Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

ĐẢM BẢO QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.36 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VÂN TRANG

ĐẢM BẢO QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN
CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VÂN TRANG

ĐẢM BẢO QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN
CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu

Hà nội – 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Vân Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CRC

Công ước quốc tế về quyền trẻ em

CERD

Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi thình thức phân
biệt chủng tộc

CEDAW
ILO


Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ.
Tổ chức lao động thế giới

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính tr ị

ICESCR
NGO

Cơng ước quốc tế về các quyền kinh t ế, xã hội,
văn hóa
Tổ chức phi ch ính phủ

UDHR

Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quy ền

UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên h ợp qu ốc

WHO

Tổ chức y t ế thế giới


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU………………………………………………………………...

1

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã hội và bảo
đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản……………………………………………………………….............

9

1.1. Quan niệm về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã
hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………

9

1.2.Nội dung quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản……………………………………………………………….........

16

1.3.Các biện pháp bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản ……………………………………………………

28

Kết luận chương 1……………………………………………………….

32

Chƣơng 2: Thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc

tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam………………………..

33

2.1. Thực trạng bảo đảm quyền giáo dục cơ bản………………………

33

2.2. Thực trạng bảo đảm quyền chăm sóc y tế cơ bản…………………

40

2.3. Thực trạng bảo đảm quyền có nơi cư trú…………………………..

47

2.4. Thực trạng bảo đảm quyền được cung cấp nước sạch…………….

52

2.5.Thực trạng bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin………………..

55

Kết luận chương 2……………………………………………………….

61

Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an
sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam


62

3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã
hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………

62


3.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội
trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản…………………………..

64

3.3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội
trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản…………………………..

68

Kết luận chương 3……………………………………………………….

73

KẾT LUẬN……………………………………………………………...

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...

76



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền an sinh xã hội là yêu cầu, và là điều kiện cần thiết cho
sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của
mọi người dân. Trên thực tế, quyền An sinh xã hội và bảo đảm thực hiện
quyền an sinh xã hội luôn là mối quan tâm của cả nhân loại, là lý tưởng mà
các quốc gia hướng tới, và là nền tảng của tự do, cơng lý và hịa bình trên thế
giới. Trong Tuyên ngôn Quốc tê Nhân quyền (1948) (UDHR) , Liên hợp quốc
đã đề cập đến an sinh xã hội và nhấn mạnh: “Mọi người dân và hộ gia đình
đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội, bao
gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an
sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc
các trường hợp bất khả kháng khác”[ Điều 25]
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Đảng và
Nhà nước đã luôn coi trọng việc đảm bảo quyền an sinh xã hội, coi việc phát
triển bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày
càng được an toàn và cải thiện, là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự
nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong một thời
gian dài, an sinh xã hội chỉ được thực hiện ở mức độ nhất định với những chế
độ cơ bản. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh
xã hội ngày càng phát triển, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Việc bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người dân cũng được
thực thi ngày một hiệu quả hơn thông qua hệ thống các văn bản pháp luật.
Đặc biệt, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) khẳng
định, cơng dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội [Điều 34] . Đây là
quyền mới, chưa có trong các bản Hiến pháp trước đây. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc khẳng định quyền được bảo đảm an
sinh xã hội của người dân được xem là tất yếu.

1


Quyền an sinh xã hội ở nước ta ngày càng được nâng lên đáng kể, mở rộng
trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, như: Quyền được bảo vệ
thu nhập; Quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; Quyền được trợ giúp
trong các hồn cảnh khó khăn; Quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản; Quyền an sinh xã hội đối với một số đối tượng đặc biệt… Trong đó,
Quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong bối cảnh xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Có thể hiểu, dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống dịch vụ được cung cấp,
nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.
Dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm các nhóm: giáo dục cơ bản, chăm sóc y tế cơ
bản, cư trú (nhà ở), cung cấp nước sạch, tiếp cận thơng tin. Đó là những nhu
cầu tối thiểu mà bất cứ một cá nhân nào cũng cần phải có, để tồn tại và phát
triển. Con người là mục tiêu, động lực, tiền đề cho sự phát triển của mỗi một
quốc gia. Bởi vậy, đảm bảo tốt đời sống cho người dân, không ngừng nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người dân cũng chính là góp phần tích cực vào
việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất
nước.
Hiện nay, ở Việt Nam, bảo đảm quyền an sinh trong việc tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, như: Luật
Giáo dục (2005, sửa đổi năm 2009), Luật Bảo hiểm y tế (2008), Luật Khám
chữa bệnh (2009), Luật cư trú (2006, sửa đổi, bổ sung 2013), Luật Nhà ở
(2014), Nghị định 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước
sạch, Luật Báo chí (1989, sửa đổi năm 1999), Luật Viễn thơng (2009)…
Những văn bản này đã luật hóa hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có
quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản một cách có hiệu quả, thông qua
hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, làm cơ sở cho sự phát triển thống nhất,
toàn diện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ở nước ta.


2


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc bảo đảm quyền an sinh trong
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở nước ta còn nhiều bất cập. Chẳng
hạn, nội dung bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, mặc dù đã
được thể chế hóa tương đối đầy đủ trong các văn bản pháp luật, nhưng xét từ
khía cạnh quản lý, thi hành, áp dụng trong thực tiễn, việc quy định như vậy
dẫn đến sự tản mạn, lan man, thiếu tính hệ thống. Bên cạnh đó, trong từng
khía cạnh của các dịch vụ xã hội cơ bản, việc bảo đảm quyền cho người dân
vẫn cịn nhiều hạn chế. Có thể kể đến một số ví dụ, như : Trong lĩnh vực giáo
dục, mặc dù Việt Nam đã hoàn thành được một số mục tiêu như phổ cập giáo
dục tiểu học, đẩy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong độ tuổi, tuy
nhiên, chất lượng giáo dục không đồng đều, năng lực giáo viên chưa đáp ứng
yêu cầu, học sinh bỏ học nhiều do hồn cảnh khó khăn… Trong lĩnh vực y tế,
nhìn chung các hoạt động khám chữa bệnh cịn nhiều yếu kém. Chất lượng
khám, chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, nhất là các tuyến
y tế cơ sở và các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các bệnh viện tuyến tỉnh,
tuyến Trung ương thường trong tình trạng q tải. Thủ tục hành chính khám
chữa bệnh cịn rườm rà, nhất là đối với đối tượng có bảo hiểm y tế. Trong
việc tiếp cận thông tin, do chưa được cụ thể hóa thành cơ chế bảo đảm, quyền
thông tin của công dân chưa được thực thi một cách thống nhất, hiệu quả
trong các lĩnh vực. Thực tế này địi hỏi phải có một sự nghiên cứu, đánh giá
toàn diện về việc bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt
Nam.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Đảm bảo quyền an
sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam làm đề
tài Luận văn thạc sĩ, nhằm giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
đang đặt ra trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản ở nước ta hiện nay.


3


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản khơng cịn là vấn đề mới mẻ. Ở những phương diện và mức độ
khác nhau đã có một số cơng trình, bài báo đề cập đến vấn đề này. Dựa vào
nguồn tư liệu bao quát được, và trong phạm vi quan tâm của đề tài, chúng tôi
thấy nổi bật lên một số cơng trình sau:
Năm 2010, cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của TS.Nguyễn Hiền Phương được xuất bản, đã đưa đến cái nhìn
tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật an sinh xã hội, từ đó đưa ra
những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Năm 2011, trong cuốn chuyên khảo “Pháp luật về an sinh xã hội:kinh
nghiệm của một số nước đối với Việt Nam”, các tác giả TS. Trần Hoàng Hải
và TS. Lê Thị Thúy Hương đã nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật an
sinh xã hội ở một số quốc gia tiêu biểu như Mỹ, Đức, Nga, đồng thời trình
bày những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác
giả đã nhận định, đánh giá về những ưu điểm, hạn chế trong pháp luật hiện
hành, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
về lĩnh vực này.
Năm 2014, Chuyên khảo “Quyền An sinh xã hội và đảm bảo thực hiện
trong pháp luật Việt Nam”, do PGS.TS Lê Thị Hoài Thu chủ biên, được xuất
bản. Đây cơng trình tiêu biểu nghiên cứu tồn diện, hệ thống vấn đề quyền An
sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội. Cuốn sách gợi mở nhiều vấn đề
cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về an sinh xã hội, đặc biệt là trên phương diện
quyền con người ở nước ta hiện nay. Trong đó, vấn đề quyền tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản đã được tác giả đề cập đến ở mục 3.3, chương III – “Quyền
An sinh xã hội trong pháp luật Việt Nam”. Đặc biệt, các tác giả đã dành hẳn

chương VII để bàn về “Thực trạng đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”. Tuy nhiên, do tính chất của một cuốn
4


sách chuyên khảo, nhằm đưa ra một cái nhìn tổng thể về mọi mặt của quyền
An sinh xã hội, nên các tác giả chưa đi sâu, phân tích lý giải vấn đề trên cơ sở
phân loại các nhóm đối tượng của quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản.
Như đã nói ở trên, quyền tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm các
nhóm: Quyền giáo dục cơ bản, Quyền chăm sóc y tế cơ bản, Quyền có nơi cư
trú (nhà ở), Quyền được cung cấp nước sạch, Quyền tiếp cận thơng tin. Việc
phân tích, nghiên cứu những nhóm quyền này cũng đã được nhiều người quan
tâm. Một số đề tài nghiên cứu, sach chuyên khảo, bài báo khoa học đã bước
đầu đi sâu bàn về những vấn đề cụ thể. Trong đó, có thể kể đến một số cơng
trình được cơng bố thời gian gần đây, như: Lê Thị Hoài Thu, Xây dựng Luật
bảo hiểm y tế ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2008; Đào văn
Dũng, Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế ở nước ta: Thành tựu, Thách thức
và giải pháp, Tạp chí Tun giáo, 2009; Vũ Cơng Giao, Cơ chế và việc hoàn
thiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước ở
Việt Nam, Website của Trung tâm nghiên cứu Quyền con người và Quyền
công dân; Phạm Thị Phương Liên, Quyền tiếp cận thông tin và thực hiện
quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Đại học Văn hóa
Hà Nội ; Nguyễn Hiền Phương (Chủ biên), Pháp luật bảo hiểm y tế một số
quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2013; Nguyễn Hiền Phương, Giáo dục đối với người khuyết tật theo pháp luật
Việt Nam – Từ quy định đến thực tiễn, Tạp chí Luật học – Đại học Luật Hà
Nội, 2013… Ở những phạm vi và mức độ khác nhau, những cơng trình, bài
viết kể trên đã đề cập đến thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc
tiếp cận một số nhóm dịch vụ xã hội cơ bản ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên,

hầu hết những bài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào một số vấn đề, như dịch
vụ y tế, quyền tiếp cận thơng tin. Trong khi đó có nhiều vấn đề thiết yếu của
đời sống xã hội, như: quyền giáo dục cơ bản, quyền được cư trú, quyền tự do
5


báo chí, quyền được cấp nước sạch,… vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy
đủ, thậm chí là cịn bỏ ngỏ.
Kinh tế - xã hội của nước ta đang trong q trình hội nhập và phát triển.
Điều đó địi hỏi phải không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống an
sinh xã hội. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế xã hội đã cho thấy, nhiều vấn
đề bất cập của hệ thống luật pháp hiện hành về bảo đảm quyền an sinh xã hội
nói chung và quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nói riêng. Nói cách
khác, nhiều vấn đề của luật pháp đã khơng còn phù hợp với sự phát triển,
biến động của đời sống xã hội. Thực tế đó địi hỏi cần thiết phải có một cơng
trình nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, và có hệ thống về quyền được tiếp cận các
nhóm dịch vụ xã hội cơ bản trong bảo đảm an ninh xã hội.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi trước về
bảo đảm quyền an sinh xã hội, chúng tôi thực hiện đề tài Bảo đảm quyền an
sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam với
mong muốn góp thêm một tiếng nói vào q trình nghiên cứu, hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật bảo đảm quyền an sinh xã hội ở nước ta. Dựa vào
những khảo sát, phân tích một cách hệ thống, tồn diện những văn bản pháp
luật hiện hành ở nước ta về Bảo đảm quyền an sinh xã hội, chúng tôi sẽ đề
cập đến một số vấn đề lý luận, thực tiễn về bảo đảm quyền tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục tiêu tổng quát
Luận văn đưa ra một cái nhìn tương đối hệ thống, tồn diện về bảo đảm
quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, từ đó, kiến nghị, đề xuất một số giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
3.2 Mục tiêu cụ thể

6


Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn cần giải quyết các
mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, khái quát được một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã
hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản.
Thứ hai, chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an
sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và
nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn bảo đảm quyền con người
nói chung và quyền an sinh xã hội nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, tác
giả sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, hệ thống, tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh để làm sáng tỏ những
vấn đề liên quan.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là Luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên ở nước ta nghiên cứu những vấn
đề lý luận, thực tiễn về bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam.

Đề tài có ý nghĩa lý luận trong việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
thống nhất, toàn diện về an sinh xã hội, làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng
các quy phạm pháp luật liên quan, nhằm đảm bảo chất lượng đời sống cho
người dân, ổn định xã hội, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững ở Việt
Nam.
7


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã hội và bảo đảm
quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an sinh xã
hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN AN SINH XÃ HỘI
VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN
CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
1.1. Quan niệm về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội
trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
1.1.1. Quyền an sinh xã hội một trong những quyền cơ bản của con ngƣời
Như một lẽ tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người trước hết phải
có cái ăn, cái mặc, có chỗ để ở. Những nhu cầu thiết yếu ấy chỉ có thể được

đáp ứng khi con người biết lao động, được lao động. Nói cách khác, lao động
là điều kiện, là phương thức có ý nghĩa quyết định sự tồn tại, phát triển của
con người, xã hội. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải khi nào con người
cũng có thể lao động tạo ra thu nhập. Bởi lẽ, trong cuộc sống con người luôn
phải đối mặt với nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh mà nguyên nhân có thể đến
từ nhiều phía, như ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong;
thiên tai hay rủi ro trong nghề nghiệp. Lịch sử phát triển của nhân loại cho
thấy, cuộc sống của con người phụ thuộc nhiều vào mơi trường sống tự nhiên
và xã hội. Ở đó ln tiềm ẩn những biến động, thay đổi khó lường. Bởi vậy,
để tồn tại và phát triển, con người phải ln chủ động tìm kiếm những giải
pháp khắc phục khó khăn, ứng phó với những rủi ro, bất trắc. Từ rất sớm, con
người đã nghĩ tới việc “tích cốc phịng cơ, tích y phịng hàn” và ứng xử với
nhau theo tinh thần “tương thân tương ái”, san sẻ, đùm bọc nhau trong khó
khăn, hoạn nạn. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự tương trợ dần dần được
mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức. Những yếu tố đồn kết, hướng
thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của Nhà nước ở
các chế độ xã hội khác nhau. Trong đó, an sinh xã hội được nhìn nhận như
một vấn đề thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của con người, xã hội.
9


Bước ngoặt lớn, đánh dấu cho sự ra đời chính thức của hệ thống an sinh
xã hội đó là cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào thế kỷ XIX ở các nước
châu Âu. Lao động thủ công được thay thế bằng lao động máy móc,nền sản
xuất thủ cơng dần chuyển sang nền sản xuất cơ khí. Năng suất lao động ngày
càng cao, đời sống của người ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh
những thay đổi tích cực về kinh tế, văn hóa, xã hội, người lao động luôn phải
đối mặt với nguy cơ mất việc làm, giảm thu nhập do tai nạn lao động, ốm đau
và tuổi già. Để đối phó với những nguy cơ ngày một hiện hữu, các nghiệp
đồn đã hình thành những quỹ cứu trợ, nhằm bảo đảm ổn định xã hội và lợi

ích của người lao động. Nhận rõ ích lợi của hoạt động đó, nhà nước và giới
chủ đã tham gia vào việc đóng góp, hình thành và tổ chức hoạt động của các
quỹ mang tính đồn kết, tương trợ. Đây có thể xem là cơ sở cho sự hình thành
và phát triển của hệ thống an sinh xã hội.
Mơ hình an sinh xã hội đầu tiên trên thế giới xuất hiện ở Đức vào
năm1850, sau đó bắt đầu lan dần ra châu Âu rồi sang các nước Mỹ Latinh,
Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, an sinh xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở
châu Á, châu Phi, vùng Caribe. Thuật ngữ An sinh xã hội lần lượt được ghi
nhận trong nhiều văn bản, đạo luật khác nhau .
Đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội trên thế giới là Đạo luật năm 1935
ở Mỹ. Theo đó, an sinh xã hội “…là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách
cùng những giá trị cá nhân đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống
sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ”. Tiếp đến, Hiến
chương Đại Tây Dương (1941) cũng chính thức sử dụng thuật ngữ “An sinh
xã hội”. Trong bản Hiến chương này, an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rất
rộng, đó là: “Sự bảo đảm thực hiện quyền con người sống trong hồ bình,
được tự do làm ăn cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khn khổ
của pháp luật, được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật, được học tập, làm việc,
10


nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập để có thể thỏa
mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, ốm đau, tuổi
già...”. Trong cuốn sách “Giới thiệu về an sinh xã hội” do Tổ chức lao động
quốc tế xuất bản tại Genever năm 1992, khái niệm về an sinh xã hội được xác
định: “...là sự bảo đảm thực hiện quyền con người được sống trong hồ bình,
được học tập, được làm việc và nghỉ ngơi, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu
nhập” Tại Hội nghị trù bị về “an sinh xã hội ASEAN” tháng 6/2001 ở
Singapore, các nhà khoa học cũng đã đưa ra một khái niệm tương đối rộng về

an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội bao gồm: Bảo hiểm xã hội và tiết
kiệm; Bảo hiểm tai nạn công nghiệp, y tế, người già, thất nghiệp. Đó là hệ
thống có sự tham gia đóng góp của các bên tạo nguồn dự trữ để sử dụng cho
các trường hợp tuổi già, ốm đau, thai sản, chết, tàn tật, thương tật, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp; Trợ giúp xã hội và những dịch vụ xã hội (trợ cấp). Đó là
loại phúc lợi xã hội trích từ thuế và các nhà tài trợ và chính sách thị trường lao
động (bao gồm cả thị trường lao động tích cực và thụ động); tạo cơ hội việc
làm, hình thành nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, tìm kiếm
việc làm (thơng tin, giới thiệu việc làm; đào tạo lại; hỗ trợ việc làm).
Qua các khái niệm trên, có thể thấy an sinh xã hội có đối tượng áp dụng
rộng lớn, bao gồm toàn bộ thành viên xã hội. Không nên xem an sinh xã hội
đơn thuần chỉ là giá trị về tiền bạc, mà phải xem đó là sự đầu tư cho con
người, lấy con người làm trọng tâm, nhằm mục tiêu nâng cao sức lao động,
hướng tới một nền sản xuất hiệu quả. Nói một cách cụ thể hơn, nội dung của
an sinh xã hội chính là sự bảo vệ của xã hội được thực hiện thông qua một
loạt các biện pháp công cộng tiến hành bởi Nhà nước, tổ chức, cá nhân. dưới
hình thức tương trợ bằng tiền, hiện vật, phương tiện... nhằm mục đích chống
lại những túng quẫn về kinh tế, những khó khăn về mặt xã hội của người dân
khi gặp phải những biến cố, rủi ro góp phần đảm bảo cuộc sống con người và
cao hơn thế là đảm bảo an toàn chung cho toàn xã hội.
11


Ở Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về an sinh xã hội.
Do được dịch từ nhiều thứ tiếng khác nhau nên có nhiều cách gọi khác nhau
cho nội dung này như: “An ninh xã hội”, “An toàn xã hội”, “Bảo trợ xã hội”.
Tuy nhiên, đến nay, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất sử dụng cụm từ
“an sinh xã hội” xuất phát từ cụm từ “Social security” mà ILO ghi nhận. Về
nội hàm của “an sinh xã hội”, trong một cơng trình nghiên cứu của mình,
PGS.TS Đỗ Minh Cương cho rằng an sinh xã hội “…là sự bảo vệ của xã hội

đối với những thành viên của mình, trước hết là trong những trường hợp túng
thiếu về kinh tế và xã hội, bị mất hoặc giảm sút thu nhập đáng kể do gặp
những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất
việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ do thai sản, về già, trong các trường
hợp thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn. Đồng thời xã hội cũng ưu đãi
những thành viên của mình đã xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến
đặc biệt cho cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác cũng cứu vớt
những thành viên lầm lỗi mắc vào tệ nạn xã hội nhằm phối hợp chặt chẽ với
các chính sách xã hội khác đạt tới mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội văn
minh”[25, tr18] . Tiếp cận dưới góc độ rộng hơn, GS.Tương Lai cho rằng
“An sinh xã hội là một lĩnh vực rộng lớn, không chỉ bao hàm sự bảo vệ của xã
hội đối với mọi người khi gặp phải thiếu thốn về kinh tế mà cịn đảm bảo về
mơi trường thuận lợi để giúp mọi người phát triển về giáo dục, văn hóa nhằm
nâng cao trình độ dân trí, học vấn.”[26]. Có thể thấy, các khái niệm này đều
xác định được những nội dung cơ bản của an sinh xã hội song do được tiếp
cận từ những góc độc khác nhau nên chỉ phù hợp với những giới hạn nhất
định. Ở đây, chúng tôi đồng tình với quan điểm của PGS.TS Lê Thị Hồi Thu
trong bài viết “Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội”, theo đó: “an sinh xã
hội là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng đối với những người
“yếu thế” trong xã hội bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ cho các
đối tượng khi họ bị suy giảm khả năng lao động, giảm sút thu nhập hoặc là bị
12


rủi ro, bất hạnh, hoặc là trong tình trạng nghèo đói, hoặc là ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động, già
yếu...động viên, khuyến khích tự lực vươn lên giải quyết vấn đề của chính
họ.”
Nói cách khác, mục đích sâu xa của an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu
nhập và đời sống cho công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là

thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành
viên, thể hiện ý nghĩa xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Nhìn từ góc độ này thì
“quyền an sinh xã hội” chính là một bộ phận của quyền con người và điều này
được các quốc gia trên thế giới thừa nhận.
Trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua ngày 10/12/1948, nội dung của quyền an sinh xã hội được khẳng
định:“Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng
an sinh xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã
hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày
25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được
gọi là Công ước về an sinh xã hội (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các
chế độ về an sinh xã hội đã có trên tồn thế giới thành chín bộ phận: Chăm
sóc y tế, Trợ cấp ốm đau, Trợ cấp thất nghiệp, Trợ cấp tuổi già (hưu bổng),
Trợ cấp tai nạn lao động/bệnh nghề nghiệp, Trợ cấp thai sản,Trợ cấp tàn tật,
Trợ cấp tiền tuất, Trợ cấp gia đình. Theo cơng ước này, Nhà nước chịu trách
nhiệm chính về bộ máy quản lý, bảo đảm an toàn và kiểm soát hoạt động của
quỹ an sinh xã hội, tạo điều kiện cho đại diện của những người được bảo vệ,
người sử dụng lao động và Chính phủ cùng tham gia. Tháng 11/1966, Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội văn hóa (ICESCR) ra đời, ghi nhận
quyền an sinh xã hội như sau: “Các quốc gia thành viên Công ước này công
nhận quyền được hưởng an sinh xã hội của tất cả mọi người, bao gồm cả bảo
hiểm xã hội”[Điều 9]. Tuy cách thức diễn đạt, ghi nhận ở các văn bản này có
13


khác nhau, song tất cả đều có sự gặp gỡ và thống nhất, theo đó quyền an sinh
xã hội là quyền của con người được bảo đảm an toàn để sinh sống trong đời
sống chung của cộng đồng xã hội”[22, tr17].
Là một bộ phận của quyền con người, nên quyền an sinh xã hội cũng
mang đầy đủ những thuộc tính cơ bản của quyền con người, đó là: tính phổ

biến, tính khơng thể chuyển nhượng, tính khơng thể phân chia, tính liên hệ và
phụ thuộc lẫn nhau [22, tr19].
Ngày nay, an sinh xã hội ngày càng chứng minh được vai trị quan
trọng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới.
Không một quốc gia nào có thể bác bỏ được chân lý “Quyền được hưởng an
sinh xã hội là một trong những quyền cơ bản của con người”. Việc thực hiện
an sinh xã hội không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, và
nó được thể hiện rõ nhất qua các hoạt động cứu trợ xã hội, các hiệp định hợp
tác về bảo hiểm xã hội giữa các quốc gia vì một thế giới hịa bình, ổn định và
phát triển.
1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản
1.1.2.1. Dịch vụ xã hội
Trước hết, theo nghĩa rộng, “dịch vụ xã hội” là một khái niệm “kép”, được
gắn kết hữu cơ bởi hai khái niệm “dịch vụ” và “xã hội”, bao gồm những dịch
vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai
trị đảm bảo phúc lợi và cơng bằng xã hội, đề cao giá trị chân lý, nhân văn, vì
con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị
trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính chất thuần cơng, khơng
thuần cơng hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục
– đào tạo, y tế, khoa học – cơng nghệ, văn hóa – thông tin, thể dục - thể thao
và các trợ giúp xã hội khác. [7, Tr20-21]

14


Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu của luận văn, chúng tôi không
nghiên cứu về dịch vụ xã hội theo nghĩa rộng như trên mà xem xét nó trong
mối liên hệ với chức năng bảo đảm an sinh và phát triển xã hội của ngành Lao
động thương binh và xã hội. Cụ thể, dịch vụ xã hội là những hình thức cụ thể

hố của các chính sách xã hội. Cần phải hiểu khái niệm dịch vụ xã hội như là
những phương thức nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, đặc biệt là các nhóm đối
tượng yếu thế mà nhà nước và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ (NGO)
thực hiện và cung cấp. Dịch vụ xã hội cung cấp và hỗ trợ thông qua các dịch
vụ đặc thù giúp các cơng dân trong xã hội có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp
hơn bằng sự độc lập về kinh tế, sự khẳng định quyền con người được hòa
nhập và tham gia vào thị trường lao động cũng như các hoạt động cộng đồng,
xã hội [30]. Qua các tài liệu nghiên cứu của ILO [3] thì dịch vụ xã hội ở đây
bao gồm dịch vụ y tế, dự phòng y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ đặc biệt đối
với người tàn tật, người già yếu bảo vệ trẻ em, kế hoạch gia đình... Việc đưa
những loại dịch vụ này vào hệ thống An sinh xã hội là tuỳ thuộc theo lịch sử
phát triển An sinh xã hội, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi nước và
theo thứ tự ưu tiên trong cơ cấu và phạm vi của các dịch vụ.
1.1.2.2. Dịch vụ xã hội cơ bản.
Trong bài viết “A Theory of Human Motivation” [27], nhà tâm lý học
Abraham Maslow đã đưa ra nhận định: về căn bản, nhu cầu của con người
được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc
cao (meta needs). Theo đó, có thể chia nhu cầu thành 5 tầng: Tầng thứ nhất:
Nhu cầu vật chất (sinh lý): thức ăn, khơng khí, nước uống, nghỉ ngơi…; Tầng
thứ hai: Nhu cầu an toàn (bảo vệ): nhà ở, việc làm, sức khoẻ…; Tầng thứ ba:
Nhu cầu giao tiếp xã hội: Tình thương u, được hồ nhập; Tầng thứ tư: Nhu
cầu được tơn trọng: Được chấp nhận có một vị trí trong một nhóm
người…;Tầng thứ năm: Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu hồn thiện,
được thể hiện khả năng và tiềm lực của mình.
15


Có thể thấy, nhu cầu cơ bản là những nhu cầu không thể thiếu hụt mà nếu
không được đáp ứng, con người khó có thể tồn tại và phát triển. Căn cứ vào
tháp nhu cầu của Maslow và căn cứ vào sự phát triển chung của xã hội, có thể

kể đến các nhu cầu cơ bản để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của con người, đó
là: thức ăn, khơng khí, nước, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, việc làm và hòa nhập
vào xã hội. Bất cứ một cá nhân nào trong xã hội cũng đều có quyền được đáp
ứng các nhu cầu cơ bản nói trên. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, các hoạt
động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những
nhu cầu tối thiểu của cuộc sống được gọi là dịch vụ xã hội cơ bản [28]
Từ các quan điểm và những cơ sở phân tích ở trên, có thể hiểu dịch vụ xã
hội cơ bản là hệ thống các hoạt động đầu tiên và ở tầng thấp nhất trong hệ
thống an sinh xã hội, đảm bảo những điều kiện cần thiết tối thiểu nhất cho
cuộc sống của người dân.
Như vậy, quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là một bộ phận của
quyền an sinh xã hội, là một nhóm quyền con người được pháp luật quốc tế và
quốc gia ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Khái niệm đảm bảo ở đây được hiểu
là việc tạo mọi điều kiện cần thiết, chắc chắn để đạt được mục tiêu. Do đó,
đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là việc nhà nước tạo mọi
điều kiện cần thiết để chắc chắn rằng người dân có thể hưởng đầy đủ các dịch
vụ xã hội cơ bản. Tùy vào điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc
gia, tùy vào từng giai đoạn nhất định mà mức độ đảm bảo quyền này có thể
khác nhau, nhưng nhìn chung, phạm vi của quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản có thể bao gồm các quyền: 1) Quyền được hưởng giáo dục cơ bản; 2)
Quyền được chăm sóc y tế cơ bản; 3) Quyền có nơi cư trú; 4) Quyền được
cung cấp nước sạch và 5) Quyền được tiếp cận thông tin.
1.2.Nội dung quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản
1.2.1. Quyền đƣợc hƣởng giáo dục cơ bản
16


Trước hết, cần phải hiểu “Nhu cầu học tập cơ bản là những kỹ năng học
tập cần thiết như (biết chữ, biết diễn đạt bằng lời nói, biết đếm số, và giải

quyết vấn đề) và những nội dung học tập cơ bản (như kiến thức, kỹ năng, giá
trị và thái độ) cần thiết của con người để có thể sống, phát triển đầy đủ năng
lực của mình, sống và làm việc có nhân phẩm, tham gia đầy đủ q trình phát
triển, nâng cao chất lượng cuộc sống, đưa ra quyết định và tiếp tục học
tập”(Điều 1, UDHR). Do vậy, quyền được hưởng giáo dục cơ bản là một
quyền con người, đồng thời là điều kiện không thể thiếu để thực hiện những
quyền con người khác. Khơng ai có thể phủ nhận giáo dục là phương tiện
quan trọng nhất mà nhờ đó tất cả mọi người (kể cả trẻ em) có thể tự mình
thốt ra khỏi tình trạng đói nghèo và nắm bắt được những điều kiện cần thiết
để tham gia vào cộng đồng xã hội. Chỉ khi được tiếp cận với giáo dục, con
người mới nhận thức được đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình, biết tự bảo
vệ mình và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.
Tun ngơn thế giới về nhân quyền năm 1948 khẳng định: “Mọi người
đều có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở bậc
tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ
thuật dạy nghề phải đến được với mọi người và giáo dục đại học hay cao hơn
phải theo ngun tắc cơng bằng cho bất cứ ai có khả năng” [Điều 26]. Căn cứ
vào quy định trên có thể thấy, quyền được hưởng giáo dục cơ bản gắn liền với
quyền được phổ cập giáo dục của công dân. Nói cách khác, đó là sự bảo đảm
tất cả mọi cơng dân tối thiểu phải đạt trình độ giáo dục ở một bậc đào tạo nhất
định. Mặc dù giáo dục tiểu học không đồng nghĩa với giáo dục cơ bản, nhưng
có sự gắn kết chặt chẽ giữa hai khái niệm đó. Theo quan điểm của UNICEF,
“Giáo dục tiểu học là hợp phần quan trọng nhất của giáo dục cơ bản” [23,
Tr1], bởi vậy giáo dục tiểu học có hai đặc trưng cơ bản nhất đó là “bắt buộc”
và miễn phí cho tất cả mọi người”. Quy định này sau đó được cụ thể hóa
trong các Điều 13 và Điều 14 của ICESCR, trong đó Điều 13 quy định tồn
17


diện và bao quát nhất về quyền được giáo dục trong luật quốc tế về quyền con

người; còn Điều 14 quy định các kế hoạch hành động về giáo dục tiểu học.
Theo bình luận chung số 13 về Quyền được giáo dục của Ủy ban kinh
tế, xã hội, văn hóa được thông qua tại phiên họp lần thứ 21 năm 1999, việc
đảm bảo quyền được hưởng giáo dục cơ bản có thể được thực hiện ở các mức
độ khác nhau tùy theo điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia, tuy
nhiên, phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Tính sẵn có: Các chương trình và cơ sở giáo dục đang hoạt động phải
đảm bảo đủ về số lượng trong lãnh thổ thuộc quyền tài phán của quốc gia
thành viên. Những yêu cầu cho hoạt động của các chương trình và cơ sở này
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó bao gồm cả mơi trường phát triển mà
các chương trình và cơ sở đó vận hành. Chẳng hạn: đòi hỏi tất cả các cơ sở và
chương trình phải có cơ sở vật chất hoặc những bảo đảm khác liên quan đến
các vấn đề như cơ sở vệ sinh cho cả hai giới, nước sạch, giáo viên đã qua đào
tạo được nhận mức lương cạnh tranh ở trong nước, tài liệu giảng dạy…; đồng
thời, một vài chương trình và cơ sở cịn địi hỏi những trang thiết bị như thư
viện, máy tính và cơng nghệ thơng tin.
Tính có thể tiếp cận: Trong phạm vi thẩm quyền tài phán của Quốc gia
thành viên, các cơ sở và chương trình giáo dục phải mở cho sự tiếp cận của tất
cả mọi người mà khơng có phân biệt đối xử nào. Khả năng tiếp cận thể hiện ở
ba khía cạnh sau: i) Không phân biệt đối xử - xét cả về mặt pháp lý và thực
tiễn, giáo dục phải mở cửa cho tất cả mọi người có thể tiếp cận, đặc biệt là
những nhóm dễ bị tổn thương nhất mà khơng có sự phân biệt đối xử căn cứ
vào bất cứ yếu tố nào đã bị cấm; ii) Có thể tiếp cận trên thực tế - giáo dục
phải bảo đảm để mọi người có thể tiếp cận trên thực tế và an tồn, thơng qua
việc học tập trực tiếp ở những cơ sở có vị trí địa lý thuận lợi hợp lý (ví dụ:
một mơi trường ở khu vực lân cận) hoặc thông qua việc học tập gián tiếp
thông qua công nghệ hiện đại; iii) Phù hợp về kinh tế - giáo dục phải có thể
18



chấp nhận được với mọi người về mặt chi phí. Giáo dục tiểu học là miễn phí
cho tất cả mọi người, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải dần dần áp
dụng giáo dục miễn phí ở cấp trung học và cấp học cao hơn
Tính có thể chấp nhận được: Hình thức và nội dung giáo dục bao gồm
cả giáo trình và phương pháp giảng dạy, phải có thể chấp nhận được (ví dụ:
phải có tính liên quan, phù hợp về văn hóa và có chất lượng tốt) đối với sinh
viên và trong những trường hợp cần thiết cả đối với các bậc cha mẹ.
Tính thích ứng: Giáo dục phải linh hoạt để thích ứng với những nhu cầu
liên tục thay đổi của xã hội và cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của sinh viên
trong những môi trường xã hội và văn hóa đa dạng [9, Tr93-94].
1.2.2. Quyền chăm sóc sức khỏe cơ bản
Trong cuộc sống con người, sức khỏe là "yếu tố thứ nhất" giữ vai trò
đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định đối với sự phát triển của mỗi con
người và xã hội. Nói đến sức khỏe của con người là nói đến sự thống nhất, hài
hòa giữa sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Điều này đã được thể hiện
rõ trong định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ghi nhận
trong Tuyên ngôn Alma Ata năm 1978: “Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn
thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội”. Theo đó, khơng có một hoạt
động nào của con người mà không cần đến sức khỏe. Khi có sức khỏe, con
người mới có thể thực hiện được những hoạt động cá nhân và hoạt động xã
hội có hiệu quả. Đó là cơ sở để mỗi con người khẳng định mình trong xã hội,
đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của đất nước.
Hiến chương của WHO năm 1946 là công cụ quốc tế đầu tiên bảo vệ
sức khỏe, coi đó là “quyền cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc,
tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội”. Hiến chương đó
được xem là đã thúc đẩy điều khoản về sức khỏe trong Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền. Quyền được chăm sóc sức khỏe được ghi nhận là một phần của
quyền được có mức sống thích đáng, quy định tại Điều 25, theo đó, “Mọi
19



×