Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại và việc hoàn trả tài sản khi hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên cho tơi gửi lịng biết ơn đến tất cả Quý thầy cô Trường Đại Học Cơng
Nghệ TP.Hồ Chí Minh, các Q thầy cơ Khoa Luật đã trang bị cho tôi những kiến thức
vô cùng quý báu và quan trọng trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Qua bài viết này, với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Thầy Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Minh Nhựt giảng viên Khoa Luật đã
trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện Khóa luận tốt nghiệp. Trong thời
gian thực hiện khóa luận, tơi được trao dồi những kiến thức, thông tin thực tế và rút ra
được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Thời gian thực Khóa luận tuy ngắn nhưng vơ cùng q
báu, được sự dìu dắt của Thầy đã giúp đỡ cho tơi hồn thành bài khóa luận này.
Khóa luận tốt nghiệp được hồn thành trong thời gian hạn chế đồng thời khả năng
có giới hạn của người viết, chắc chắn sẽ có những khiếm khuyết, tơi rất mong nhận được
sự đánh giá, góp ý của Thầy Luật sư - Thạc sĩ. Nguyễn Minh Nhựt để khóa luận được
hồn thiện hơn.
Cuối cùng, tơi xin kính chúc Quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và luôn thành cơng
trong sự nghiệp giảng dạy của mình
Tơi xin chân thành cảm ơn !

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: LÊ ĐỖ NAM PHƯƠNG

MSSV: 1411270330

Là sinh viên lớp 14DLK05, Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí
Minh
Tơi xin cam đoan các số liệu, thơng tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt nghiệp
này được chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các trích dẫn trong


ví dụ đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng
qui định) ;
Nội dung trong báo cáo này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ q trình
nghiên cứu và thực tế. KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót, tơi hồn tồn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà Trường và Pháp
luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

LÊ ĐỖ NAM PHƯƠNG

ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

LTM

Luật Thương mại

BL

Bút lục

iii



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài. ................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................ 1
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 2
5. Kết cấu của khóa luận ........................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI VÀ VIỆC HOÀN TRẢ TÀI SẢN KHI HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI ............................................................... 4
1.1. Hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại............................................. 4
1.1.1. Khái quát về hợp đồng kinh doanh thương mại ............................................. 4
1.1.2. Khái quát hợp đồng kinh doanh thương mại vơ hiệu..................................... 6
1.1.3. Khái qt việc hồn trả tài sản theo pháp luật Việt Nam............................... 7
1.2. Quy định pháp luật việt nam về Điều kiện có hiệu lực và các trường hợp vô
hiệu của hợp đồng kinh doanh thương mại vơ hiệu.............................................. 12
1.2.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật
Việt Nam ................................................................................................................. 12
1.2.2. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng kinh doanh thương mại .................. 13
Kết luận chương 1 ........................................................................................................ 38
CHƯƠNG 2: THẨM QUYỀN TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VỀ VIỆC HỒN
TRẢ TÀI SẢN DO HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU TRONG KINH DOANH THƯƠNG
MẠI
............................................................................................................. 39
2.1. Căn cứ pháp lý, chủ thể có quyền tuyên bố hợp đồng kinh doanh thương mại
vô hiệu và chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng kinh doanh thương mại
vô hiệu........................................................................................................................ 39


iv


2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về trình tự, thủ tục việc tuyên bố hợp đồng
kinh doanh thương mại vô hiệu .............................................................................. 44
2.3. Trách nhiệm pháp lý các bên khi hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu
............................................................................................................................. 48
2.3.1. Các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu (như khi chưa có hợp đồng); hồn
trả cho nhau những gì đã nhận, nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá
thành tiền để hồn trả ............................................................................................ 48
2.3.2. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa lợi,
lợi tức đó ................................................................................................................ 49
2.3.3. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường ...................................................... 50
2.3.4. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không đúng thẩm quyền ký kết .... 55
Kết luận chương 2 .................................................................................................... 59
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VIỆC HOÀN TRẢ TÀI SẢN KHI HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ
THỂ
............................................................................................................. 60
3.1. Thực tiễn việc hồn trả tài sản khi hợp đồng vơ hiệu trong kinh doanh
thương mại ................................................................................................................ 60
3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định của BLDS 2015 và các văn
bản có liên quan về hợp đồng vơ hiệu trong kinh doanh thương mại................. 66
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ................................................. 66
Kết Luận .................................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 69

v



LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Khi Việt Nam là thành viên của tổ chức kinh tế thế giới (WTO) và là thành viên
không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, nền kinh tế nước nhà cần phải
vững mạnh, hệ thống pháp luật liên quan phải chặt chẽ để các nhà đầu tư trong và ngoài
nước yên tâm, thu hút đầu tư. Hơn hết, các cá nhân, tổ chức, pháp nhân hoạt động thương
mại cần thiết phải bản lĩnh, thông minh và không chỉ dừng lại ở biết luật mà còn hiểu
đúng, hiểu sâu và nắm bắt kịp thời, chính xác các quy định pháp luật hiện hành để hạn
chế rủi ro cho chính bản thân.
Cơng cụ để xác lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động thương mại là hợp
đồng. Do đó, hợp đồng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật để có hiệu lực ràng
buộc các bên ký kết, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của những chủ thể kinh doanh
chân chính.
Bất cứ một vấn đề nào, khi nắm được những kiến thức cơ bản cũng mang lại những
lợi ích nhất định. Khi có những tranh chấp, rủi ro bất ngờ có liên quan đến hợp đồng và
hợp đồng thương mại bị tun bố vơ hiệu sẽ khó tránh khỏi tổn thất.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về hợp
đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại và việc hồn trả tài sản khi hợp đồng vơ
hiệu trong kinh doanh thương mại” làm khóa luận tốt nghiệp, mong muốn đem lại cái
nhìn trực quan hơn về việc hồn trả tài sản khi hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu,
đồng thời chỉ ra một số hạn chế và đề xuất nhằm hoàn thiện hơn việc giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến vấn đề tài sản khi hợp đồng vơ hiệu.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các vấn đề của hợp đồng như:
đề tài luận án tiến sĩ: “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”,
tác giả Lê Minh Hùng (2010); luận văn thạc sĩ “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp
đồng kinh tế vô hiệu” của tác giả Phan Xuân Tuy (2001); luận văn thạc sĩ “Giao dịch
dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của tác giả
Phạm Ngọc Minh (2006); tóm tắt luận văn thạc sĩ “Hợp đồng mua bán hàng hóa trong
kinh doanh thương mại vơ hiệu theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Ngọc

Thương (2016);
Ngồi ra cịn có các bài báo trên các tạp chí khoa học, hội nghị như “Bàn về hợp
đồng vô hiệu do được giao kết bởi người mất năng lực hành vi dân sự qua một vụ án”
của Phó giáo sư – Tiến sỹ Đỗ Văn Đại; “Xử lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương
1


mại” của Phạm Nguyên Linh - Tạp chí luật học số 11/2008; “Bình luận một số điểm mới
trong phần Quy định chung của BLDS năm 2015” của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Nhung
- Tạp chí Kiểm sát số 14/2017;…
Những cơng trình khoa học trên là tài liệu vơ cùng q giá, và là một trong những
căn cứ giúp tác giả có thêm nhiều thơng tin quan trọng để phục vụ cho việc nghiên cứu
luận văn của mình. Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đi vào vấn đề chung, không nghiên
cứu cụ thế và toàn diện về vấn đề hoàn trả tài sản khi hợp đồng kinh doanh thương mại
vô hiệu theo quy định của pháp luật nước ta.
Đề tài này sẽ có thể giúp hiểu rõ hơn về những biện pháp, chế tài được áp dụng khi
xảy ra vấn đề thực hiện không đúng hợp đồng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quy định của Bộ luật Dân sự và Luật
Thương mại 2005 về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại và việc hoàn trả tài
sản khi hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại. Về phạm vi nghiên cứu, đề tài
nghiên cứu cơ sở lý luận quy định pháp luật về hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu
trong BLDS 2005, BLDS 2015, LTM 2005 và các văn bản liên quan khác. Đề tài nghiên
cứu giữa các chủ thể trong nước, khơng có yếu tố nước ngoài và nghiên cứu trong phạm
vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với những yêu cầu đặt ra từ đề tài này, khóa luận tốt nghiệp sử dụng phổ biến các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích,so sánh làm phương pháp nghiên cứu chính
5. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của khóa

luận gồm có bốn chương:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài báo cáo
thực tập tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại và việc
hồn trà tài sản khi hợp đồng vơ hiệu trong kinh doanh thương mại
Chương 2. Thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại và
trách nhiệm pháp lý về việc hoàn trả tài sản do hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh
thương mại
Chương 3. Thực tiễn việc hoàn trả tài sản khi hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh
thương mại và một số kiến nghị cụ thể
2


3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI VÀ VIỆC HOÀN TRẢ TÀI SẢN KHI HỢP ĐỒNG
VÔ HIỆU TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Hợp đồng vô hiệu trong kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái quát về hợp đồng kinh doanh thương mại
Khái niệm hợp đồng kinh doanh thương mại
Từ xa xưa đến nay, nhìn nhận một cách khách quan, con người chúng ta tồn tại
nhờ vào rất nhiều yếu tố như môi trường, Điều kiện tự nhiên, sự tiến hóa về não bộ,…
nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận một Điều kiện chủ quan khác rằng, chúng ta
tồn tại là nhờ có sự tương tác, tham gia vào các mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Xuất phát
từ những nhu cầu thiết yếu và sự phát triển của xã hội, các cá nhân, tổ chức tham gia vào
các hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ, khái niệm “giao dịch” xuất hiện trong đời sống
xã hội. Để thỏa mãn quy luật phát triển không ngừng của cuộc sống, con người nhận ra
cần phải quan tâm và thúc đẩy sự phát triển của các “giao dịch” này, từ đó xuất hiện,

hình thành nên khái niệm “hợp đồng”. Nói cách khác, “hợp đồng” là một trong những
chế định ra đời sớm nhất trong hệ thống pháp luật, gắn bó với con người từ thuở sơ khai
và là cách hiểu tiến bộ của khái niệm “giao dịch”.
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy vậy,
trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ
“hợp đồng” đang được sử dụng ở nhiều quốc gia hiện nay là việc không mấy dễ dàng.
Nhiều quốc gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) hình thành từ động từ
“contrahere” trong tiếng La- tinh, có nghĩa là “ràng buộc” , và xuất hiện lần đầu ở La Mã
vào khoảng thế kỷ V-IV trước công nguyên.
“Hợp đồng là một cam kết giữa hai hay nhiều bên (pháp nhân) để làm hoặc khơng làm
một việc nào đó trong khn khổ pháp luật. Hợp đồng thường gắn liền với dự án, trong
đó một bên thỏa thuận với các bên khác thực hiện dự án hay một phần dự án cho mình.
Và cũng giống như dự án, có dự án chính trị xã hội và dự án sản xuất kinh doanh, hợp
đồng có thể là các thỏa ước dân sự về kinh tế (hợp đồng kinh tế) hay xã hội”.1
Từ đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm “hợp đồng” một cách chung nhất như sau:
hợp đồng là một hay nhiều thỏa thuận của hai hay nhiều bên tham gia giao dịch, khi đó,

1

[Từ điển tiếng Việt] />
4


các bên tham gia giao dịch sẽ tự động phát sinh các quyền và nghĩa vụ ràng buộc với
nhau bằng những thỏa thuận trước đó.
Bằng cái nhìn khách quan, ta nhận thấy hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại (gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ và hội chợ triển lãm thương mại) và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

Qua đó, ta có thể hiểu kinh doanh thương mại là sự đầu tư tiền của, công sức của
một cá nhân hay một tổ chức vào việc mua bán hàng hố đó nhằm mục đích kiếm lợi
nhuận. Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong khâu lưu
thơng hàng hố. Là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, kinh doanh thương mại đóng vai
trị quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Triết học Marx – Lenin cho rằng, có hai cơng thức tiêu biểu cho sự lưu thơng
hàng hóa trong kinh doanh thương mại là “hàng - tiền - hàng” và “tiền - hàng - tiền”.
Pháp luật thương mại Việt Nam không quy định cụ thể như thế nào là một hợp
đồng kinh doanh thương mại.
Dựa vào các yếu tố đã phân tích, ta có thể hiểu hợp đồng kinh doanh thương mại
là: sự thỏa thuận để thực hiện các hoạt động thương mại giữa hai hay nhiều chủ thể tham
gia. Chủ thể tham gia có thể là cá nhân, tổ chức với nhau, nhưng ít nhất phải có một bên
là thương nhân. Qua đó, các bên tham gia xác lập quyền và nghĩa vụ ràng buộc với nhau,
thực hiện các công việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi.
Hiện nay, ta có một số loại hợp đồng điển hình trong hoạt động thương mại: hợp
đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại ( hợp đồng đại lý, hợp
đồng gia công, …) Và trong thực tế cịn có rất nhiều loại hợp đồng cung ứng dịch vụ
thương mại khác trong các hoạt động tư vấn, vận tải, tài chính, bưu chính viễn thơng, du
lịch, giáo dục, giải trí….
Đặc điểm hợp đồng kinh doanh thương mại
Hợp đồng kinh doanh thương mại có những đặc điểm của các hợp đồng trong
hoạt động kinh doanh nói chung và có những đặc điểm riêng của các hoạt động thương
mại:
Chủ thể của hợp đồng: thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Thương nhân
là tổ chức kinh tế, cá nhân có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại
một cách thường xuyên, độc lập. Trong trường hợp thương nhân là người nước ngồi sẽ
được đặt Văn phịng đại diện, Chi nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định.
5



Ngồi ra, các tổ chức, cá nhân khơng phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể
của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo khoản 3 Điều 1 LTM 2005, hoạt động của bên
chủ thể không phải là thương nhân và khơng nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ
mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương
mại
Hình thức của hợp đồng: có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể. Thông điệp dữ liệu cũng được coi là hình thức văn bản .
Mục đích của hợp đồng: nhằm sinh lợi. Sinh lợi được hiểu là tìm lợi nhuận (khơng
nhất thiết phải có lợi nhuận). Mục đích lợi nhuận ln được thể hiện hàng đầu trong các
hợp đồng thương mại.
Nội dung của hợp đồng: xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ
cụ thể khi tiến hành hoạt động thương mại. Khái niệm hoạt động thương mại theo LTM
2005 đều có sự mở rộng của hầu hết các lĩnh vực kinh doanh.
-

Đối tượng của hợp đồng

Hợp đồng kinh doanh thương mại có đối tượng là hàng hóa được phép giao dịch. “Theo
nghĩa thơng thường có thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo
ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người”.2 Bên cạnh đó, theo LTM 2005
hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc
hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép
lưu thông thương mại.
1.1.2.

Khái quát hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu
Khái niệm hợp đồng kinh doanh thương mại vơ hiệu

Vơ hiệu là “Khơng có hiệu lực, khơng mang lại kết quả; trái với hữu hiệu” 3. Theo

cách hiểu này, hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng khơng có giá trị (hiệu lực) về mặt
pháp lý, khơng được pháp luật cơng nhận. Do đó, nó khơng làm phát sinh hậu quả pháp
lý mà các bên mong muốn.
“Vô hiệu là không thể phát sinh ra một hiệu lực nào. Nếu trong sự kết lập mà các Điều
kiện hình thức cũng như về nội dung khơng được tơn trọng, khế ước đó phải được coi
như khơng được kết lập và vì vậy khơng thể phát sinh một hiệu lực nào cả”4.

Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Giáo trình Luật Thương Mại, tập 2, Nxb Công an nhân dân
Theo tudien.com, />4
Trần Trúc Linh, Danh từ pháp luật lược giả, NXB Khai Trí, trang 750
2
3

6


Mặc dù hệ thống pháp luật Điều chỉnh về lĩnh vực kinh doanh thương mại ngày
càng được hoàn chỉnh nhưng cho đến nay, LTM vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề
hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu. Với một khái niệm mà luật chuyên ngành
không quy định cụ thể như trên, ta sử dụng phương pháp: luật chun ngành khơng quy
định thì sử dụng luật nền tảng làm quy định. Do đó, khái niệm về hợp đồng kinh doanh
thương mại vô hiệu sẽ dùng quy định của hợp đồng dân sự vô hiệu theo khoản 1 Điều
407 BLDS 2015.
Đặc điểm hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu
Một là, hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu phải là những hợp đồng vi phạm
một trong các Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Hai là, hợp đồng kinh doanh thương mại vi phạm Điều kiện có hiệu lực có thể bị
tun bố vơ hiệu hoặc khơng bị tuyên bố vô hiệu.
Ba là, hợp đồng kinh doanh thương mại bị tuyên bố vô hiệu không làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

1.1.3.

Khái quát việc hoàn trả tài sản theo pháp luật Việt Nam
Khái niệm và đặc điểm của việc hoàn trả tài sản theo pháp luật dân sự Việt
Nam

Hoàn trả tài sản là “việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử
dụng, quản lý tài sản”. 5 Như đã phân tích hệ quả của vấn đề vơ hiệu:
- Đối với phần vơ hiệu khơng có giá trị, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
giao dịch sẽ không cịn hiệu lực.
- Đối với phần hợp đồng vơ hiệu nhưng đã thực hiện, các bên trao trả lại cho nhau
những gì đã nhận. Hay nói cách khác là khơi phục lại tất cả mọi việc như ban đầu.
“Trường hợp tài sản hồn trả là vật đặc định thì phải hồn trả đúng vật đó; nếu
vật đặc định đó bị mất hoặc hư hỏng thì phải đền bù bằng tiền, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Trường hợp tài sản hoàn trả là vật cùng loại, nhưng bị mất hoặc
hư hỏng thì phải trả vật cùng loại hoặc đền bù bằng tiền, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác”.6
Tài sản ở đây được hiểu theo tinh thần của Điều 105 BLDS 2015:
- Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
5

Theo Ngân hàng pháp luật, />6
Khoản 2, khoản 3 Điều 580 BLDS 2015

7


- Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Ta có thể hiểu tài sản là một bộ phận cả thế giới vật chất, hoặc có thể là kết quả của hoạt

động sáng tạo và các quyền tài sản khác.
+ Vật
Vật theo nghĩa rộng có thể là: thực vật, động vật, vật tồn tại ở dạng rắn, lỏng, khí,…
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan, đáp ứng được những nhu
cầu vật chất hoặc tinh thần của con người. Vật được coi là tài sản và được phép tham gia
vào giao dịch dân sự phải đáp ứng những yêu cầu như: vật đó phải là bộ phận của thế
giới vật chất; vật đó phải đáp ứng nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người; vật
đó phải chiếm giữ được; vật đó có thể dùng trong quan hệ dân sự, có giá trị trao đổi,
thanh tốn,…
Ngồi ra, khi xem xét tài sản là vật cần xác định quan hệ cụ thể mà vật đó tham gia
vào. Ví dụ như tờ séc, giấy chứng nhận cổ phiếu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,…
đều là những vật hữu hình, đều là tài sản. Nhưng những tờ giấy séc, giấy chứng nhận cổ
phiếu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… không được xem dưới góc độ tài sản là vật,
mà chủ yếu xem xét chúng ở nội dung ghi nhận quyền tài sản trong từng loại giấy tờ này.
+ Giấy tờ có giá
Quay lại vấn đề với các loại giấy tờ như séc, giấy chứng nhận cổ phiếu, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất,… được gọi chung là giấy tờ có giá. BLDS 2015 khơng định
nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo khoản
8 Điều 6 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; khoản 1 Điều 3 Thông tư
04/2016/TT-NHNN về quỹ tín dụng nhân dân và khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TTNHNN quy định về chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
ban hành, quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
Điều kiện trả lãi và các Điều kiện khác".
Giấy tờ có giá gồm “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu,
tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của

8



pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.7 Căn cứ vào các quy định
pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá được liệt kê gồm:
-

-

-

-

Hối phiếu địi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, cơng cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 Luật các cơng cụ chuyển nhượng năm 2005;
Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại
điểm c, khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
Các loại chứng khoán (Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
nhóm chứng khốn hoặc chỉ số chứng khốn; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các
loại chứng khốn khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại Điều 3
Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật chứng khoán năm 2010;
Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Qua đó ta có thể nói, giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển
giao được trong giao lưu dân sự. Qua việc liệt kê như trên, giấy tờ có giá chia
làm hai loại:
Giấy tờ có giá ngắn hạn có thời hạn dưới một năm gồm các loại giấy tờ như
kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn
khác;
Giấy tờ có giá dài hạn có thời hạn từ một năm trở lên như trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi dài hạn và giấy tờ có giá dài hạn khác.


Các hình thức phát hành giấy tờ có giá như: ghi sổ/ ghi danh hoặc vô danh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, giấy tờ có giá được coi là tài sản phải thỏa
mãn những Điều kiện sau:
-

Phải được lập theo hình thức, trình tự nhất định;
Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá thể hiện giá trị quyền tài sản, quyền tài sản
và được pháp luật bảo vệ;
Có tính thanh khoản;
Là cơng cụ chuyển nhượng với Điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần;
Được phát hành hợp pháp.

+ Tiền

Theo khoản 9 Điều 1 nghị định 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số Điều nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm
7

9


Nhắc đến tài sản, ta không thể không nhắc đến tiền. Xưa kia, khi xã hội lồi người
cịn chưa biết đến tiền tệ thì các quan hệ giao lưu hàng hố được thực hiện thơng qua
phương thức trao đổi, vật đổi lấy vật. Xã hội càng ngày càng phát triển thì việc trao đổi
đó ngày càng khó thực hiện hơn và không đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngày càng
tăng của xã hội. Thực trạng khó khăn đó làm phát sinh địi hỏi phải tìm ra được một cơng
cụ trao đổi đa năng, hữu hiệu giúp cho việc giao dịch được thực hiện dễ dàng hơn. Công
cụ trao đổi đa năng đó phải đáp ứng được ba Điều kiện là: phải có giá trị, mang lại lợi
ích nào đó cho con người, phải mang tính thơng dụng và cuối cùng là dễ dàng tích trữ.
Qua các tài liệu thời Nhà nước La Mã để lại cho chúng ta thấy được rằng dưới thời tiền

khởi của xã hội La Mã cổ đại thì cơng cụ trao đổi đa năng được dùng là các gia súc, gia
cầm phổ biến nuôi trong nhà. Qua một thời gian dài dùng gia súc, gia cầm làm vật trao
đổi đa năng, người ta đã dần nhận ra một số những nhược điểm nhất định của thứ công
cụ trao đổi này. Dần dần công cụ gia súc, gia cầm đó được thay thế bằng một cơng cụ
khác tiện dụng hơn – đó là kim loại. Để đảm bảo tính chính xác và thuận tiện hơn cho
các chủ thể khi thực hiện các giao dịch, Nhà nước bắt đầu phải can thiệp vào bằng việc
đúc sẵn những thỏi kim loại giống nhau, có dấu hiệu riêng của Nhà nước và chất lượng
được nhà nước bảo đảm – đó là hình thức đầu tiên của tiền. Tiền bắt đầu được chính thức
ra đời từ đây. Nói cách khác, các công cụ trao đổi đa năng chỉ được coi là “tiền” từ khi
có sự can thiệp của Nhà nước lên chúng.
Tiền được nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học khác nhau như: kinh tế - chính trị,
tài chính – ngân hàng, triết học,… Theo kinh tế học thì tiền tệ là tiền khi xét tới chức
năng là phương tiện thanh toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để trao đổi hàng
hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế. Theo quan điểm triết học Marx – Lenin,
tiền là hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung
thống nhất cho các hàng hóa khác.
Xét về bản chất, tiền cũng là vật nhưng điểm đặc biệt của nó là vật ngang giá chung
được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản. Trước đây, khi BLDS năm 1995
ban hành, tiền được quy định chỉ là Việt Nam đồng nhưng đến BLDS năm 2005, tiền
được hiểu là Việt Nam đồng và ngoại tệ. Quy định này tạo được sự phù hợp hơn ở góc
độ thực tiễn và pháp luật chuyên ngành đã ban hành trước và sau đó. Pháp luật Việt Nam
coi tiền là một loại tài sản độc lập trong bốn loại tài sản được liệt kê tại Điều 105 BLDS
năm 2015. Tuy vậy, trải qua các thời kỳ kinh tế, mỗi quốc gia phát hành những loại tiền
khác nhau nhằm đảm bảo chính sách về kinh tế, chính trị… Theo cách nói của pháp luật
dân sự Việt Nam thì tiền ở đây bao gồm tiền đồng Việt Nam và các ngoại tệ nhưng ngoại
tệ chỉ được dùng trong thanh tốn, lưu thơng trong các trường hợp pháp luật cho phép
chứ không được tự do lưu thông như đồng tiền Việt Nam. Thực tế, những loại tiền đó,
10



tức ngoại tệ vẫn được coi là tiền về cách gọi thơng thường nhưng dưới góc độ pháp lý
nó tồn tại dưới dạng vật. Vì khi tài sản tồn tại dưới dạng tiền sẽ phải thỏa mãn hai thuộc
tính: có giá trị lưu hành và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hành. Tiền được
coi là tài sản khi nó đang có giá trị lưu hành. Sở dĩ, tiền được coi là tài sản thuộc quyền
sở hữu bởi nó là phương tiện dùng để thanh tốn, là đối tượng trong các quan hệ hợp
đồng, bồi thường thiệt hại.
+ Quyền tài sản
Quyền tài sản8 là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền được
hiểu là “khả năng thực hiện ý chí của mình được pháp luật, xã hội hoặc lẽ phải chấp
nhận”.9 Tuy nhiên đây mới chỉ là khái niệm chung, khi tham gia vào các giao dịch dân
sự thì quyền ở đây là quyền dân sự, là cách xử sự được pháp luật cho phép của người có
quyền năng. Dưới góc độ pháp lý về quyền sở hữu trong BLDS 2015, dù không đưa ra
bất kỳ liệt kê nào về các dạng quyền tài sản cụ thể nhưng liên quan đến quyền tài sản
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại mục 3 về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
BLDS 2015 đã chỉ ra quyền tài sản có thể là quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền được nhận số tiền bảo
hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền
tài sản phát sinh từ hợp đồng. Ngoài ra, pháp luật dân sự cũng đã công nhận một số
quyền tài sản khác là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên
nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm.
Lẽ đương nhiên là các bên tham gia giao dịch phải có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, còn đối với người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc bị mất năng lực hành vi thì
phải có người đại diện phù hợp với quy định của pháp luật. Nguyên tắc các bên tham gia
giao dịch trên cơ sở tự nguyện đã tồn tại ở pháp luật của tất cả các nước trên thế giới. Ở
Việt Nam, nguyên tắc trên được ghi nhận ở các văn bản pháp luật như: BLDS, Luật lao
động,… Chế tài trong giao dịch dân sự mang tính bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt.
Pháp luật phần lớn trên thế giới hiện nay đều xây dựng các chế định trong giao dịch dân
sự trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, tự do cam kết và xác định chế tài. Nội dung của giao
dịch không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Trong giao dịch, các bên tham gia

đều nhằm vào một mục đích nhất định và mong muốn đạt được mục đích của mình, do
đó các chủ thể có quyền đặt ra những yêu cầu, cam kết phù hợp với ý chí của mình. Tuy
nhiên các cam kết đó khơng được trái với pháp luật và đạo đức xã hội bởi lẽ pháp luật

8
9

Điều 115 BLDS năm 2015
Theo từ điển Tiếng Việt />
11


được đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Việc hoàn trả tài sản theo quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam có đặc điểm là một vật được chủ sở hữu chuyển giao cho
một người, nhưng có thể người đó khơng vừa ý hoặc có vấn đề trong việc thỏa thuận trao
đổi mà người đó lại hoàn trả lại cho người chủ sở hữu của vật.
Khái niệm và đặc điểm của việc hoàn trả tài sản do hợp đồng kinh doanh
thương mại vô hiệu
Khái niệm việc hoàn trả cũng tương tự như với khái niệm việc hồn trả tài sản
trong hợp đồng dân sự thơng thương. Nhưng điểm khác biệt cần lưu ý ở đây là tài sản
hoàn trả là tài sản như thế nào ? Chúng ta đã biết, đối tượng của một hợp đồng kinh
doanh thương mại là một loại hàng hóa, và hàng hóa đó phải sinh lợi. Theo khoản 2 Điều
3 LTM 2005 hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang
tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động
sản được phép lưu thơng thương mại.
Đặc điểm việc hồn trả tài sản khi hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu cũng
tương tự với đặc điểm của việc hoàn trả tài sản trong hợp đồng dân sự thơng thường.
Bên cạnh đó, chủ thể hoàn trả tài sản trong hợp đồng kinh doanh thương mại này bắt
buộc một trong hai bên phải là thương nhân.
1.2.

1.2.1.

Quy định pháp luật việt nam về Điều kiện có hiệu lực và các trường hợp vơ
hiệu của hợp đồng kinh doanh thương mại vơ hiệu
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật
Việt Nam

Khái niệm hợp đồng dân sự vơ hiệu chính là bản chất của hợp đồng kinh doanh
thương mại vô hiệu. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh doanh thương mại tuân
theo các quy định của BLDS 2015. Một giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các Điều
kiện10 sau đây: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập; chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; mục
đích và nội dung của giao dịch khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội. Bên cạnh đó, hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Theo đó có thể xác định, một hợp đồng kinh doanh thương mại có hiệu lực khi có
đủ các điều kiện sau đây:

10

Điều 117 BLDS 2015

12


Một là, chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập để thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng. Ngoài năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, trong thực tiễn hoạt động
mua bán, chủ thể tham gia hợp đồng chủ yếu là thương nhân. Do đó, khi tham gia hợp
đồng mua bán nhằm mục đích lợi nhuận, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có

đăng ký kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán.
Hai là, mục đích và nội dung của hợp đồng khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
Ba là, sự tự nguyện của các chủ thể, trong giao kết hợp đồng các bên phải hoàn
toàn tự nguyện đó là tự do ý chí nhằm bảo đảm hiệu lực của hợp đồng trên thực tế phù
hợp với ý chí đích thực của các bên. Nếu khác đi thì khơng cịn là hợp đồng.
Bốn là, hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật (nếu pháp
luật có quy định). Hợp đồng kinh doanh thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán
hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy
định đó. Theo đó, đối với những trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được
lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương thì các bên phải tuân
thủ các quy định của pháp luật. Nếu các bên không lập bằng văn bản thì đó có thể được
coi là căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
1.2.2.

Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng kinh doanh thương mại
Phân loại hợp đồng vô hiệu

Phân loại hợp đồng vô hiệu là việc chia hợp đồng dân sự vơ hiệu thành những nhóm
theo những tiêu chí nhất định với những mục đích nhất định, nhằm có cách nhìn tồn
diện về hợp đồng dân sự vơ hiệu theo những khía cạnh, phương diện khác nhau, từ đó
xác định căn cứ cho việc xác định các chế tài, cũng như đưa ra các biện pháp xử lý thích
hợp đối với từng trường hợp vơ hiệu.
 Căn cứ vào tính chất trái pháp luật dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng, hợp đồng vô
hiệu được chia thành vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.
Hợp đồng vơ hiệu tuyệt đối (hay cịn gọi là đương nhiên vơ hiệu): Vơ hiệu khơng phụ
thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Những trường hợp vơ hiệu này
thường do nó xâm hại đến lợi ích cơng cộng. Các dạng thường gặp của hợp đồng vơ hiệu
tuyệt đối là các hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã

hội, hợp đồng giả tạo, vi phạm về hình thức của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có
quy định.
13


Hợp đồng vơ hiệu tương đối (hay cịn gọi là hợp đồng vơ hiệu có điều kiện): Những
hợp đồng này có thể bị vơ hiệu theo ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Khi
họ có sự yêu cầu và được Tòa án căn cứ vào yêu cầu đó để tun bố vơ hiệu. Các yếu tố
đưa đến hợp đồng vô hiệu tương đối như: hợp đồng được giao kết do nhầm lẫn, đe dọa,
lừa dối, do người khơng có năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi xác lập
thực hiện.
Ở Việt Nam, khoa học pháp lý có quan điểm phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt
đối và vô hiệu tương đối. Tuy nhiên trong Điều 132 BLDS 2015, sự phân biệt này rất
mờ nhạt, ngoại trừ quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô
hiệu:
- Những hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối có thời hiệu tun bố vơ hiệu khơng
hạn chế như: Hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội;
Hợp đồng dân sự do giả tạo.
- Các trường hợp vô hiệu tương đối thơng thường có thời hạn được giới hạn là 2
năm kể từ ngày:
+ Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
+ Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm
lẫn, do bị lừa dối;
+ Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
+ Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
+ Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự khơng tn thủ quy
định về hình thức. (hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức có
thời hiệu u cầu tuyên bố vô hiệu là 2 năm, nhưng được xếp vào vô hiệu tuyệt đối).

Hiện nay, trong lý luận cũng như trong thực tiễn chưa có sự thống nhất về tiêu chuẩn
thật rõ ràng để phân biệt hợp đồng vô hiệu tương đối và hợp đồng vô hiệu tuyệt đối. Tuy
nhiên thông qua các quy định về giao dịch dân sự vơ hiệu ta có thể thấy rõ hợp đồng dân
sự vơ hiệu tương đối - có thể bị vơ hiệu căn cứ vào ý chí của chính các bên trong quan
hệ hợp đồng.
 Căn cứ vào mức độ của sự vô hiệu, hợp đồng vô hiệu được phân chia thành vơ
hiệu tồn bộ và vơ hiệu từng phần.

14


Pháp luật dân sự Việt Nam có quy định “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một
phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của
phần còn lại của giao dịch”.11 Ví dụ: cơng ty A và cơng ty B ký kết hợp đồng giao nhận
hàng hóa, địa điểm giao hàng tại cảng C nhưng do người giao hàng lại đưa hàng tới cảng
D gần đó. Trong trường hợp này hợp đồng vô hiệu từng phần do vi phạm về địa điểm
giao nhận hàng hố nhưng khơng ảnh hưởng tới hiệu lực của những phần khác như (chất
lượng sản phẩm, thời gian thực hiện…)
Trong hợp đồng vô hiệu từng phần, chỉ những phần hợp đồng vi phạm bị vô hiệu,
không ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng. Nói cách khác, khi hợp đồng được
xác định là vơ hiệu từng phần thì hợp đồng vẫn tồn tại và có hiệu lực. Hợp đồng vơ hiệu
tồn bộ được xác định khi các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khơng được đảm bảo,
làm cho tồn bộ hợp đồng khơng có hiệu lực. Trường hợp vơ hiệu tồn phần khi: Giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội. Trong
trường hợp này toàn bộ nội dung của hợp đồng bị vô hiệu. Đây là điểm khác biệt cơ bản
giữa hợp đồng vơ hiệu tồn bộ và hợp đồng vơ hiệu từng phần.
Hợp đồng kinh doanh thương mại vô hiệu trong các trường hợp cụ thể
Ngoài việc phải thỏa mãn các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,12
các hợp đồng kinh doanh thương mại không được vi phạm một trong các trường hợp quy
định từ Điều 123 đến Điều 129 BLDS 2015 như sau:

- Vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
- Vô hiệu do giả tạo
- Vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
xác lập, thực hiện
- Vô hiệu do bị nhầm lẫn
- Vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
- Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
- Vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.

11

12

Điều 130 BLDS 2015
Điều 117 BLDS 2015

15


Bên cạnh đó, pháp luật dân sự cịn quy định hợp đồng “vơ hiệu do có đối tượng khơng
thể thực hiện”13 và hợp đồng “vô hiệu do người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền”.14
 Giao dịch dân sự vô hiệu do người tham gia giao dịch khơng có năng lực hành vi
dân sự
Theo quy định của BLDS 2015 “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.15
Để xác định khả năng tham gia giao dịch dân sự của một các nhân, pháp luật nước ta
căn cứ vào độ tuổi cá nhân: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên”16
và “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”.17
Năng lực hành vi dân sự của người thành niên18 là năng lực hành vi đầy đủ, trừ

trường hợp pháp luật quy định người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong việc nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người hạn chế năng lực hành vi dân sự. Qua
đó, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người được pháp luật cho phép tự do giao
kết dân sự theo quy định của pháp luật, không bị hạn chế.
Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự hạn
19
chế. Hạn chế ở đây thể hiện ở chỗ những cá nhân đó khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nếu khơng có sự
đồng ý của người này thì giao dịch đó vơ hiệu, trừ giao dịch nhỏ phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Điều này có nghĩa tùy theo từng loại hay nhóm
quan hệ dân sự mà người chưa thành niên có thể tự do hoặc thông qua người đại diện để
tham gia giao dịch.
Người chưa đủ 6 tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự,20 mọi giao dịch
của họ đều do người đai diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Điều đó có nghĩa là họ
khơng thể tự mình tham gia vào bất kỳ giao dịch dân sự nào.
Một quy định ngoại lệ của BLDS 2015 “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên
quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định

Điều 408 BLDS 2015
Luật doanh nghiệp 2014
15
Điều 19 BLDS 2015
16
Khoản 1 Điều 20 BLDS 2015
17
Khoản 1 Điều 21 BLDS 2015
18
Khoản 2 Điều 20 BLDS 2015
19

Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015
20
Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015
13
14

16


của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.21 Quy định này phù hợp với
quy định của Luật lao động 2012 nước ta: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở
lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự
quản lý, Điều hành của người sử dụng lao động”.22
Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả năng thực
hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta quy định:
Người mất năng lực hành vi dân sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo u cầu của
người có quyền lợi, lợi ích liên quan mà Tịa án ra tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
dựa trên kết luận cúa giám định pháp y tâm thần. Giao dịch dân sự của người mất năng
lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Khi khơng
cịn căn cứ tun bố một người mất năng lực hành vi dân sự, thì theo u cầu của chính
người đó hoặc người có quyền lợi, lợi ích liên quan, Tịa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo Điều 22 BLDS 2015.
Ngoài ra, điểm mới của BLDS 2015 là đã ghi nhận, người mắc các bệnh khác
bệnh tâm thần như bệnh viêm màng não, già yếu lú lẫn, không hiểu và làm chủ được
hành vi của mình, được xem là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
theo Điều 23 Bộ luật này. Nhóm người này khi tham gia giao dịch dân sự sẽ gây hại đến
quyền lợi, lợi ích bình thường của chính cá nhân người đó hay người khác, vì vậy theo
u cầu của chính người đó, người có quyền lợi, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong việc

nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của
người giám hộ, trên cơ sở kết luật giám định pháp y tâm thần. Cũng như quy định người
mất năng lực hành vi dân sự, khi không cịn căn cứ cho rằng người đó là người khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của người đó, theo u cầu của chính
người đó hoặc của người có quyền lợi, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan.
Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tài sản của gia
đình và bị Toàn án tuyên bố là người hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan, hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan. Khi đó, Tịa án
cũng quyết định người đại diện theo pháp luật của cá nhân này và phạm vi đại diện. Việc
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị tuyên là người hạn
21
22

Khoản 4 Điều 21 BLDS 2015
Khoản 1 Điều 3 Luật lao động 2012

17


chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hằng ngày như ăn uống, mặc, học hành,…
hoặc luật liên quan có quy định khác. Khi khơng cịn căn cứ cho rằng đây là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo u cầu của chính người đó hoặc của người có
quyền lợi, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự của người đó, theo Điều 24
BLDS 2015.
 Giao dịch dân sự vô hiệu do người tham gia giao dịch không tự nguyện
Trong giao dịch dân sự, yếu tố tự nguyện đóng vai trị vơ cùng quan trọng, có thể nói

là yếu tố đặc trưng của pháp luật dân sự nói chung và giao dịch dân sự nói riêng, là căn
cứ các chủ thể xác lập một giao dịch làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Ý chí
tự nguyện của chủ thể là tiền đề quan trọng để hình thành giao dịch, nhưng chỉ giao dịch
hợp pháp, được pháp luật công nhận mới phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự trên thực tế.
Vì lẽ đó, yếu tố tự nguyện là một trong bốn điều kiện cơ bản không thể thiếu trong giao
dịch dân sự được cho là hợp pháp là “chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.23
Để xác định một chủ thể tham gia giao dịch có hồn tồn tự nguyện hay khơng, thì
Điều kiện cần là được pháp luật cho phép tham gia giao dịch dân sự và Điều kiện đủ là
hành vi tham gia giao dịch của các chủ thể phải thể hiện ý chí đích thực của chủ thể tham
gia trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt được mục đích nhất định. Điều kiện cần
để “một người” tham gia vào một giao dịch dân sự một các tự nguyện, thì người đó phải
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự như đã phân tích ở mục trên. BLDS
2015 tuy khơng có quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng như BLDS 2005, nhưng
lại có quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự: “Cá nhân, pháp nhân xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện
cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm Điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn
trọng”.24 Khi chủ thể tham lập một giao dịch dân sự, thì yêu cầu đầu tiên của pháp luật
dân sự là các chủ thể đó phải tự do và tự nguyện. Sự tự nguyện của các bên trong giao
dịch dân sự được thể hiện ở việc các bên tham gia giao dịch có quyền tự do ý chí và bình
đẳng ý chí. Chỉ có tự do và khơng có bất kỳ sự ràng buộc nào, thì chủ thể mới đích thực
được tự nguyện thỏa thuận. Các bên phải được biểu lộ ý chí bên ngồi, không bị áp lực
bởi bất cứ một lý do nào như: bị khống chế, bị đe dọa, bị cưỡng ép, bị lừa dối,… Nếu
trong trường hợp ý chí của chủ thể tham gia giao dịch bị áp đặt, cấm đoán bởi tác động

23
24

Điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015
Điều 3 BLDS 2015


18


của người khác hoặc ngoại cảnh để dẫn đến chủ thể tham gia giao dịch không thể hiện
thực sự được ý chí của mình trong giao dịch dân sự thì họ hồn tồn có quyền khơng
chấp nhận giao dịch đó, họ có thể tự mình hoặc u cầu Tịa án hủy bỏ giao dịch.
Trong giao dịch dân sự, tự do ý chí có nghĩa là chủ thể tham gia giao dịch có quyền:
- Quyền tự do ý chí về việc ký kết hợp đồng với ai, với nội dung gì và có nghĩa vụ
ràng buộc với các chủ thể tham gia;
- Quyền tự do tổ chức, thực hiện giao dịch theo ý muốn của các chủ thể như: thời
gian, địa điểm thực hiện, phương thức thực hiện, Điều kiện thực hiện giao dịch,…
- Quyền tự do lựa chọn hình thức giao dịch như: bằng văn bản, bằng lười nói hay
bằng hành động, trừ trường hợp có quy định giao dịch nào phải tuân theo một hình thức
nhất định.
Yếu tố bình đẳng: chủ thể tham gia giao dịch bình đẳng với nhau, không được lấy bất kỳ
lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân
và tài sản.
Sự tự nguyện trong giao dịch cịn thể hiện ở việc khơng bị lừa dối hay đe dọa,… Các bên
có quyền thể hiện ý chí chấp nhận hay khơng chấp nhận điều kiện của giao dịch. Mọi sự
tác động làm cho việc biểu lộ ý chí khơng phù hợp với mong muốn đích thực của các
chủ thể đều bị coi là vi phạm điều kiện tự nguyện.
 Giao dịch dân sự vô hiệu do mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều
cấm của luật, trái với đạo đức xã hội
Trong giao dịch dân sự, sự tự do thể hiện ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch là
nguyên tắc cơ bản, đặc trưng và được pháp luật thừa nhận, nhưng khơng phải tự do đó
là vơ tận và khơng có sự hạn chế của pháp luật. trong trường hợp vì lợi ích cơng cộng,
lợi ích quốc gia, thì tự do ý chí của các chủ thể có thể bị hạn chế nhất định. Sự hạn chế
đó là quy định “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội”.25

Theo tratu.soha,26 “mục đích” có thể hiểu là “cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho
được”. Trong pháp luật dân sự Việt Nam thì mục đích của giao dịch dân sự được hiểu là
lợi ích mà các bên tham gia giao dịch đã vạch sẵn ra cho mình và mong muốn đạt được
khi tham gia giao dịch. Để xác định được mục đích của các chủ thể tham gia giao dịch
ngồi việc dựa vào yếu tố chủ quan cịn phải dựa vào yếu tố khách quan khi xác lập giao

25
26

Điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015
Theo tratu.soha />
19


dịch như: khi tham gia giao dịch có thể hiện được ý muốn đích thực của họ khơng, có bị
nhầm lẫn, lừa dối hay đe dọa và phù hợp với các nguyen tắc, đối tượng của pháp luật
dân sự và có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không…
“Nội dung” theo Wikipedia27 là “phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu
tố, những quá trình tạo nên sự vật”. Trong giao dịch dân sự, nội dung được hiểu theo
nghĩa rộng là tất cả các Điều kiện liên quan đến giao dịch như Điều kiện về đối tượng,
số lượng, về giao dịch có Điều kiện hoặc các nguyên tắc của giao dịch,… Còn theo nghĩa
hẹp, nội dung được hiểu là tổng hợp các Điều khoản mà các bên thỏa thuận hoặc tuyên
bố nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Mục đích, nội dung của giao dịch dân sự là sự thể hiện hành vi có ý thức của con
người khi xác lập, thực hiện giao dịch, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Do vậy, nó
là Điều kiện cần và đủ của mọi giao dịch dân sự. Khi đánh giá một giao dịch dân sự có
Điều kiện pháp luật hay khơng, trong thực tiễn, ngồi việc xét các nội dung cịn phải
xem xét đến mục đích của giao dịch có trái pháp luật và đạo đức hay khơng. Mục đích
và nội dung của giao dịch là hai yêu cầu cần và đủ trong một giao dịch vì có những
trường hợp, tuy nội dung không trái với pháp luật, đạo đức xã hội nhưng mục đích của

giao dịch lại trái với pháp luật và ngược lại.
“Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện
những hành vi nhất định”28. Pháp luật Xã hội chủ nghĩa được hiểu là ý chí của nhân dân
lao động được đề lên thành luật, phù hợp với Điều kiện kinh tế xã hội. Trong đó chứa
những quy phạm hành vi do Nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo,
nhằm Điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội. Vì vậy tính khơng trái pháp
luật là khơng trái với hệ thống pháp luật. Ngành luật dân sự cũng như các ngành luật
khác như luật hình sự, luật lao động, luật hành chính,… đều đặt trong một hệ thống pháp
luật thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau nhằm đạt được mục
đích chung của Nhà nước và xã hội. Cho nên dù các ngành luật có Điều chỉnh các quan
hệ xã hội khác nhau, nhưng đều chịu sự tác động và Điều chỉnh bởi một số nguyên tắc
chung của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa như nguyên tắc thống nhất quyền và nghĩa
vụ, nguyên tắc công bằng… Các nguyên tắc này đã được ghi nhận ở Hiến pháp nước ta.
Hiểu theo nghĩa này thì mọi cơng dân có quyền được phép làm tất cả những gì mà pháp
luật khơng cấm, khơng được làm những gì mà pháp luật khơng cho phép.

27

TheoWikipedia
/>Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_Marx-Lenin)
28
Điều 123 BLDS 2015

20


×