Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.74 KB, 19 trang )

1

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................1
I. MỞ ĐẦU............................................................................................................2
II. NỘI DUNG......................................................................................................3
2.1. Một số vấn đề lý luận chung.....................................................................3
2.1.1. Một số khái niệm.................................................................................3
2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.4
2.2. Vận dụng quan điểm Mácxít về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị trong đổi mới ở Việt Nam hiện nay.........................................8
* Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế ở Việt Nam......................................8
* Vai trò của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị................................9
* Vai trị của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế..............................10
II. KẾT LUẬN....................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................19


2

I. MỞ ĐẦU
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ln là mối quan hệ cơ bản, chi phối
tồn bộ sự vận hành của đời sống xã hội. Trong suốt 30 năm đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã từng bước nhận thức và giải quyết thành công mối quan hệ này.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), được Đại hội Đảng lần thứ XI thơng qua, khẳng
định: Trong q trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú
trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn
định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng


kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...
Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Đại hội nhấn mạnh quan điểm, nguyên tắc đổi mới nói chung, đổi mới
chính trị nói riêng, khẳng định u cầu đổi mới chính trị, trong đó khẳng định vị
trí đổi mới chính trị so với các lĩnh vực khác.
Đây là một nội dung lớn, trong phạm vi cho phép em chọn đề tài:“ Vai trị
đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay” để nhận thức rõ
hơn về vấn đề đổi mới kinh tế, vai trị của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh
tế, tạo động lực cho thời kỳ mới.


3

II. NỘI DUNG
2.1. Một số vấn đề lý luận chung
2.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm kinh tế:
Kinh tế là cơ sở tồn tại của chế độ chính trị - xã hội. Tổng thể các quan hệ
sản xuất có mối quan hệ kiến trúc thượng tầng và là cơ sở tồn tại của kiến trúc
thượng tầng.Thực chất của nền kinh tế là giải quyết mối quan hệ với lợi ích giữa
người với người trong sản xuất nhằm giải phóng, phát triển sản xuất.
- Khái niệm chính trị:
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc
gia có liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, là biểu
hiện tập trung của nền kinh tế, là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp,
các đảng phái, các nhà nước để hiện thực hóa lợi ích cơ bản của mình trong mói
tương quan với các chủ thể chính trị khác.
2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị

* Vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị
Theo Lenin, chính trị xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, là
một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện
tập trung nhất, cơ đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức, nền kinh tế, suy cho
cùng là nhân tố quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy sinh chính trị,
cơng cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Tương ứng với
một trình độ phát triển nhất định về kinh tế là một trình độ phát triển nhất định
về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị tương ứng như
thế ấy. Sự biến đổi, phát triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi về
xã hội và đảo lộn về chính trị. Do đó, khi giải thích mọi sự biến đổi về chính trị,


4

cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế. Ngược lại, chính trị khơng ngồi mục
đích là hướng vào sự phát triển của kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước
đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ. Ngược lại,
kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng thậm chí có thể bị khủng
hoảng theo. Do đó, ở bất kỳ thời đại nào, chính trị nếu khơng hướng vào việc
giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế thì sẽ khơng có
cơ sở để tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi một chính trị mới tiến bộ hơn,
phù hợp hơn. Chính trị chủ yếu là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.
Trong đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình
phát triển kinh tế – xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế giữ
vai trò quyết định. Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt đầu sự nghiệp đổi mới dựa
trên cơ sở đó, đổi mới tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
* Chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế.
Chủ nghĩa Marx – Lenin khơng phủ nhận vai trị quyết định suy đến cùng
của kinh tế, song cũng khơng có nghĩa là chỉ kinh tế là nguyên nhân duy nhất

chủ động cịn các yếu tố xã hội khác đóng vai trị thụ động: “Vấn đề hồn tồn
khơng phải là chỉ có hồn cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có nó là tích cực,
cịn tất cả những cái cịn lại đều chỉ là hậu quả thụ động”. Trong tất cả sự tác
động trở lại của các nhân tố xã hội khác đối với kinh tế thì sự tác động trở lại của
chính trị giữ vị trí quan trọng hành đầu, thể hiện cụ thể là:
Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho
những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này hoàn toàn
rõ ràng đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân
dân lao động muốn giải phóng mình ra khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư


5

sản và tiền tư sản, trước hết phải giành được quyền lực chính trị – quyền lực nhà
nước. Có như thế, họ mới có tiền đề cải tạo quan hệ kinh tế – biến mình thành
chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ khơng có sự biến đổi và phát triển nào
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nếu như giai cấp vô sản chưa giành được chính
quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để thành lập nền tảng kinh tế mới dựa trên
cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế theo nhiều
hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy vừa kìm hãm. Tác
động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba
loại: có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế, có thể cản trở sự phát triển
kinh tế hoặc thúc đẩy sự phát triển ở chiều hướng khác. Vì thế, muốn kinh tế
phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị thì phải quan tâm tới ba
phương diện: cương lĩnh, đường lối chính trị kinh tế; tổ chức, thiết chế chính trị
với kinh tế; con người, chủ thể chính trị với kinh tế. Bằng sự nhận thức khoa học
những xu hướng và quy luật kinh tế khách quan, chính trị có thể vận dụng tổng
hợp một số quy luật, điều kiện để tăng cường tác động của quy luật này, hạn chế
hậu quả của quy luật khác, nhằm đưa nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo khách

quan, đồng thời phù hợp với lợi ích của chủ thể chính trị. Trên thực tế, khơng có
đường lối chính trị đúng đắn thì khơng một giai cấp nào có thể giữ vững được sự
thống nhất chính trị của mình, và do đó, cũng khơng có khả năng lãnh đạo kinh
tế. Hơn nữa, nếu thiếu quan điểm chính trị đúng đắn trong việc giải quyết các
vấn đề kinh tế thì có thể sản xuất vẫn phát triển, kinh tế vẫn tăng trưởng, thậm
chí với tốc độ cao, nhưng trung tâm quyền lực chính trị khơng cịn nằm trong tay
giai cấp thống trị đương thời. Muốn có đường lối chính trị đúng đắn, cần thiết


6

phải có một thiết chế chính trị và các chủ thể chính trị phù hợp, bảo đảm hiện
thực hóa có kết quả đường lối phát triển kinh tế.
Chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị – xã hội ổn
định bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị cho sự phát triển
kinh tế thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế như: xây
dựng đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình tổ chức thể chế hóa
đường lối, quản lý q trình phát triển kinh tế và định hướng xã hội phát triển
kinh tế để khơng có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích giai cấp thống trị
khơng bị vi phạm. Hơn nữa, trong điều kiện tồn cầu hóa đời sống kinh tế, sự ổn
định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh và
phát triển kinh tế.
Chính trị khơng chỉ lãnh đạo kinh tế mà cịn tham gia kiểm sốt chặt chẽ
các vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế như: ngân sách, vốn, hoạt động tài
chính, tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại… Sự lãnh đạo của chính trị đối với
kinh tế không chỉ định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển kinh tế mà còn tham
gia quản lý nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Việc kiểm soát chặt chẽ nội dung hoạt động
của kinh tế góp phần nâng cao tính năng động của nền kinh tế và qua đó thực
hiện sự thẩm định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế.

Trong các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
quan trọng nhất, đồng thời cũng nhạy cảm và phức tạp nhất. Để giải quyết tốt
mối quan hệ này cần phải tránh hai quan điểm sai lầm: một là, tuyệt đối hóa kinh
tế; hai là, tuyệt đối hóa chính trị. Nếu theo khuynh hướng thứ nhất, nền kinh tế
sẽ phát triển một cách tự phát, vơ chính phủ. Nếu theo khuynh hướng thứ hai,


7

nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, khơng theo quy luật khách quan. Nếu
đồng nhất chính trị với kinh tế sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo ra môi trường xã
hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định
hướng phát triển. Sự phát triển xã hội địi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối
với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát
triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Trong những giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ chiến tranh, cách
mạng…kinh tế lúc này chỉ là nhân tố phục vụ mục tiêu chính trị), chính trị là
nhân tố quyết định sự phát triển của các giai đoạn.
2.2. Vận dụng quan điểm Mácxít về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị trong đổi mới ở Việt Nam hiện nay
* Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị, Đảng ta đã nhiều lần
khẳng định, từ Đại hội VIII đã nêu:Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chínhtrị.Đại hội VIII trong khi khẳng định phải kết hợp đổi mới kinh tế và
chính trị ngay từ đầu, Đảng ta nhấn mạnh phải chú trọng đổi mới kinh tế, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đến Đại hội
XII, sau 30 năm đổi mới, vẫn tiếp tục quan điểm đổi mới toàn diện, song Đảng ta

đặc biệt chú ý, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, cần
tập trung cao độ cho đổi mới chính trị, trọng tâm là chú trọng cơng tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.


8

Quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong số những quan
hệ lớn cần được nghiên cứu, tổng kết và có cách thức giải quyết tốt để thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), được Đại hội
Đảng lần thứ XI thơng qua, khẳng định: Trong q trình thực hiện các phương
hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hố, thực hiện
tiến bộ và cơng bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Đặc biệt chú trọng xử lý và
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;…
Thực tiễn hai nhăm năm đổi mới vừa qua cũng như kinh nghiệm của nhiều
nước trong quá trình chuyển đổi và phát triển trong nhiều thập kỷ vừa qua cho
thấy giải quyết tốt các vấn đề về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia dân tộc.
* Vai trò của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị

Đổi mới kinh tế tạo cốt lõi vật chất cho việc giữ gìn định hướng xã hội:
Giải phóng mọi sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của tất cả các thành phần


9

kinh tế, các cá nhân, các tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế
phát triển khoa học và công nghệ, thực hiện dân giày, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng tạo thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân, là chỗ dựa cơ bản cho việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới kinh tế là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội chính trị của q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đóng vai trị động lực cho việc hoàn thiện một thiết chế nhà nước gần dân, sát
cuộc sống; cho việc tăng cường và củng cố dan chủ trong tổ chức, hoạt động và
phong cách lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị xã hội của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân chủ của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi và tạo tiền đề vật chất kinh tế - xã hội cho
tính năng động và dân chủ của các thiết chế chính trị.
* Vai trị của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế
Đổi mới chính trị là yếu tố quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong đổi mới kinh tế. Định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị
trường cơ bản thể hiện ở chỗ hướng sự tăng trưởng kinh tế vào việc thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; đảm bảo con người ln ở vị trí trung tâm của chiến
lược phát triển; làm cho mọi nhu cầu cơ bản và hợp lý của dân đều được thỏa
mãn.
Vai trò định hướng của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế thể hiện ở
(1) vai trò chi phối của việc đổi mới tư duy chính trị về kinh tế so với đổi mới
kinh tế trong hiện thực và (2) việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá



10

trình đỏi mới hệ thống chính trị và đổi mới kinh tế, một nhân tố quyết định để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại.
Khơng có sự đổi mới đó thì khơng có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, vượt qua
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề để giữ vững ổn định chính trị và đổi
mới các mặt khác. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, từng bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề
cấp bách nhất và đã chín muồi, với nhận thức đây là việc rất cần thiết nhưng đặc
biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắt.
Đảng ta xác định mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực
hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới
phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài
học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những
hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh
hướng dân chủ cực đoan, q khích. Dứt khốt loại bỏ mọi mưu toan lợi dụng
“dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ, hoặc can
thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Sau 30 năm đổi mới, chúng ta đã tiến hành đổi mới chính trị và đã thu
được những thành tựu đáng khích lệ: Trước hết, đó là đổi mới tư duy chính trị.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được hoạch định và thực
thi đã chứa đựng nhiều nhân tố của đổi mới tư duy chính trị, thể hiện ở nhận thức



11

về CNXH, về thời kỳ q độ, về mơ hình kinh tế, về phát huy dân chủ trong hoạt
động kinh tế. Hơn nữa, đổi mới tư duy chính trị cịn được thể hiện ở sự đổi mới
quan điểm phát triển: xây dựng nền kinh tế mở, mơ hình cơng nghiệp hóa hướng
vào xuất khẩu là trọng tâm, đồng thời thực hiện một phần chính sách thay thế
nhập khẩu... cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
theo cơ chế thị trường có sự định hướng XHCN. Trong q trình đổi mới, ý thức
chính trị của công dân và của xã hội được nâng cao, những bảo đảm dân chủ về
quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm đã được luật hóa và được thực hiện
từng bước có kết quả. Điểm mấu chốt và sâu xa là Đảng kiên định con đường đi
lên CNXH và được nhân dân ủng hộ.
Hai là, từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị (HTCT). Đã hình thành nhận thức lý luận về HTCT theo quan điểm đổi
mới. HTCT là hệ thống các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội được thành lập
công khai, hợp pháp theo Hiến pháp và pháp luật, được Nhà nước thừa nhận và
tạo điều kiện cho hoạt động. HTCT còn là hệ thống các mối quan hệ giữa các tổ
chức thành viên với nhau và với xã hội nói chung. Hoạt động của HTCT đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, tuân thủ pháp luật, hướng tới phục vụ lợi ích của nhân
dân. Mục tiêu chủ yếu của đổi mới HTCT là nhằm thực hiện tốt dân chủ XHCN,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phát triển kinh tế và dân chủ hóa xã hội. Cơ cấu tổ chức bộ máy trong
HTCT, từ hệ thống tổ chức Đảng đến Nhà nước và các đoàn thể nhân dân đã có
một bước sắp xếp lại, tuy chưa thật sự hoàn hảo, hợp lý, gọn nhẹ để tăng cường
sức mạnh và hiệu quả, nhưng cũng có những tiến bộ nhất định so với trước. Lần
đầu tiên, một nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT


12


ở cơ sở đã ra đời, đem lại sinh khí và sức sống mới về dân chủ và quyền làm chủ
của người dân.
Ba là, xây dựng, phát huy nền dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân; thúc đẩy cơng cuộc cải cách
hành chính, hồn thiện hệ thống pháp luật... Từ thực tiễn đổi mới HTCT và xây
dựng thể chế KTTT định hướng XHCN, chúng ta đã dần dần hình thành nhận
thức về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đây là một
bước tiến của nhận thức lý luận và là kết quả của thực tiễn vận động của dân chủ
hóa ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong HTCT dân chủ không thể
thiếu nhà nước pháp quyền, vì nó bảo đảm địa vị pháp lý của đảng cầm quyền,
đồng thời giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội, trong đó luật pháp được đề cao để mọi hoạt động của đời sống xã hội vận
động lành mạnh trong quỹ đạo, do luật pháp điều tiết, kiểm soát.
Bốn là, giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Vị trí và vai trị cầm quyền của Đảng
được xác định bởi một nhà nước pháp quyền có thực lực và thực quyền, bởi một
HTCT dân chủ, thực sự của dân, bởi một nền dân chủ thực chất. Đảng mạnh từ
năng lực và phẩm chất của từng đảng viên, của đội ngũ cán bộ chủ chốt của
Đảng, đặc biệt ở năng lực, trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh chính trị của ban lãnh đạo
cấp cao của Đảng. Đảng ta đã đổi mới tư duy, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác, nâng cao giác ngộ cách mạng,
bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất đạo đức, kiến thức, năng lực lãnh đạo chính trị
của cán bộ, đảng viên.
Năm là, vị thế của Mặt trận Tổ quốc được đề cao và hoạt động của Mặt
trận từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới. Trong điều kiện đó,


13


muốn bảo đảm được dân chủ và dân chủ lành mạnh, tích cực, thực chất chứ
khơng hình thức thì nhất thiết phải tạo lập được cơ chế tư vấn, giám sát và phản
biện xã hội đối với Đảng và Nhà nước.
Sáu là, cơng tác cán bộ và chính sách cán bộ trong HTCT được chú trọng
trên các phương diện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng theo yêu cầu tiêu
chuẩn hóa, hướng tới đội ngũ cơng chức chun nghiệp, hiện đại. Việc quy định
chế độ học tập, thi tuyển, thực hiện dân chủ hóa cơng tác cán bộ đã có những
bước tiến đáng kể trong việc đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở,
tạo nguồn và đội ngũ công chức dự bị.
Đồng thời với những chuyển biến tích cực, những kết quả bước đầu trong
nhận thức và trong tổ chức hoạt động thực tiễn để đổi mới chính trị, thực trạng tổ
chức và hoạt động của HTCT nước ta đã bộc lộ những hạn chế:
Một là, chưa phân biệt và phân định thật rõ ràng, minh bạch về chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và phương thức tổ chức, hoạt động giữa Đảng, Nhà nước
với các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước,
nhưng trên thực tế Đảng đã quyết định cả những vấn đề thuộc chức năng quản lý
của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo và
quản lý, giữa phương thức cầm quyền của Đảng với quyền lực quản lý của Nhà
nước theo luật định. Trong các cơ quan nhà nước và trong HTCT nói chung, đã
và đang thiếu vắng chế độ trách nhiệm và một cơ chế xử lý theo trách nhiệm. Do
vậy, hiện tượng lẩn tránh và đùn đẩy trách nhiệm đã trở thành phổ biến; một kết
quả đúng thì của nhiều, cịn kết quả sai khơng qui trách nhiệm cho ai được. Vấn
đề lớn nhất của Đảng hiện nay trong lãnh đạo HTCT là vấn đề đổi mới phương
thức cầm quyền chứ không phải nội dung cầm quyền.


14

Hai là, mơ hình tổ chức đảng ở Trung ương vẫn chưa có sự thay đổi căn
bản, trong khi hệ thống tổ chức đảng ở địa phương và cơ sở đã có thay đổi theo

hướng gọn nhẹ, phù hợp với đặc thù của Đảng. Cách thức đánh giá, sắp xếp, bố
trí cán bộ.
Ba là, hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, trùng
lặp; đội ngũ cán bộ công chức không được đào tạo bài bản, hiện đại, chuẩn mực,
dẫn đến vừa thừa lại vừa thiếu.
Bốn là, hoạt động của các tổ chức hính trị - xã hội vẫn cịn hình thức, kém
hiệu quả do tập nhiễm phải căn bệnh quan liêu hóa, hành chính hóa, ít sức lơi
cuốn, thuyết phục dân chúng.
Nhìn chung, HTCT chưa đáp ứng u cầu địi hỏi của cơng cuộc đổi mới,
chưa theo kịp những biến đổi kinh tế - xã hội. Tính kém hiệu quả thể hiện ở
nhiều mặt: 1) Quyền lực khơng minh bạch, hệ thống kiểm sốt quyền lực yếu,
càng ở cấp cao kiểm sốt càng ít. Cơ chế tổ chức và vận hành trong HTCT không
thu hút được người giỏi, khó sử dụng được người tài. 2) HTCT chưa tạo được
đột phá để đổi mới và phát triển như đã từng có trong kinh tế; cách thức tổ chức,
cơ chế điều hành hoạt động chưa phát huy được sức mạnh tồn dân. 3) HTCT
khơng đủ sức ngăn chặn hai vấn nạn: quan liêu, tham nhũng và thối hóa biến
chất. 4) HTCT của dân nhưng những người tài giỏi tâm huyết ngồi Đảng lại ít
được sử dụng vào các cương vị, chức vụ quan trọng để phát huy tài năng, cống
hiến cho đất nước.
Đã đến lúc cần ý thức đầy đủ và có trách nhiệm xã hội về yêu cầu đổi mới
chính trị đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội, trước hết là phát triển kinh tế. Nói
cách khác là đổi mới chính trị phải tương thích, đáp ứng được với yêu cầu đổi


15

mới chính trị để đất nước sớm hình thành một thể chế kinh tế - chính trị thống
nhất, hài hịa vì sự phát triển và vì hạnh phúc của nhân dân.
Nghiên cứu lý luận về Vai trị đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế ở
Việt Nam hiện nay có giá trị và ý nghĩa rất lớn đối với các cán bộ, cơ quan đơn

vị. Mỗi cán bộ cần thấm nhuần các quan điểm lý luận, nhận thức một cách đúng
đắn, triệt để và nhất quán về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị, giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn về những thuận lợi, khó
khăn; những thời cơ, vận hội; nguy cơ và thách thức đan xen nhau để từ đó với
quyết tâm chính trị cao chúng ta phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh
chủ quan, nóng vội, duy ý chí; trong nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách
quan tôn trọng và hành động theo quy luật.
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 30 năm qua với những
thành tựu hết sức khả quan, cho phép mỗi chúng ta khẳng định niềm tin tuyệt đối
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, sự nghiệp
đổi mới nhất định sẽ thành công.
Đối với với mỗi chúng ta, mỗi cơ quan đơn vị, cần quyết tâm đồng thuận
một lòng xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ,
giàu mạnh và văn minh trên con đường quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của
Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Dân tộc
Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên
thế giới.
Đối với cơ quan em công tác hiện nay, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh
Thái Nguyên, cần thường xuyên tổ chức tuyên truyền, làm rõ những lý luận cụ
thể về mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế, tạo ra niềm tin kiên


16

định vào sự nghiệp đổi mới, cố gắng, nỗ lực để phấn đấu hồn thành nhiệm vụ
chun mơn, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đơn vị và cho đất
nước.

III. KẾT LUẬN

Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong số những quan hệ lớn cần
được nghiên cứu, tổng kết và có cách thức giải quyết tốt để thúc đẩy sự phát triển


17

nhanh chóng và bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Việc nghiên cứu quan hệ tác động trở lại của chính trị, đổi mới
chính trị đối với kinh tế, đổi mới kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế không phải chỉ để tăng trưởng hoặc
phát triển kinh tế, mặc dù mục tiêu kinh tế là một trong những mục tiêu cơ bản,
quan trọng hàng đầu. Những năm qua chúng ta nhấn mạnh nhiều đến mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Điều đó hồn tồn đúng và phù hợp với bối cảnh đất nước
chưa thốt khỏi cảnh nghèo đói, khủng hoảng trầm trọng. Đến lúc này đời sống
vật chất các tầng lớp dân cư đã được cải thiện. Những năm tới sẽ là giai đoạn
“cất cánh” của đất nước. Vì vậy trong đổi mới cần phải tập trung nhiều hơn cho
những vấn đề xã hội như cơng bằng, bình đẳng, dân chủ,... Đổi mới cả kinh tế và
chính trị phải thúc đẩy phát triển và tiến bộ xã hội chứ khơng chỉ cho tăng trưởng
kinh tế. Đây chính là điều mà trong thời gian sắp tới phải quán triệt sâu sắc hơn
nữa khi tiến hành đổi mới. Đổi mới là để thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội
nhanh hơn, nhân dân giàu có hơn và hạnh phúc hơn, đất nước giàu mạnh hơn, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh hơn. Điều đó cũng có nghĩa rằng phải tiến
hành đổi mới đồng bộ hơn, toàn diện hơn cả trong kinh tế lẫn chính trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


18


1. Bộ giáo trình Cao cấp lý luận chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản lý luận chính trị.
2. Tài liệu Báo cáo Tổng kết 30 năm đổi mới.
3. Trang web Đảng cộng sản: dangcongsan.vn.
4. Văn kiện Đại hội XII của Đảng.


19

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

BÀI THU HOẠCH MƠN TRIẾT HỌC
“Vai trị đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”

Học viên: Nguyễn Hải Quân
Mã số học viên: FF170097
Lớp: Hoàn chỉnh CCLLCT, K68-C01(2017-2018)

HÀ NỘI – 2017



×