, đúng tội.

Hơn nữa, trong một nhà nước pháp quyền thì tính dân chủ và nhân đạo trong
các chủ trương, chính sách của nhà nước phải được cụ thể hóa vào pháp luật.
4


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

Chính vì thế, đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, ln suy đốn theo
hướng có lợi cho người bị buộc tội phản ánh tính nhân văn sâu sắc trong hệ thống
pháp luật. Điều này phù hợp với tinh thần nhân quyền ngày càng được đề cao
cũng như phản ánh xu hướng phát triển chung về mặt lập pháp trên thế giới.
II. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26 Bộ luật tố
tụng hình sự 2015)
Mặc dù đã xuất hiện và được thừa nhận từ rất lâu trong lịch sử tư pháp ở các
nước phát triển khác, nhưng vấn đề tranh tụng cũng như nguyên tắc tranh tụng ở
Việt Nam vẫn được coi là vấn đề mới. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu tiên
về tranh tụng ở Việt Nam được thể hiện trong Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của
Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới, xác định “…việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo …để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy
định”. Tiếp theo đó, vấn đề tranh tụng tiếp tục được Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
ghi nhận, theo đó: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất
lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các
cơ quan tư pháp”.
Như vậy, tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất
lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo
vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội. Sự thể hiện của vấn đề tranh

tụng trong các văn kiện của Đảng là tiền đề và là cơ sở để tiến tới hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tố tụng.
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm”. Đây là một trong những đổi mới đáng chú ý vì lần đầu tiên
Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, thể hiện mạnh
mẽ việc nâng cao yếu tố tranh tụng trong các vụ án. Đây là tiền đề để chúng ta cụ
5


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

thể hóa bằng các luật chuyên ngành nhằm để tìm ra chân lý, làm sáng tỏ sự thật
khách quan và là cách thức nâng cao nhận thức, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại tất cả các phiên tòa xét xử được coi là một trong những khâu đột phá của hoạt
động tư pháp. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 quy định tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một nguyên tắc độc lập.
nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra
yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển
đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tịa xét xử vụ án hình sự
phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng
mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham
gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân
chủ trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình

sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị
cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải
được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Thứ nhất, về thời điểm xuất hiện tranh tụng. Trong tố tụng hình sự, việc xác
định sự thật khách quan của vụ án được trải qua các giai đoạn khác nhau, trong
mỗi giai đoạn có mục đích và nhiệm vụ khác nhau do các chủ thể khác nhau thực
hiện. Với cách quy định tại đoạn l của điều luật, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
đã khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt
6


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

đầu từ giai đoạn khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Theo đó, tranh tụng
khơng chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên
buộc tội, gỡ tội và xét xử, mà còn xuất hiện từ giai đoạn khởi tố vì để tiến hành
được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và
điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án
trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ hai, về chủ thể tham gia tranh tụng. Xuất phát từ quy định về thời điểm
bắt đầu xuất hiện tranh tụng là khởi tố nên chủ thể tham gia quan hệ tranh tụng
bao gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa và người tham gia
tố tụng khác. Nhìn từ quy định này có thể thấy được tính chất hai bên trong tranh
tụng, bao gồm một bên là những chủ thể đại diện cho Nhà nước, thực hiện chức
năng buộc tội gồm: Cơ quan điều tra (trực tiếp nhất là Điều tra viên) và Viện kiểm
sát (trực tiếp nhất là Kiểm sát viên) và một bên đại diện cho quyền lợi của chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện chức năng gỡ tội (người bị buộc tội, người

bào chữa của họ và người tham tố tụng khác).
Như vậy, tranh tụng chỉ thực sự có thể có và được bảo đảm nếu có sự phân
chia các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự ra thành ba chức năng chính là:
buộc tội, bào chữa và xét xử. Theo đó, Tịa án chỉ đứng ra thực hiện nhiệm vụ là
“trọng tài” xem xét quá trình tranh tụng của các bên. Điều này cũng cho thấy, một
số quyền hạn của Tòa án/Hội đồng xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự hiện hành như: quyền khởi tố vụ án khi xét thấy có việc bỏ lọt tội phạm khơng
đảm bảo ngun tắc Tịa án chỉ là “trọng tài” trong tố tụng hình sự. Đây cũng
chính là cơ sở đầu tiên của tranh tụng trong xét xử, điều này đã xác định cụ thể vị
trí, vai trò của các bên trong quan hệ tranh tụng tại vụ án hình sự.
Thứ ba, về nội dung của hoạt động tranh tụng.
- Điều kiện quan trọng nhất để tranh tụng có hiệu quả địi hỏi chủ thể buộc
tội và chủ thể bên gỡ tội phải bình đẳng với nhau trong việc thực hiện chức năng
của mình và Tịa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm
7


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

cho hai bên thực hiện chức năng của mình. Tính bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên gỡ tội thể hiện trong việc họ có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng
cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra u cầu đối với phía bên kia. Tịa án là chủ thể
thực hiện chức năng xét xử giữ vai trò là trọng tài bảo đảm cho tranh tụng được
bình đẳng. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, bên bị buộc tội có quyền
nhưng khơng buộc phải chứng minh mình vơ tội (Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự
2015). Đây là một nguyên tắc được xác định trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Sự bình đẳng giữa các chủ thể đại diện cho bên buộc tội và bên gỡ tội thể hiện
trong việc họ được thực hiện các quyền cơ bản của mình.
Theo đó, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người

bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu (yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản,
người phiên dịch, người dịch thuật...) để làm rõ sự thật khách quan của vụ án; tài
liệu, chứng cứ trong hồ Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ
và hợp pháp.
Tính bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ thể hiện ở việc: Nếu như pháp
luật quy định người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể buộc tội khi tiến
hành các hoạt động tố tụng quyền tự thu thập, quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử…thì người bị buộc tội
hay người bào chữa đại diện cho chủ thể gỡ tội cũng có quyền thu thập chứng cứ
để phục vụ cho việc tham gia tố tụng của mình. Đặc biệt, pháp luật cho họ quyền
khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình
có tội (Điều 58, 59, 60, 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015). Đối với người bào chữa,
khi tham gia tố tụng họ có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu
cầu (Điều 73, khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Tuy nhiên, cần phải hiểu đây chỉ là các quy định nhằm bảo đảm các điều
kiện để thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa. Nếu chỉ có chủ thể của bên buộc
8


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

tội và bên bào chữa thực hiện tranh luận một cách đơn phương theo ý chí chủ quan
của mình mà thiếu vai trị của quyết định của Tịa án với chức năng xét xử thì
chưa thể coi là tranh tụng. Tranh tụng thực sự chỉ diễn ra tại phiên tịa khi có đầy
đủ sự hiện diện của bên buộc tội, bên bào chữa với vai trò “trọng tài” xét xử của
Tịa án.
- Bên cạnh đó, do tranh tụng biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa nên
nguyên tắc cũng có những điều chỉnh để q trình tranh tụng diễn ra một cách

thuận lợi nhất. Trước hết, nguyên tắc xác định "tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ
án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp" để
các chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước phiên tòa, làm căn cứ cho
việc xét hỏi, tranh luận cơng khai, khách quan, tồn diện. Để bảo đảm ngun tắc
này, phiên tịa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người tham gia tố
tụng theo quy định, bao gồm thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ,
người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người giám định, người định
giá tài sản, người phiên dịch, dịch thuật, sự có mặt của Điều tra viên và những
người khác; trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại
khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định.
Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tịa án. Trong đó, đặc biệt chú ý bảo
đảm cho bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa
ra chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đánh giá chứng cứ và đưa ra yêu cầu đối với bên
kia. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, bên bị buộc tội có
quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là minh vơ tội. Tịa án với chức năng
xét xử bảo đảm quyền bình đẳng giữa các bên.
9


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

- Trong việc quy định nguyên tắc tranh tụng, vấn đề xác định chứng cứ là
rất quan trọng. Bên cạnh việc quy định quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ của các bên trong quan hệ tranh tụng, Điều 26 còn quy định các chứng cứ do
Viện kiểm sát đưa ra Tòa án để xét xử phải được quy định đầy đủ, mọi chứng cứ

xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi
thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa
giải quyết vụ án đều phải được trình bảy, tranh luận, làm rõ tại phiên tịa. Điều
này cũng cho thấy, hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa là sự thể hiện tập
trung nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh
tụng này là việc các bên qua quá trình tranh tụng đưa ra những trình bày, tranh
luận để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa. Tòa án được trao cho
nhiệm vụ, quyền hạn là trọng tài trong quá trình xác định việc đánh giá chứng cứ
của cả hai bên buộc tội và gỡ tội, do đó thơng qua tranh tụng giữa các bên, Tịa
án có thể hiểu rõ hơn các tình tiết của toàn bộ vụ án, tái hiện lại vụ án một cách
trung thực, khách quan, trên cơ sở đó vận dụng chính xác của quy định của pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự để đưa ra một phán quyết khách quan, đúng đắn
nhất, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.
- Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 quy định bản án, quyết định của Tòa án cùng với việc phải căn cứ vào
kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì cịn phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa. Đây là bước phát triển mang tính đột phá trong chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng, thể chế hóa tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng đã được ghi nhận
trong Nghị quyết của Đảng. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi trách nhiệm rất lớn của
Hội đồng xét xử khi thực hiện quyền tư pháp, phải căn cứ vào kết quả kiểm tra,
đánh giá chứng cứ tại phiên tòa để nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành phán quyết. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ
ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại
10


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP


phiên tịa để đánh giá khách quan, tồn diện sự thật vụ án. Trường hợp không chấp
nhận ý kiến của những người tham gia phiên tịa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ
lý do và phải được ghi trong bản án (khoản 4 Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015). Nếu qua tranh luận mà thấy cịn có tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa
được làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi
xong phải tiếp tục tranh luận (Điều 323 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
III. Mở rộng một số vấn đề
1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành cho thấy Bộ luật
này đã có những nội dung hợp lý của nguyên tác tranh tụng, đã có những quy định
cần thiết cho việc phân biệt chức năng buộc tội, gỡ tội, chức năng xét xử. Tuy thế,
cịn có những điểm chưa phù hợp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất.
Do vậy, khi Hiến pháp quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng thì những quy
định trong Bộ luật, Luật, các văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất
phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống nhất trong việc vận dụng pháp
luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể về phương thức bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
Thứ hai, những quy định trong Mục V Chương XXI Bộ luật tố tụng hình sự
về thủ tục tranh tụng tại phiên toà đã đặt quyền lực hầu như tập trung vào Hội
đồng xét xử. Hội đồng xét xử phải chịu toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng
minh, còn các bên buộc tội và gỡ tội chỉ tham gia quá trình này ở mức độ khá hạn
chế. Chính các quy định này làm cho q trình tranh tụng tại phiên tồ khơng cịn
giữ đúng bản chất của nó nữa dẫn đến Tồ án vừa khơng đảm nhiệm tốt chức năng
xét xử của mình và lại đồng thời lấn sang chức năng buộc tội. Nó hạn chế tính
tích cực, chủ động của các bên tranh tụng, ảnh hưởng tới việc làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án.
11



BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

Cụ thể tại Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thì Chủ tọa
và Hội đồng xét xử vừa điều hành việc xét hỏi, thực hiện xét hỏi; và vừa công bố
lời khai, vật chứng, tài liệu để buộc tội thì vơ hình trung Tịa án đã đứng về phía
cơ quan buộc tội. Như vậy sẽ làm lẫn lộn chức năng tố tụng; làm cho phiên tranh
tụng thiếu khách quan, công bằng. Đồng thời, làm giảm đi vai trò của Viện kiểm
sát là chủ thể buộc tội tại phiên tòa. Mà trong phiên tòa, trách nhiệm xét hỏi chính
thuộc về Kiểm sát viên – người giữ vai trò buộc tội.
Thứ ba, trong giai đoạn xét xử, mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
quy định chủ tọa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho
chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội được tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình,
tuy vậy lại vẫn quy định rằng chủ tọa có quyền cắt những ý kiến khơng liên quan
đến vụ án. Ở đây, hiểu thể nào là ý kiến khơng liên quan hồn tồn phụ thuộc vào
nhận thức chủ quan của cá nhân người tiến hành tố tụng. Với người bị buộc tội
hay người bào chữa thì ý kiến trình bày đó là nội dung minh chứng cho quan điểm
bào chữa của mình. Nhưng với chủ tọa phiên tịa khi khơng hiểu rõ lại cho rằng ý
kiến đó khơng liên quan và họ có quyền cắt đi. Và như vậy quyền tranh luận của
bên gỡ tội đã bị hạn chế. Nguyên tắc tranh tụng chưa được bảo đảm tuyệt đối.
Thứ tư, khi quy định về quyền của người bào chữa, tại Điều 73 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 vẫn tồn tại quy định: Người bào chữa muốn được hỏi
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thì phải được người có thẩm quyền tiến
hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Vậy nếu họ khơng đồng ý thì sao? Trong
trường hợp này người bào chữa sẽ khó có cơ hội tiếp cận, hỏi thân chủ của mình
để thu thập thơng tin, hoặc làm rõ một số nội dung tình tiết cần được làm rõ trong
vụ án để phục vụ cho việc bào chữa của mình.
2. Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm
- Tính tranh tụng ngày càng được quan tâm góp phần giảm thiểu các vụ án

oan sai. Tỷ lệ án hình sự bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của thẩm phán đã giảm qua
từng năm. Điều này thể hiện cải cách tư pháp đã có những tác động tích cực đến
12


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

nhận thức của đội ngũ thẩm phán trong cơng tác xét xử. Vì vậy các án oan sai đã
được khắc phục rõ nét.
- Hoạt động tranh tụng được đề cao thể hiện thông qua việc tăng nhanh của
đội ngũ luật sư. Đội ngũ Luật sư được tăng cường mạnh mẽ là tiền đề cho việc
nâng cao nhận thức pháp lý của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
tranh tụng tại tòa án cũng như các giai đoạn khác của vụ án hình sự vì đây là đội
ngũ trợ giúp kiến thức pháp lý và đóng vai trị là người bào chữa bảo vệ cho quyền
lợi của các bị can, bị cáo.
- Mặc dù trình độ pháp lý của Thẩm phán được nâng cao, tuy nhiên kinh
nghiệm công tác và năng lực xét xử không đồng đều đặc biệt là ở những vùng sâu,
vùng xa thì đội ngũ thẩm phán cịn hạn chế về trình độ. Đồng thời đạo đức của
thẩm phán cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng tranh tụng nói riêng và chất
lượng xét xử nói chung. Ngồi ra, vì mang tính quyền lực nhà nước nên nhiều Hội
đồng xét xử đã vơ tình qn đi vai trị “cầm cân nảy mực” của mình mà thực hiện
cả chức năng buộc tội vốn thuộc quyền cơng tố của Kiểm sát viên.
- Vẫn cịn một số Kiểm sát viên thiếu chủ động, nhạy bén, khơng nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án, chủ yếu trình bày dựa vào bản luận tội, cáo trạng mà không chú
trọng đến tranh luận với luật sư. Khi tranh tụng với luật sư, một số Kiểm sát viên
thực hiện kỹ năng tranh tụng chưa thuyết phục, cịn né tránh, có tâm lý e ngại
tranh luận. Trong một số phiên tòa, khi luật sư, người bào chữa đưa ra ý kiến phản
bác những chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên và Kiểm sát viên không thể đưa
ra lời lẽ đối đáp, thậm chí có Kiểm sát viên phát biểu “giữ ngun quan điểm như
bản cáo trạng” mà khơng giải thích.

- Tuy nhiên, khơng chỉ về phía buộc tội mà cả bản thân bên gỡ tội cũng còn
nhiều hạn chế. Đặc biệt là đội ngũ luật sư, còn nhiều luật sư chỉ gửi bài bào chữa
mà khơng tham gia phiên tịa tranh tụng vì nhận quá nhiều án cũng lúc. Dẫn đến
việc đầu tư nghiên cứu hồ sơ và thời gian chưa hợp lý. Đặc biệt là các trường hợp
luật sư bào chữa theo chỉ định chỉ làm việc cho có chứ chưa thực sự tâm huyết
với việc bào chữa.
13


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

- Nguyên tắc đảm bảo quyền nhờ người khác bào chữa chưa được thực thi
hiệu quả. Cốt lõi của nguyên tắc tranh tụng chính là tính đối trọng của hai chức
năng buộc tội và gỡ tội. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều các phiên tịa hình sự ở
Việt Nam thiếu người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội để có thể làm đối trọng
với các cơ quan buộc tội của nhà nước. Rõ ràng những cơ quan nhà nước chun
mơn sẽ có kiến thức hơn những người bị buộc tội mà người bị buộc tội lại thiếu
sự giúp đỡ từ phía các luật sư thì hầu như bản án chỉ phán quyết dựa trên quyết
định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này dễ dẫn đến oan sai trong cơng
tác xét xử điển hình như vụ án: Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), Đinh Quang
Điền (Đăk Lăk),…
- Sự thiếu bình đẳng về quyền giữa bên bào chữa và bên buộc tội được thể
hiện qua việc đánh giá chứng cứ, xét hỏi tại phiên tòa, lấy lời khai của người bị
tam giữ, bị can. Vẫn có trường hợp yêu cầu của luật sư và bị cáo không được xem
xét và trả lời.
- Đảm bảo quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo dù đã được ghi nhận trong
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tại Điều 16 nhưng thực tế các đối tượng trên khơng
có khả năng thực hiện quyền luật định này do xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về
kiến thức pháp luật và sự thiếu hụt cơ chế để thực hiện quyền này trên thực tế
3. Kiến nghị, giải pháp

Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn cũng như quá trình thể chế hóa các quy
định dân chủ và tiến bộ, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình
sự 2015 theo hướng như sau:
Một là, tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần thể hiện ngắn
gọn, ghi nhận những nội dung cơ bản, điển hình của ngun tắc tranh tụng có tính
chi phối hoạt động tố tụng hình sự của một giai đoạn hoặc cả tiến trình tố tụng.
Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử có hiệu quả và thực chất thì hiện
nay chưa có văn bản quy định riêng nên cần xây dựng các cơ chế đảm bảo cho
việc thực hiện tranh tụng thông qua các văn bản pháp lý chuyên ngành khác.
14


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

Hai là, cần sửa đổi các điều luật theo hướng quy định các quyền năng của
chủ thể gỡ tội là quyền chủ động, không bị phụ thuộc bởi cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Bởi lẽ chứng cứ là một trong những căn cứ vững chắc, khách
quan để định tội, định khung hình phạt cho nên nếu chứng cứ chỉ chủ yếu được
thu thập từ các cơ quan tiến hành tố tụng là chưa đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc
tranh tụng. Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự bào chữa trên thực tế thì pháp luật nên
cho phép bị can, bị cáo có quyền được đọc và nghiên cứu hồ sơ vụ án, đối chất
với các nhân chứng chống lại mình trước khi mở phiên tịa, có quyền tiếp xúc với
người bào chữa khơng chỉ tại phiên tịa mà cả trong q trình lấy lời khai, hỏi
cung, cũng như được yêu cầu bổ sung chứng cứ nếu thấy trong hồ sơ vụ án còn
thiếu. Điều này giúp các bên chủ động thực hiện quyền cũng như có ý kiến lập
luận, bác bỏ yêu cầu của bên kia khi trình bày trong phiên xét xử.
Ba là, cần quy định trình tự hỏi tại phiên tịa (Điều 307) theo hướng Chủ tọa
chỉ cần tập trung vào điều hành việc xét hỏi; Chủ tọa và Hội đồng xét xử chỉ nên
hỏi sau cùng và bổ sung nếu thấy cần thiết để xác định rõ và đầy đủ các tình tiết
của vụ án như vậy sẽ phù hợp hơn với vai trị của Tịa án, đảm bảo tính tranh tụng

tại phiên tòa.
Bốn là, xây dựng cơ chế đảm bảo sự tham gia rộng rãi của người bào chữa
vào quá trình giải quyết vụ án để phát huy hiệu quả tranh tụng.
Năm là, giảm bớt thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tịa án nhằm để Tịa
án tập trung vào chức năng xét xử và sẽ công tâm hơn khi xét xử. Bởi vì nếu Tịa
án ban hành quyết định khởi tố vụ án thì khi xét xử, Tịa án vẫn giữ quan điểm
của mình là người bị buộc tội có tội, nếu thật sự người này bị oan sai thì ảnh hưởng
đến quyền lợi của họ rất lớn.
Sáu là, cần phải vận dụng những quy định tiến bộ của các nước trên thế giới
khi quy định quyền im lặng của người bị buộc tội. Quá trình lấy lời khai hay hỏi
cung bị can, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần thiết phải giải thích cho
người bị buộc tội hiểu rằng họ không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội.
15


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

Cuối cùng, cần thay đổi tư duy và nâng cao hơn nữa trình độ cũng như ý thức
tranh tụng của các chủ thể trong pháp luật tố tụng hình sự nhằm phát huy tối đa
và đúng vai trị của họ trong vụ án hình sự, góp phần giảm thiểu các vụ án oan sai.
Các chủ thể tiến hành tố tụng khơng chỉ chú ý đến các tình tiết buộc tội mà quên
xử đúng người đúng tội, không làm oan người vơ tội, góp phần bảo vệ tinh thần
nghiêm minh của pháp luật, thể hiện sự tôn trọng quyền con người trong các vụ
án hình sự.

16


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP


C. KẾT LUẬN
Như vậy, tranh tụng có nội dung, vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong q
trình tố tụng. Nó khơng chỉ là phương tiện, là cách thức để tìm ra chân lý, làm
sáng tỏ sự thật khách quan mà còn là cách thức nâng cao nhận thức, nâng cao chất
lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử được coi là một trong những khâu
đột phá của hoạt động tư pháp. Tạo ra mơi trường dân chủ bình đẳng trong quan
hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao
năng lực, trình độ, hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng chống
tội phạm Đây là cơ sở pháp lý cho Bộ luật tố tụng hình sự, cụ thể hóa, chi tiết hóa
nhằm đảm bảo sự khách quan, cơng khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của
tòa án, giúp tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, khắc phục hạn chế oan sai
đối với các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

17


BÀI TIỂU LUẬN – LUẬT TỐ TỤNG HÌH SỰ – FUWN – DTAP

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
3. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
4. Viện Ngơn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng;
5. Nguyễn Ngọc Anh, Phạm Trung Hồi (2019), Bình luận khoa học Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
6. Phạm Tiến Đại (2019), Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Tạp chí điện tử Tịa án nhân dân;

7. Trần Thị Bích Thủy (2017), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử thành phố hồ chí minh, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
8. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), “Một số kiến nghị góp phần thực hiện có
hiệu quả ngun tắc tranh trụng tại phiên tịa hình sự”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, số 11, tr.01;
9. Chung Thị Hân, Huỳnh Thy (2015), Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam, < truy cập ngày 22/04/2021;
10. TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi (2015), Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự,
< truy cập ngày 22/04/2021;
11. Lưu Thị Ngọc Lan, Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, < truy cập ngày 25/04/2021
Cùng một số cơng trình nghiên cứu khoa học và trang thơng tin khác…
18



×