Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Thực trạng thất thu ngân sách nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.49 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------------

BÁO CÁO THẢO LUẬN
MÔN : Nhập mơn tài chính tiền tệ
ĐỀ TÀI : Thực trạng thất thu ngân sách nhà nước VIệt Nam
Nhóm nghiên cứu: 3

Hà Nội – 2021
1


Mục lục
Lời mở đầu……………………………………………………………………………………….1
Chương 1: : Cơ sở lý luận chung………………………………………………………………2
1.1 Khái quát về thu của NSNN Việt Nam…………………………………………………….2
1.1.1,Khái niệm………………………………………………………………………………….2
1.1.2 Đặc điểm…………………………………………………………………………………...2
1.1.3 Phân loại thu NSNN………………………………………………………………………2
1.1.3.1 Theo nội dung kinh tế các khoản thu………………………………………………….2
1.1.3.2 Theo tính chất phát sinh của các khoản thu…………………………………………..4
1.1.3.3 Theo tính chất cân đối của NSNN……………………………………………………...4
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu NSNN…………………………………………………....5
1.1.5 Các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN…………………………………………....7
1.2 Thất thu NSNN……………………………………………………………………………...8
Chương 2: Thực trạng thất thu ngân sách nhà nước Việt Nam……………………………..8
2.1 Nguyên nhân………………………………………………………………………………...8
2.2 Thực trạng chung………………………………………………………………………….11
Thực trạng thất thu ngân sách (2016-2020)…………………………………………………13
2.3 Hậu quả ……………………………………………………………………………………21
2.3.1 Hậu quả dẫn tới lạm phát……………………………………………………………….21


2.3.2 Hậu quả dẫn tới lãi suất…………………………………………………………………23
2.3.3 Hậu quả dẫn tới cán cân thương mại…………………………………………………..24
2


Chương 3: Giải pháp chống thất thu ngân sách Nhà nước Việt Nam……………………...27
3.1 Những giải pháp và đạt được kết quả nhất định………………………………………...27
3.2 Những giải pháp hiện nay…………………………………………………………………32
Kết luận…………………………………………………………………………………………34

3


LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước có vai trị rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội,an
ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Vai trị của ngân sách nhà nước ln gắn liền với
vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách
nhà nước đảm nhận vai trị quản lý vĩ mơ đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Thu ngân sách nhà nước có vai trị quan trọng trong hệ thống ngân sách nhà nước, nhằm
đảm bảo nguồn tài chính cho nhà nước trang trải các khảon chi tiêu nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức
can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thu ngân sách đóng vai trị hết sức quan trọng đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước
phải ban hành và tổ chức thực hiện thu ngân sách để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách
Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng. Chính bởi tầm quan trọng của
thu ngân sách đối với Nhà nước lên đã xảy ra tình trạng thất thu ngân sách Nhà nước ảnh hưởng
đến sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế.

4



Chương I: Cơ sở lý luận chung
1.1 Khái quát về thu của NSNN Việt Nam
1.1.1,Khái niệm
Thu NSNN là việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để quỳnh lực của mình huy động ,
tập trung một phần nguồn lực tài chính quốc gia để hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm đáp
ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
1.1.2 Đặc điểm
Thứ nhất, thu ngân sách Nhà nước là một hình thức phân phối nguồn tài chính quốc gia
giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội, dựa trên quyền lực của Nhà nước, để giải quyết hài
hịa các mối quan hệ lợi ích kinh tế.
Thứ hai, thu ngân sách Nhà nước gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các
phạm trù giá trị khác như giá cả, thu nhập, lãi suất,...trong đó, chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực
trạng của nền kinh tế có ảnh hưởng đến quy mơ và mức độ động viên của thu NSNN là tổng sản
phẩm quốc nội.
1.1.3 Phân loại thu NSNN
1.1.3.1 Theo nội dung kinh tế các khoản thu.
Theo tiêu thức này, thu NSNN bao gồm:
a.Thuế :
-

Khái niệm : là một hình thức đóng góp của các tổ chức và cá nhân cho Nhà nước mang

tính nghĩa vụ theo luật định nhằm đáp ưng nhu cầu chi tiêu Nhà nước.
Là một hình thức phân phối thu nhập giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, thuế có
những đặc trưng sau :
+ Thuế mang tính bắt buộc và khơng hồn trả trực tiếp.
+ Thuế được thiết lập dựa trên nguyên tắc luật định.

5



+ Thuế làm chuyển đổi quyền sở hữu nguồn tài chính từ sở hữu tập nthể và cá nhân
thành sở hữu nhà nước.
+ Thuế được Nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
-

Các yếu tố cấu thành sắc thuế :
+Tên gọi : mỗi sắc thuế có một tên gọi riêng để nói lên đối tượng tính thuế hoặc nội dung
chủ yếu của sắc thuế đó.
+ Người nộp thuế ( đối tượng nộp thuế ) : là chủ thể có nghĩa vụ phải thanh toán thuế với
cơ quan quản lý Ngân sách Nhà nước.
+ Người chịu thuế : là chủ thể phải dành một phần thu nhập của mình để gánh chịu khoản
thuế của Nhà nước.
+ Đối tượng đánh thuế :là các khách thể của thuế, là các khoản thu hoặc thu nhập hay tài
sản được coi là mục tiêu động viên của thuế, chịu sự tác động, điều tiết của thuế
+ Căn cứ tính thuế : là những yếu tố mà dựa vào đó để tính ra số thuế phải nộp.
+ Thuế suất : là số thuế phải nộp tính trên mỗi đơn vị đo lường của đối tượng đánh thuế.
Gồm thuế suất, thuế suất tuyệt đối, thuế suất tương đối ( thuế suất tỷ lệ ), thuế suất lũy tiến,
đơn vị tính thuế, giá tính thuế ,khởi điểm đánh thuế , miễn giảm thuế, thủ tục thuế .

-

Phân loại thuế:
+ Căn cứ vào tính chất điều tiết và chuyển giao của thuế : thuế trực thu, thuế gián thu.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế : thuế tiêu dùng , thuế thu nhập , thuế thuế tài sản.
b. Lệ phí:
- Là khoản thu của NSNN vừa mang tính chất bù đắp chi phí cho việc thực hiện một số
thủ tục hành chính của Nhà nước , vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN ,
cũng mang tính bắt buộc với những người được hưởng những lợi ích từ hoạt động hành

chính của Nhà nước ( lệ phí đăng kí kinh doanh, lệ phí trước bạ , lệ phí chứng thư,…).
c. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế nhà nước:
- Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào cơ sở kinh tế .
- Tiền thu hồi vốn của Nhà nước vào cơ sở kinh tế.
- Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước .
6


- Thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản , tài nguyên của quốc gia.
d. Các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp:
Trong quá trình triển khai các hoạt động sự nghiệp , Nhà nước thành lập , đầu tư cơ sở vật
chất và cấp kinh phí cho các tổ chức sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực cần thiết của xã
hội như giáo dục , đào tạo, y tế ,.. các tổ chức sự nghiệp công lập này tiến hành thu một số
khoản như học phí, viện phí, … để bù đắp một phần chi phí nhằm đem lại lợi ích chung
cho xã hội.
e. Thu từ vay nợ
- Vay nợ trong nước và nước ngoài.
+ Trong nước : vay trực tiếp từ ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu ( thường sử dụng )
+ nước ngoài : thực hiện dưới hình thức kí hiệp định vay nợ từ với Chính phủ nước cung
cấp tín dụng hoặc kí hiệp định vay nợ với Ngân hàng thế giới,… hoặc phát hành trái phiếu
Chính phủ trên thị trường tài chính quốc tế.
f. Thu khác.
-

Các khoản viện trợ khơng hồn lại .

-

Khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức , cá nhân trong và ngồi nước.


1.1.3.2 Theo tính chất phát sinh của các khoản thu.
-

Thu thường xuyên : chủ yếu là các khoản thu thuế và lệ phí. Và cịn bao gồm các khoản thu
từ hoạt động sự nghiệp , tiền cho thuê tài sản , thu lãi cho vay, thu tiền phạt,…

-

Thu không thường xuyên: tiền bát nhà thuộc ở hữu Nhà nước , bán cổ phần thuộc sở hữu
Nhà nước, thu viện trợ ,…

1.1.3.3 Theo tính chất cân đối của NSNN
-Thu trong cân đối NSNN: Là các khoản thu được xác định và thực hiện trong mối quan hệ
cân đối với chi NSNN. Các khoản thu này bao gồm: thu thuế, phí và lệ phí, thu từ các hoạt
động kinh tế Nhà nước, các hoạt động sự nghiệp.
-Thu ngoài cân đối NSNN (thu bù đắp thiếu hụt NSNN): khi lập dự tốn NSNN, nếu số thu
NSNN khơng đủ đáp ứng nhu cầu chi NSNN trong một năm nào đó thì Nhà nước phải huy động
thêm các nguồn khác mà chủ yếu là đi vay.
7


1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Thu NSNN thực chất là một hình thức thu nhập giữa Nhà nước và Xã hội dựa trên quyền
lực của Nhà nước . Do đó cần thiết phải xác định đúng đắn và hợp lý mức độ động viên ,tỷ lệ
động viên vào NSNN, bởi lẽ điều này không chỉ ảnh hưởng đến số thu Ngân sách để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà cịn có những ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế -xã
hội .Mức độ động viên , lĩnh vực động viên vào Ngân sách chịu tác động của nhiều yếu tố kinh
tế, chính trị, xã hội của quốc gia.Trong thực tế , mức động viên và tỷ lệ động viên vào NSNN ở
mỗi nước có sự khác nhau song đều bắt nguồn từ các yếu tố ảnh hưởng cơ bản sau đây :
-GDP bình quân đầu người

GDP bình quân đầu người là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến thu ngân sách của một quốc
gia.
GDP (Gross Domestic Product) tức tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một
thời kỳ nhất định (thường là một năm).
GDP phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế và phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và
đầu tư của một nước. Mức độ phát triển nền kinh tế hàng hóa tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng
nhất đối với sự phát triển của mọi khâu tài chính. GDP bình qn đầu người là một yếu tố
khách quan quyết định mức động viên của NSNN. Do đó, khi xác định mức độ động viên thu
nhập vào NSNN mà thoát ly chỉ tiêu này thì sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề
tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của nền kinh tế.
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế
Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của đầu tư phát
triển nền kinh tế nói chung và hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng. Tỷ suất lợi nhuận bình
quân càng lớn sẽ phản ánh khả năng tái tạo và mở rộng các nguồn thu nhập trong nền kinh tế
càng lớn, từ đó đưa tới khả năng huy động cho NSNN. Đây là yếu tố quyết định đến việc nâng
cao tỷ suất thu NSNN. Do vậy, khi xác định tỷ suất thu Ngân sách cần căn cứ vào tỷ suất lợi
8


nhuận bình quân trong nền kinh tế để đảm bảo việc huy động của Ngân sách Nhà nước khơng
gây khó khăn về mặt tài chính cho các hoạt động kinh tế.
Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ suất doanh lợi càng lớn (tức thu NS càng lớn hơn chi NS)
làm cho ngồn tài chính càng lớn, nâng cao tỷ suất thu cho NSNN và ngược lại, khi kinh tế chậm
phát triển, tỷ suất doanh lợi thấp làm giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên
Khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ và khống sản) là
nhân tố ảnh hưởng khơng nhỏ đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì việc khai thác và
xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu to lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của

các nước cho thấy, nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu Ngân sách sẽ cao và có khả năng tăng nhanh. Với cùng một điều
kiện phát triển kinh tế, quốc gia nào có tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khống sản lớn thì tỷ lệ
động viên vào NSNN cũng lớn hơn.
Dầu thơ đóng góp lớn cho NSNN nước ta. Ở Việt Nam, tỷ trọng xuất khẩu dầu thô không
cao như nhiều nước, song tỷ lệ động viên vào NSNN cũng đạt trên 20% và đóng góp đáng kể
vào việc tăng tỷ lệ động viên vào NSNN.
-Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô tổ
chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động của bộ máy đó, những nhiệm vụ kinh tế – xã
hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử, chính sách sử dụng kinh phí của Nhà
nước. Khi các nguồn tài trợ khác cho chi phí hoạt động của Nhà nước khơng có khả năng tăng
lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ đòi hỏi tỷ suất thu của Ngân sách cũng tăng lên.
Các nước đang phát triển thường rơi vào tình trạng nhu cầu chi tiêu của NSNN vượt quá khả
năng thu, nên các Chính phủ thường phải vay nợ để bù đắp bội chi.

9


Nợ cơng có phạm vi rộng hơn nợ nước ngồi. Nó bao gồm nợ của chính phủ và tồn bộ nợ
của doanh nghiệp quốc doanh, gồm cả nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước, cũng như nợ của doanh
nghiệp tư nhân mà nhà nước bảo lãnh. Việc bao gồm nợ của doanh nghiệp quốc doanh vào nợ
công là dựa trên tiêu chuẩn quốc tế đã được chấp nhận rộng rãi với lý do là nhà nước khơng thể
hay khó lịng về mặt chính trị xóa trách nhiệm đối với nợ của các doanh nghiệp do chính chính
phủ dựng lên
-Tổ chức bộ máy thu nộp
Tổ chức bộ máy thu nộp có ảnh hưởng đến chi phí và hiệu quả hoạt động của bộ máy này.
Nếu tổ chức hệ thống cơ quan thuế, hải quan ,kho bạc Nhà nước gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao,
chống được thất thu do trốn , lậu thuế thì đây sẽ là yếu tố tích cực làm giảm tỷ suất thu Ngân
sách Nhà nước mà vẫn thỏa mãn được các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước.

1.1.5 Các nguyên tắc thiết lập hệ thông thu NSNN.
Trong lịch sử :
-

Nguyên tắc thu theo lợi ích : căn cứ vào lợi ích mà người đóng góp có thể nhận được từ
những hàng hóa và dịch vụ cơng cộng mà Nhà nước cung cấp. ( có tính chất lý tưởng) .

-

Nguyên tắc thu theo khả năng : dựa vào khả năng thu nhập của người nộp ( có tính lý
tưởng)
Trong q trình cải cách :

-

Ngun tắc ổn định và lâu dài:điều kiện là phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế ,
không được gây xáo trộn lớn trong hệ thông thuế , đồng thời tỷ lệ động viên của NSNN
phải thích hợp .

-

Nguyên tắc bảo đảm công bằng : quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế ,
không phân biệt địa vị xã hội , thành phần kinh tế .

-

Nguyên tắc rõ ràng chắc chắn : các điều khoản phải bao quát và phù hợp với hoạt động
kinh tế - xã hội .

-


Nguyên tắc đơn giản : hạn chế số lượng thuế suất , xác định rõ ràng mục tiêu chính , khơng
đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế.

10


1.2 Thất thu NSNN
Thất thu là khoản phải thu nhưng khơng thể thu hoặc chưa thu được nhưng thất thốt là đã
xác định được nhưng bị mất đi

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THẤT THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
2.1, Nguyên nhân dẫn đến thất thu ngân sách Nhà nước:
Thất thu ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác nhau đến sự cân đối
vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thất thu NSNN gồm các ngun nhân chính sau:
- GDP bình qn đầu người :
GDP bình quân đầu người: là một chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng trưởng và phát triển của
một quốc gia, khả năng tiết kiệm, tiêu dung và đầu tư của một nước. GDP bình quân đầu người
là nhân tố khách quan quyết định mức thu ngân sách nhà nước, vì vậy khi ấn định mức thu ngân
sách, Nhà nước cần căn cứ vào chỉ tiêu này.
+Khi GDP/người cao - dẫn đến thu ngân sách cao
+Khi GDP/Người thấp - dẫn đến thu ngân sách nhà nước thấp
- Khả năng xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì xuất khẩu tài
nguyên sẽ đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
số thu của ngân sách
- Thất thu thuế nhà nước:
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất của NSNN bên cạnh các nguồn thu khác như: tài
nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ... tuy nhiên do hệ thống pháp luật nước ta

còn nhiều bất cập, sự quản lý chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để
11


trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho NSNN. Điển hình, trong năm 2008 lượng thuốc lá
nhập lậu vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của NSNN 2500- 3000 tỷ đồng. Ngoài ra,
lượng thuốc lá nhập lậu còn làm “chảy máu” ngoại tệ của đất nước khoảng 200 triệu USD/ năm,
làm gia tăng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm
nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất, nhưng mặt khác việc miễn thuế, giảm thuế, hoặc
chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm hụt NSNN.
- Đầu tư công kém hiệu quả:
Trong năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài nhằm đẩy
mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các cơng trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích
phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa
phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn
chậm và thiếu hiệu quả => gây lãng phí nguồn NSNN và kiềm hãm sự phát triển của các vùng
miền, là nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt NSNN.
Cần đấu thầu dự án sử dụng đất.
Bên cạnh đó, nền hành chính cơng – dịch vụ của chúng ta kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu
quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng.
- Nhà nước huy động vốn để kích cầu:
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: + Phát hành trái phiếu Chính phủ.
+ Miễn giảm thuế.
+ Sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước.
Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, mặt khác
sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng từ 8- 12% GDP.
- Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên:
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách
( nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thơng qua cơ chế phân cấp nguồn thu

12


và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách
cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và
được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm.

Vì vậy, khi các địa phương vay

vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các cơng
trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động, cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các cơng trình,
làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó ln tạo sự căng thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh
phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả 2 trường
hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.

- Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn:
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn,
mặt khác lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như: lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu
hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh
của hệ thống tài chính. Lý thuyết kinh tế không chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi
tiêu của chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống
nhất rằng chi tiêu của chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng
trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt NSNN và
cuối cùng gây ra lạm phát.
- Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm vừa qua cịn được sử dụng như
một cơng cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế:
Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được lượng thặng
dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác
định số bội chi trước ( thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại
được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng

khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó khơng gây xáo trộn trong chính sách
kinh tế vĩ mơ, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi
đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà
cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
13


2.2. Thực trạng chung thất thu ngân sách nhà nước Việt nam
Chính sách tài khóa (CSTK) có vai trị quan trọng trong ổn định và tăng trưởng kinh tế, tuy
nhiên, luôn tồn tại những mâu thuẫn giữa nhu cầu chi tiêu và nguồn lực ngân sách. Khi khả năng
thu ngân sách nhà nước (NSNN) bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau và rất khó để tăng lên
thì việc đảm bảo cân đối NSNN ngày càng trở nên khó khan với Chính phủ Việt Nam.
Cách đây 10 năm, để bình ổn và tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế trước thực trạng của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới và những ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế trong nước vào năm
2008 và 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những
giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn sự suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế; bảo đảm an
sinh xã hội. Qua đó, các CSTK và tiền tệ được nới lỏng. Bên cạnh một số mặt tích cực thì CSTK
nới lỏng năm 2009 – 2010 lại đưa lạm phát tăng trở lại hai con số vào các năm 2010 và 2011,
ảnh hưởng tiêu cực tới niềm tin của người dân, thị trường, đầu tư. Trong bối cảnh đó, từ nửa
cuối năm 2011 cho tới 2012, Chính phủ ưu tiên kiềm chế lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô.
CSTK đã được sử dụng một cách chặt chẽ và linh hoạt nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất –
kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư…
Năm 2013, trước tình hình kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi mạnh, thu NSNN khó duy trì
được mức tăng như nhiều năm trước đó, CSTK chặt chẽ, linh hoạt tiếp tục được thực hiện thông
qua việc triệt để tiết kiệm chi tiêu, đồng thời cũng áp dụng chính sách miễn, giảm thuế trong gói
các giải pháp hỗ trợ DN. Quốc hội đã sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
và Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho một số đối tượng để kích thích thị trường
và giảm khó khăn cho DN. Năm 2015 – 2016, Chính phủ thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tạo
nguồn thu vững chắc, ổn định cho NSNN, tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu,
chống buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển giá; tập trung xử lý nợ đọng thuế; đẩy mạnh cải

cách thủ tục hành chính thuế, hải quan... Năm 2017, Chính phủ tiếp tục thực hiện CSTK chặt
chẽ, triệt để tiết kiệm, tăng cường công tác quản lý giá, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế gắn với
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng; đẩy mạnh tái cấu trúc DNNN; thúc đẩy đổi mới khu vực sự
nghiệp cơng lập; hiện đại hóa và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của
ngành Tài chính... Như vậy, từ năm 2011 – 2018, CSTK được thực hiện một cách chặt chẽ, linh
14


hoạt với 2 mục tiêu là: Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát; giảm thuế, tháo gỡ khó
khăn, tạo điều kiện để phát triển sản xuất – kinh doanh. Việc áp dụng linh hoạt, hài hòa giữa nới
lỏng tài khóa (giảm thuế) và thắt chặt tài khóa (kiểm sốt chặt chẽ chi tiêu cơng, giảm chi đầu tư
phát triển từ NSNN) đã duy trì các chỉ tiêu lạm phát, tăng trưởng ở mức độ hợp lý.
Việt Nam bắt đầu triển khai cơ cấu lại NSNN từ năm 2016 với mục tiêu cơ cấu lại thu, chi
NSNN, giảm mạnh và kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ cơng, nợ nước ngồi của quốc gia.
Cùng với việc cơ cấu lại NSNN, năm 2017 Việt Nam thực hiện một số chính sách quản lý tài
chính - ngân sách mới như: Luật NSNN sửa đổi, Luật Phí và Lệ phí, Kế hoạch tài chính 5 năm
quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, Kế
hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020… Về thu NSNN: tăng tỷ trọng các nguồn thu
nội địa để đảm bảo tính ổn định của ngân sách (như thu từ thuế, phí, thu nội địa), bù đắp cho sự
sụt giảm trong thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất - nhập khẩu trong bối cảnh thực hiện các
cam kết FTA; Bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế thu
từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường; Tập trung nguồn thu cho NSNN thơng qua việc thực
hiện Luật Phí và Lệ phí…
Kết quả quan trọng đạt được trong giai đoạn 2009-2017 là quy mô thu cân đối NSNN và thu
theo dự tốn đều tăng qua các năm. Tính riêng trong giai đoạn 2011 – 2015, quy mô thu NSNN
đạt 4.160.949 tỷ đồng, gấp 2 lần giai đoạn 2006 - 2010. Năm 2016 - 2017, thu NSNN tiếp tục
tăng khá, đạt lần lượt là 1.101.452 tỷ đồng và 1.288.665 tỷ đồng. Tuy nhiên, do tác động của các
chính sách ưu đãi về thuế nhằm hỗ trợ DN và sản xuất - kinh doanh trong giai đoạn 2011 - 2015,
cùng với việc cắt giảm hàng rào thuế quan và giá dầu thô giảm sâu, tỷ trọng thu NSNN so với
GDP giảm còn 23,56% so với mức 26,34% của giai đoạn 2006 - 2010.


15


Bên cạnh đó, do nhu cầu mở rộng chi cho đầu tư phát triển và đảm bảo an sinh xã hội, sự sụt
giảm của tỷ lệ động viên vào NSNN cũng làm cho bội chi và nợ công tăng cao, đe dọa đến an
ninh tài chính quốc gia. Vì thế, trong giai đoạn này, các khoản thu được cơ cấu lại, tập trung mở
rộng các nguồn thu nội địa và đẩy mạnh cơng tác quản lý thu thuế. Nhờ đó, trong 2 năm 2016 2017, tổng thu NSNN thực hiện đều vượt khá so với dự toán Quốc hội quyết định (năm 2016
vượt 87 nghìn tỷ đồng, năm 2017 vượt khoảng 75 nghìn tỷ đồng), bằng 34,1% kế hoạch 5 năm,
trong đó, thu từ thuế, phí, lệ phí đạt 20% GDP. Cụ thể: Năm 2016, tỷ lệ động viên vào NSNN
đạt khoảng 24,5% GDP, trong đó huy động từ thuế, phí, lệ phí ước đạt 20,4% GDP. Năm 2017,
tỷ lệ động viên vào NSNN đạt khoảng 25,7% GDP, trong đó huy động từ thuế, phí, lệ phí
đạt khoảng 20,2% GDP.
- Thực trạng thất thu ngân sách Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 8
năm 2020.
2.2.1 Năm 2016
Theo UBTCNS, mặc dù thu NSNN vượt dự toán và tăng thêm so với số đã báo cáo Quốc
hội khá cao, nhưng số tăng thu chủ yếu là tăng thu từ đất (thu tiền sử dụng đất tăng 97,5% so dự
tốn) do cơ chế, điều chỉnh chính sách như thu cổ tức, lợi nhuận cịn lại sau khi trích lập các quỹ
tại doanh nghiệp. Thu ngân sách địa phương vượt dự toán cao, nhưng nếu trừ thu tiền sử dụng
đất thì có 12 địa phương hụt thu cân đối ngân sách địa phương khoảng 5,3 nghìn tỷ đồng.
Mặt khác, đây là năm thứ hai liên tiếp số liệu đánh giá bổ sung chênh lệch khá lớn so với
số ước thực hiện đã báo cáo Quốc hội. Ủy ban TCNS cho rằng, Chính phủ cần phân tích nguyên
16


nhân, rút kinh nghiệm, tránh trường hợp ước thu thấp, khơng sát thực tế vào cuối năm vì sẽ ảnh
hưởng đến cơng tác xây dựng dự tốn năm sau.
Uỷ Ban Tài Chính Ngân Sách cũng cho rằng, một số DNNN hoạt động kém hiệu quả, cơng
tác cổ phần hóa triển khai chậm, các khoản thu nộp ngân sách không đạt kế hoạch; một số khoản

thu thấp hơn so với số báo cáo Quốc hội, như: thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi, thu từ khu vực cơng thương nghiệp ngồi quốc doanh, thuế thu nhập cá nhân. Trong bối
cảnh những tháng cuối năm 2016 hoạt động sản xuất kinh doanh đã có những bước khởi sắc, thu
từ những khu vực này đạt thấp hơn dự kiến là chưa thật hợp lý. Ủy ban đề nghị Chính phủ có thể
phân tích, giải trình rõ hơn một số khoản thu còn tồn đọng như thu cổ tức và lợi nhuận còn lại
sau thuế của DNNN; đồng thời rút kinh nghiệm lập kế hoạch thu của DNNN cho sát với thực tế.
Ngồi ra, trong năm 2016, cơng tác kiểm tra, thanh tra đã được tăng cường hơn, nhưng qua
kết quả giám sát ở một số địa phương cho thấy, tình trạng nợ đọng thuế ở nhiều địa phương vẫn
tăng cao hơn năm trước và có nhiều tổ chức, cá nhân gian lận trong kê khai, trốn thuế, chiếm
dụng tiền thuế của NSNN, nợ đọng thuế kéo dài… còn khá phổ biến. Năm 2016, qua đối chiếu
hơn 1.600 người nộp thuế, KTNN kiến nghị các khoản phải nộp NSNN tăng thêm hơn 2.000 tỉ
đồng.
2.2.2 Năm 2017
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến hết 15/12/2017, tổng thu NSNN đã đạt 1.104
nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% dự tốn, trong đó, thu nội địa đạt 871,1 nghìn tỷ đồng, bằng 88% dự
tốn; thu từ dầu thơ đạt 43,5 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 13,7% và thu cân đối ngân sách từ hoạt
động xuất, nhập khẩu đạt 183,8 nghìn tỷ đồng, vượt 2,1% dự tốn.
Năm 2017, xuất khẩu dầu thơ đạt hơn 2,9 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2016. Chỉ số giá
xuất khẩu dầu thô cũng tăng tới 26,31%, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu lên mức kỷ lục
gần 214 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2016. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch nhập khẩu cũng
tăng 20,8% so với năm trước, đạt xấp xỉ 211,1 tỷ USD với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng
2,57%.

17


Bộ Tài chính đã chỉ đạo ngành thuế và hải quan chú trọng khai thác nguồn thu trong nước;
đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; quyết liệt xử lý
nợ đọng thuế cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra... Đến hết 31/12/2017, thu cân
đối NSNN đã đạt 1.283,2 nghìn tỷ đồng, vượt 5,9% dự tốn, tương đương 25,6% GDP, trong

đó, thuế phí đạt 21% GDP.
Tuy tỷ lệ thu vượt dự toán thấp hơn so với năm 2016 (8,56%), song tỷ lệ động viên vào
NSNN lại cao hơn so với con số tương ứng 24,46% GDP năm 2016. Ngược lại, thu thuế và phí
lại thấp hơn (22% GDP) so với năm trước.
Năm 2017, dự tốn của Bộ Tài chính so với con số kế hoạch của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
có sự khác biệt tới gần 100 nghìn tỷ đồng về quy mô GDP, do vậy, tỷ trọng thu NSNN so với
GDP có sự chênh lệch đáng kể. Nếu so với số dự tốn của Bộ Tài chính, GDP năm 2017 thậm
chí thấp hơn tới 86.386 tỷ đồng, nhưng nếu so với con số của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì GDP
lại tăng thêm 11.307 tỷ đồng. Theo đó, con số thu NSNN tăng tới 70.820 tỷ đồng so với dự toán
đã chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của ngành tài chính.
Bức tranh thu NSNN năm 2017 trái ngược so với năm 2016. Tính đến ngày15/11/2017,
thu nội địa mới chỉ đạt 79,8% dự tốn, thì thu từ dầu thơ đã vượt 3,2% dự tốn và thu cân đối
ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu cũng đạt 91,5%, trong khi các con số tương ứng năm
2016 lần lượt là 87,1%, 63,4% và 76,3%
Một mặt, trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất tiếp tục vượt xa dự toán tới 44,5% (năm
2016 vượt 37,6%), thu thuế thu nhập cá nhân đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước 84,7% (năm 2016 là
90%). Nhưng mặt khác, thu thuế bảo vệ mơi trường chỉ bằng 79,6% dự tốn - thấp xa so với
mức 91,5% cùng kỳ năm 2016; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước chỉ
bằng 78,3% (năm 2016 đạt tới 94,1%), trong khi thu từ DN có vốn FDI (khơng kể dầu thơ) đạt
69,5% cũng thấp xa so với mức 86,4% của năm 2016; thu từ khu vực DNNN vẫn giẫm chân ở
hạng

cuối

với

64,5%

-


thấp

hơn

mức

68,9%

của

năm

trước.

Tình hình thực hiện dự tốn thu NSNN năm 2017 phản ánh khó khăn của khu vực DN nói
chung. Tình trạng này tiếp diễn đến cuối năm 2017 khi tính đến 15/12/2017, chỉ có thu tiền sử
18


dụng đất vượt dự tốn 63,8%, đạt 104,4 nghìn tỷ đồng (năm 2016 là 98.753 tỷ đồng); thu thuế
công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 86,1% dự tốn, đạt 167,5 nghìn tỷ đồng
(năm 2016 là 157.034 tỷ đồng); thu thuế bảo vệ môi trường bằng 88,1% dự tốn, đạt 39,8 nghìn
tỷ đồng (năm 2016 là 43.632 tỷ đồng), trong khi thu thuế thu nhập cá nhân bằng 91,2% dự tốn,
đạt 73,9 nghìn tỷ đồng (năm 2016 là 65.239 tỷ đồng).
Đáng chú ý, thu từ DN có vốn đầu tư nước ngồi (khơng kể dầu thơ) chỉ bằng 76,5% dự
tốn, đạt 153,9 nghìn tỷ đồng, thấp hơn số thu được của năm 2016 tới 163.535 tỷ đồng; thu từ
khu vực DNNN thậm chí cịn đạt thấp hơn với 196,5 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 68,6% dự tốn và
thấp xa so với số thu của năm 2016 tới 257.321 tỷ đồng.
Năm 2017, qua đối chiếu gần 2.500 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại 47 tỉnh, thành phố,
KTNN phát hiện hơn 2.300 trường hợp có sai phạm (tương đương 94%) và kiến nghị xác định

nộp NSNN tăng thêm hơn 1.300 tỉ đồng.
2.2.3 Năm 2018
Theo báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2018, dự
toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2019 do Ủy ban Tài
chính ngân sách (TCNS) của Quốc hội thực hiện, Ủy ban cơ bản thống nhất với báo cáo của
Chính phủ và cho rằng, năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có chuyển biến tích
cực.
Theo đó, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế
được cải thiện hơn; cải cách thủ tục hành chính được thúc đẩy mạnh mẽ, cơng tác điều hành của
Chính phủ linh hoạt, quyết liệt; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong điều hành chính
sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mơ ngày càng phát huy hiệu
quả;
Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, tích cực triển khai các giải pháp để
hoàn thành toàn diện, đạt kết quả cao các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và NSNN năm
2018.

19


Tuy nhiên, kinh tế nước ta tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng phức tạp từ những biến động của
tình hình chính trị thế giới, xu thế bảo hộ thương mại, giá cả, lãi suất, tỷ giá có xu hướng tăng ở
một số nền kinh tế lớn. Ở trong nước, các khó khăn nội tại của nền kinh tế chưa cải thiện nhiều,
cùng với tác động của biến động khí hậu, mưa bão kéo dài trên diện rộng, khiến sản lượng nông
nghiệp một số nơi bị giảm sút; số doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng hoạt động cũng tăng cao.

Cụ thể, kết quả thu NSNN ước vượt dự toán, nhưng chưa đạt được một số mục tiêu trong
Nghị quyết của Quốc hội như: tỷ lệ huy động từ thuế, phí đạt 20,7%GDP, thấp hơn mục tiêu
21%GDP đề ra; Nợ đọng thuế cịn lớn và có xu hướng tăng so với năm 2017. Kết quả thu
NSNN vượt dự toán là nhờ tăng thu từ dầu thô, từ đất và thu từ lợi nhuận còn lại của DNNN,
tiền bán cổ phần sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, còn thực chất, thu từ các khu vực kinh tế hụt

dự toán khá lớn.
Đối với các địa phương, thu ngân sách địa phương (NSĐP) về tổng thể vượt dự toán,
nhưng chủ yếu tăng thu từ đất; nếu loại trừ thu từ đất thì một số địa phương dự ước sẽ bị hụt thu.
Vì vậy, kết quả thu NSNN năm 2018 cho thấy, nguồn thu của NSNN chưa chắc chắn và bền
vững, chưa khắc phục được những hạn chế, tồn tại đã được nêu từ những năm trước.
Về thu nội địa, ước vượt 0,9% (10,1 nghìn tỷ đồng) so với dự tốn, tăng 7,5% so với thực
hiện năm 2017 nhưng số thu từ các khu vực doanh nghiệp đạt thấp: thu từ khu vực DNNN giảm
4,9 nghìn tỷ đồng; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi giảm 33,64 nghìn tỷ
đồng (tương đương 15,1%); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm 4,85 nghìn tỷ đồng
so với dự tốn.
Theo Báo cáo của Chính phủ, nguyên nhân dẫn đến thực trạng này một phần là do số thu
nộp ngân sách của các doanh nghiệp lớn như: liên doanh sản xuất, lắp ráp ô tô, doanh nghiệp sản
xuất bia, thuốc lá, chế biến gỗ xuất khẩu… đạt thấp; nhiều doanh nghiệp FDI đang trong thời
gian được miễn, giảm thuế… đã tác động lớn đến thu, nộp NSNN.

20


Song, một nguyên nhân quan trọng được Ủy ban Tài chính Ngân sách chỉ ra là do giao dự
tốn thu nội địa năm 2018 khá cao so với số thực hiện năm 2017. Theo Ủy ban TCNS, đây là
vấn đề bất cập, đã được Ủy ban TCNS báo cáo với Quốc hội về việc giao dự toán thu nội địa
(trừ các khoản thu về đất) cho các địa phương cao hơn nhiều so với khả năng thu trên thực tế.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, qua đối chiếu thuế hơn 1.400 doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tại 24 tỉnh, thành phố, KTNN phát hiện gần 1.300 (tương đương 90%) trường họp có sai
phạm và kiến nghị xác định nộp NSNN tăng thêm 443 tỷ đồng.
Cạnh đó, theo pháp luật thuế hiện hành đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự nộp, tự chịu trách
nhiệm nên cơ quan thuế chỉ hậu kiểm được khoảng 18% trong tổng số các doanh nghiệp nộp
thuế, đồng nghĩa với việc còn khoảng 82% đang là khoảng trống chưa được cơ quan nào kiểm
tra, phát hiện.
2.2.4 Năm 2019

Thực tế tình hình thu, báo cáo của Chính phủ cho thấy, tổng thu NSNN cả năm ước vượt
46 nghìn tỷ đồng (tăng 3,3% so với dự toán); tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 23,7%GDP. Đây là
một kết quả đáng ghi nhận, là năm thứ tư liên tiếp thu NSNN vượt dự tốn, trong đó thu NSTW
cũng là năm thứ hai vượt dự tốn.Tuy nhiên vẫn cịn chưa chắc chắn. Thu nội địa chỉ tăng 1,9%
so với dự toán. Số thu NSNN thực chất từ nội lực nền kinh tế tăng còn thấp. Năm 2019 nhiều
địa phương ước thu thấp khơng đạt dự tốn. Một số địa phương là trọng điểm thu NSNN lại có
tiến độ thu chậm, như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… Đề nghị Chính phủ lưu ý có biện pháp
quyết liệt để thực hiện các vấn đề này trong công tác hành thu NSNN từ nay đến cuối năm.
Tỷ lệ huy động từ thuế, phí vào NSNN chỉ đạt 20,2%GDP, chưa đạt yêu cầu do Quốc hội
đề ra là 21%GDP. Thu từ 3 khu vực doanh nghiệp đều khơng đạt dự tốn. Điều này cho thấy
tình hình sản xuất, kinh doanh vẫn cịn nhiều khó khăn. Ủy ban Tài chính – Ngân sách đề nghị
Chính phủ cần tiếp tục có những giải pháp mới để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong nước,
góp phần bảo đảm thu NSNN ngày càng vững chắc hơn từ các khu vực kinh tế.
Công tác quản lý, sử dụng nguồn thu còn hạn chế và chưa hiệu quả. Qua kiểm toán cho
thấy, một số địa phương chưa điều thuê đất đối với một số trường hợp đã được cấp phép khai
21


thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nhưng chưa được cấp phép hoặc khai thác vượt sản lượng
được cấp phép; một số khoản thu phí tại các đơn vị trực thuộc của các bộ, cơ quan trung ương
được phép để lại sử dụng nhưng tỷ lệ để lại lớn, đơn vị khơng có nhu cầu sử dụng, tồn dư qua
nhiều năm gây lãng phí nguồn lực NSNN.
2.2.5 Năm 2020
Tám tháng đầu năm 2020, trong bối cảnh tình hình sản xuất - kinh doanh (SX-KD) bị ảnh
hưởng bởi dịch Covid-19, trên địa bàn TP Hà Nội, lũy kế số thu NSNN là 167.187 tỷ đồng, đạt
64,2% dự toán pháp lệnh (DTPL), tăng 1,6% so cùng kỳ năm 2019. Nếu loại trừ số thuế và tiền
thuê đất được gia hạn theo chính sách giãn nộp thì Hà Nội đã thực thu được 147.042 tỷ đồng,
đạt 56,5% DTPL và bằng 89,4% so cùng kỳ. Tổng thu nội địa của Hà Nội lũy kế tám tháng qua
thực hiện được 135.312 tỷ đồng, đạt 52,4% DTPL nhưng cũng chỉ bằng 85,9% so cùng kỳ.
Phân tích kỹ hơn số thu theo khu vực kinh tế, có thể thấy, số thu từ khu vực SX-KD là

67.310 tỷ đồng, đạt 45,9% DTPL, bằng 77,1% so cùng kỳ; thu các khoản thu về nhà, đất đạt
17.517 tỷ đồng, đạt 65% DTPL, tăng 17,4% so cùng kỳ năm 2019. Số thu các khoản thuế phí
khác đạt 50.485 tỷ đồng, đạt 59,7% DTPL, bằng 91,2% so cùng kỳ; số thu lợi nhuận sau thuế
DNNN trung ương trên địa bàn đạt 9.853 tỷ đồng, tăng 123,6% so cùng kỳ năm 2019. Ðây là kết
quả của việc Hà Nội linh hoạt chuyển hướng thu ngân sách ngay sau khi địa bàn phát hiện dịch
Covid-19, tập trung tăng cường nguồn thu từ đất nhằm bù đắp hụt thu từ các lĩnh vực khác. Ðến
nay, tất cả các quận, huyện trên địa bàn Hà Nội đã hồn thành dự tốn cả năm về khoản thu này,
còn khá nhiều dư địa để thời gian tới tiếp tục tập trung hoàn thiện hạ tầng các khu đất đấu giá
nhằm tăng nguồn thu trong những tháng còn lại của năm.
Tại TP Hồ Chí Minh, ý thức được vai trò tiên phong của đầu tàu kinh tế, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, cả nước trông cậy rất lớn vào nguồn thu của thành phố, cho nên lãnh đạo TP Hồ
Chí Minh khẳng định sẽ hồn thành nhiệm vụ thu, đồng thời phấn đấu tăng 5% dự toán. TP Hồ
Chí Minh đóng góp gần 30% ngân sách trung ương. Có những năm số thu của TP Hồ Chí Minh
bằng số thu của 55/63 địa phương cộng lại. Do đó, nguồn thu NSNN của cả nước dựa chủ yếu
vào nguồn thu ở hai thành phố lớn nhất nước là TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, nhất là trong
bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 đã và đang tác động nhiều địa phương hiện nay.
22


Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Thuế TP Hồ Chí Minh Lê Duy Minh cho biết, hiện có hơn 21 nghìn
doanh nghiệp (DN) trên địa bàn thành phố đã giải thể, tạm ngừng hoạt động, tác động trực tiếp
đến công tác thu ngân sách. Theo dự báo của Cục Thuế thành phố, rất có thể TP Hồ Chí Minh
chỉ hồn thành 83% dự toán thu được giao trong năm nay, nếu khơng có nhiều nỗ lực hơn nữa từ
nhiều phía.
Tại tỉnh Thanh Hóa, theo số liệu của Cục Thuế tỉnh Thanh Hóa, số thu từ khối SX-KD tám
tháng đầu năm nay đạt khá thấp, khi số thu từ DNNN trung ương được 880 tỷ đồng, đạt 50,5%
dự toán, bằng 74,1% so cùng kỳ năm 2019. Số thu từ DNNN địa phương đạt 62 tỷ đồng; từ DN
FDI 2.017 tỷ đồng, đạt 45% dự toán, bằng 80% so cùng kỳ năm 2019. Khu vực cơng thương
nghiệp và dịch vụ ngồi quốc doanh đạt 1.057 tỷ đồng, đạt 50,3% dự toán, bằng 83,5% so cùng
kỳ năm 2019. Ðây là lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét nhất về tình trạng giảm doanh thu,

giảm số thuế phát sinh. Thuế thu nhập cá nhân đạt 603 tỷ đồng, đạt 77,3% dự toán, nhưng tăng
11,9% so cùng kỳ.
Trong số này, số thu ngân sách của hộ kinh doanh không nhiều: kết quả duyệt bộ thuế hộ
kinh doanh toàn tỉnh tám tháng đầu năm cho thấy, có 140 nghìn lượt hộ có số thuế phải nộp là
85,4 tỷ đồng, trong đó thuế giá trị gia tăng chiếm 54 tỷ đồng, thuế thu nhập cá nhân chỉ có 27,4
tỷ đồng, cịn lại là các loại thuế khác. Năm 2019, tỉnh Thanh Hóa có 315 nghìn lượt hộ, số thuế
phải nộp là 123 tỷ đồng, trong đó thuế giá trị gia tăng là 76 tỷ đồng, thuế thu nhập cá nhân là
hơn 41 tỷ đồng. Cục trưởng Cục Thuế Thanh Hóa Ngơ Ðình Hùng cho biết, đến nay, đối với các
lĩnh vực, sắc thuế chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 52,3% tổng dự toán năm 2020) mà Thanh Hóa
được giao dự tốn là 9.800 tỷ đồng, nhưng dự báo chỉ thu đạt 32,7% dự toán. Ngay cả số thu từ
nhà, đất cũng không đủ để bù đắp cho số hụt thu từ khu vực DN và các lĩnh vực còn lại.
chỉnh kịp thời đơn giá cho thuê đất, chưa ký hợp đồng cho
Bộ Tài chính cho biết, trên phạm vi cả nước, công tác thu NSNN trong năm nay thật sự
khó khăn. Ðây là lần đầu tiên trong vòng 5 năm gần đây, tiến độ thu NSNN và công tác quản lý,
điều hành thu NSNN gặp biến cố. Thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, tổng thu cân đối NSNN
tám tháng đạt 881,9 nghìn tỷ đồng, bằng 58,3% dự toán, giảm 12,4% so cùng kỳ năm 2019.
Trong đó, số thu ngân sách trung ương ước đạt 54,9% dự toán; số thu ngân sách địa phương ước
23


đạt 62,7% dự toán. Riêng số thu nội địa tháng 8 ước đạt 74,7 nghìn tỷ đồng, giảm khoảng 25%
so với số thu tháng 7, bằng 87,2% mức thu cùng kỳ năm 2019. Lũy kế tám tháng ước đạt 733,98
nghìn tỷ đồng, bằng 58,1% dự toán, giảm 9,7% so cùng kỳ năm 2019. Ðó là chưa tính số tiền
thuế được gia hạn theo quy định của 128.679 DN và 56.227 hộ, cá nhân kinh doanh với tổng số
thuế và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 66,4 nghìn tỷ đồng.
Về tiến độ, Bộ Tài chính cho biết, ước chỉ có 28 trong tổng số 63 địa phương thu nội địa
bảo đảm tiến độ dự toán (đạt hơn 67%) và cao hơn mức bình qn chung của cả nước, cịn nếu
khơng kể thu tiền sử dụng đất thì chỉ có tám địa phương thu nội địa đạt trên 67% dự toán. Số thu
từ hoạt động xuất nhập khẩu tháng 8 ước đạt 15,8 nghìn tỷ đồng, giảm khoảng gần 700 tỷ đồng
so với tháng 7; hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định 9,2 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tám tháng, cả

nước ước đạt 121,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,4% dự toán, giảm 19,4% so cùng kỳ năm 2019.
Năm 2020 khơng chỉ là năm có tiến độ thu ngân sách so với dự toán đạt thấp nhất kể từ
năm 2013 mà cịn là năm có sự suy giảm so cùng kỳ ở cả ba lĩnh vực kinh tế. Cụ thể, tám tháng
đầu năm, thu từ khu vực DNNN đạt 51,3% dự tốn, khoảng 91,3 nghìn tỷ đồng, bằng 82,5% so
cùng kỳ năm 2019; thu từ khu vực DN FDI đạt khoảng 126 nghìn tỷ đồng, đạt 55% dự tốn,
bằng 90,2% so cùng kỳ năm 2019; thu từ khu vực kinh tế ngồi quốc doanh khoảng 130 nghìn
tỷ đồng, đạt 48% dự toán, bằng 81,2% so cùng kỳ năm 2019. Ðiều này phản ánh thực chất thực
trạng khó khăn của nền kinh tế.
Như vậy, trong bốn tháng cuối năm, chia bình quân mỗi tháng cần phải thu xấp xỉ 10% chỉ
tiêu thu thì mới thu đủ. Thế nhưng DN, cá nhân, hộ kinh doanh trên khắp cả nước đâu đâu cũng
gặp tình trạng kinh doanh sụt giảm, thua lỗ, phá sản... Rõ ràng, năm 2020, công tác thu NSNN
sẽ không thể đi theo những lộ trình được hoạch định sẵn như những năm trước, buộc cơ quan
điều hành NSNN phải có biện pháp mới, và những biện pháp này cần phải được cả hệ thống
chính trị và DN đồng tình, ủng hộ.
2.3 Hậu quả của thất thu ngân sách tại Việt Nam
2.2.1 Hậu quả thất thu ngân sách dẫn tới lạm phát:
- Chính phủ có thể trang trải thâm hụt bằng một trong hai cách: bán trái phiếu cho công
chúng hoặc phát hành tiền tệ.
24


+ Bán trái phiếu khơng có ảnh dưởng trực tiếp đến tổng cầu và sẽ khơng có hậu quả lạm
phát. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái
phiếu chính phủ nhằm bù đắp cho thiếu hụt ngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Ở các nước
có nền kinh tế lớn như ở Mỹ, thị trường vốn phát triển, vì vậy một lượng trái phiếu lớn có thể
được bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước được thực hiện từ nguồn vốn
vay của chính phủ. Nhưng nếu chính phủ cứ tiếp tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về
vốn vay sẽ tăng, do đó, lãi suất sẽ tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng
Trung ương sẽ phải mua vào các trái phiếu đó, điều này lại làm cho cung tiền tăng.
+ Phát hành tiền trực tiếp làm tăng cơ số tiền tệ, do đó làm tăng cung ứng tiền, đẩy tổng cầu

lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát.
Thực tế ở Việt Nam trong 2 năm gần đây, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã khá cao so với các
nước trên thế giới. Lạm phát cao so với thế giới của Việt Nam khơng chỉ diễn ra trong năm 2011
mà cịn cả ở những năm trước đó. Theo số liệu của IMF (2011a), Việt Nam có tỷ lệ lạm phát
trung bình của giai đoạn 20012005 (5,35%) đứng thứ 67 thế giới và của giai đoạn 2006-2010
(11,5%) đứng thứ 24 thế giới. Năm 2010, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam là 11,75%, trong khi đó
tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc là 4,7%, của Malaysia là 2,08%, của Thái Lan là 3,05%. Tỷ lệ
lạm phát năm 2011 của Việt Nam tiếp tục được dự báo cao hơn đáng kể so với nhiều nước trong
khu vực. Xét về nguyên nhân gây ra lạm phát thời gian qua, hiện nay cũng có một số ý kiến cho
rằng thâm hụt ngân sách là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát cao trong
những năm gần đây. Tuy nhiên, lạm phát ở Việt Nam được cho là xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân tiền tệ dường như đang nhận được sự đồng thuận. Lạm
phát cao của Việt Nam trong một thời gian dài thường được giải thích là do giá thế giới biến
động nhưng thực tế, song dường như cách lập luận này thiếu thuyết phục khi lạm phát của các
nước đang phát triển cũng chịu các tác động tương tự như nước ta nhìn chung có xu hướng giảm
và không ở mức cao như nước ta. Gần đây, tốc độ lạm phát trung bình của các
nước này ln dưới hai con số. Đó cùng là lý do mà một số nghiên cứu đã cho rằng chính sách
tiền tệ nới lỏng quá mức chính là nguyên nhân gây ra áp lực lạm phát của Việt Nam.

25


×