Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Những vấn đề pháp lý và thực tiễn về giao kết hợp đồng theo CISG 1980 so sánh pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.55 KB, 53 trang )

i

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình làm khóa luận tốt nghiệp, bản thân đã nỗ lực cố gắng để
hoàn thành tốt khóa luận. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện khóa luận tốt
nghiệp bản thân cũng đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả cả về
vật chất lẫn tinh thần hay những tiền đề lý luận cần thiết của bạn bè, thầy
cô,… Đặc biệt, được sự giúp đỡ nhiệt tình và quan tâm sâu sát của giáo viên
hướng dẫn ThS. Nguyễn Chí Thắng đã giúp tơi hồn thành tốt khóa luận này.
Vì thế, cho phép tơi được phép gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến:
Trường Đại học Cơng nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật và các
thầy cô đã truyền đạt cho tôi những tiền đề lý luận cần thiết để thực hiện việc
nghiên cứu đề tài và hồn thành tốt khóa luận này.
Giáo viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Chí Thắng – người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tơi hịan thành tốt khóa luận này.
Gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần,
luôn sát cánh bên tơi giúp đỡ tơi hồn thành tốt cơng việc của mình.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận do năng lực và trình
độ có hạn nên khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót mong q thầy cơ
và bạn đọc có những phản hồi bổ sung để khóa luận được hồn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu tình hình
thực tiễn dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Chí Thắng.
Các kết quả trong khóa luận là trung thực và chưa từng được cơng bố
trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây. Những thông tin thu thập


được ghi rõ nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng.
Tơi xin cam đoan, mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết
khóa luận, hay gian trá, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
TP.HCM, ngày 20 tháng 07 năm 2018
Sinh viên

TRẦN SĨ XUÂN


iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tên tiếng Anh

Bộ luật dân sự

BLDS
CISG 1980

Tên tiếng Việt

United Nations Convention
on Contracts for
International Sales of
Goods, Vienna 1980 CISG

Công ước Viên năm 1980
của Liên Hiệp Quốc về Hợp

đồng mua bán quốc tế hàng
hoá

HĐMBHHQT

Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế

LTM

Luật Thương mại

NĐ-CP

Nghị định - Chính phủ

PICC

Principles of International
Commercial Contracts

Những nguyên tắc của hợp
đồng thương mại quốc tế
Bộ Nguyên tắc về Luật Hợp
đồng Châu Âu

PECL
UNCITRAL

United Nations

Commission on
International Trade Law

Ủy ban liên hợp quốc về luật
thương mại quốc tế

UNIDROIT

The International Institute
for the Unification of
Private Law

Viện quốc tề về nhất thể hóa
pháp luật tư
Thơng tư- Bộ Thương mại

TT-BTM
VCCI

Vietnam Chamber of
Commerce and Industry

Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam

VIAC

Vietnam International
Arbitration Centre


Trung tâm Trong tài Quốc tế
Việt Nam

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại Thế giới


iv

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................ iii
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................. 3
5. Kết cấu khoá luận ............................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG
ƢỚC VIÊN 1980 ...................................................................................................... 5
1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.............................................. 5
1.2 Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................... 7
1.3 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................................... 7
1.4 Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................ 12
1.4.1 Nguyên tắc tự do ý chí ........................................................................... 12

1.4.2 Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại ......................... 12
1.4.3 Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn dẫn chiếu tới...... 13
1.5 Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................... 14
1.6 Ý nghĩa của CISG đối với pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam ............... 15
CHƢƠNG 2: SO SÁNH CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA CÔNG ƢỚC VIÊN
1980 VỚIPHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ - ĐỀ XUẤT CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.... 17
2.1 So sánh nội dung cụ thể ................................................................................ 17
2.1.1 Đề nghị giao kết hợp đồng ......................................................................... 17
2.1.1.1 Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng ............................................. 17


v

2.1.1.2 Điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng ........................................ 17
2.1.1.3 Thời điểm có hiệu lực của đề nghị .................................................. 24
2.1.1.4 Chấm dứt hiệu lực của chào hàng ................................................... 25
2.1.2 Chấp nhận chào hàng ................................................................................................ 27
2.1.2.1 Khái niệm chấp nhận chào hàng ..................................................... 27
2.1.2.2 Hình thức chấp nhận chào hàng ...................................................... 27
2.1.2.3 Điều kiện của chấp nhận chào hàng ................................................ 32
2.1.2.4 Thời điểm có hiệu lực của chấp nhận chào hàng ............................ 36
2.3 Bình luận và kiến nghị về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đối
với doanh nghiệp Việt Nam .............................................................................. 40
2.3.1 Bình luận .................................................................................................. 40
2.3.2 Kiến nghị ................................................................................................. 43
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 47



1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG 1980) đã chính thức có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 1/1/2017. Trước mắt, sự gia nhập công ước đánh dấu
một bước tiến mới đối với nền kinh tế quốc gia nói chung và hoạt động thương mại
nói riêng. Bằng những thuận lợi của việc bước chân ra biển lớn - sân chơi hội nhập
quốc tế, có thể giúp Việt Nam vươn sâu và vươn xa hơn. Tuy nhiên, từ đó cũng đặt
ra vô vàn thách thức trong việc giải quyết nội tại để cùng đồng hành với những quốc
gia khác. Làm sao vừa thực hiện đúng quy định pháp luật trong nước và quốc tế
cùng với đó là xây dựng đúng cơ chế phù hợp với quốc tế tạo điều kiện cho cả
doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế là vấn đề đặt ra và cần được giải quyết.
Như được biết hoạt động thương mại từ lâu đã khơng cịn bị giới hạn trong
việc trao đổi hàng hóa mà được mở rộng sang cá lĩnh vực khác nhau như thương
mại dịch vụ, thương mại đầu tư, thương mại liên quan đến sỡ hữu trí tuệ.
Đặc biệt là đối với việc mua bán trao đổi hàng hóa trong nước cũng như quốc
tế. Tính đến hết năm 2015, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hầu hết
đều là thành viên của Cơng ước. Khi Cơng ước Viên 1980 có hiệu lực, lợi ích điển
hình đối với doanh nghiệp là sẽ tiết kiệm được các chi phí trong đàm phán hợp
đồng. Hiện nay, trong q trình đàm phán, có tới 52% hợp đồng có đàm phán về
việc sẽ áp dụng luật nào thì riêng việc chọn luật các doanh nghiệp mất khoảng 2
tiếng. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng mất khá nhiều thời gian để đàm phán chi tiết về
thực hiện hợp đồng cũng như từng điều khoản trong hợp đồng…
Công ước là văn bản hài hịa hóa pháp luật nhằm thống nhất các quy phạm
được áp dụng để điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dù các bên
của hợp đồng ở quốc gia nào. Cho đến thời điểm hiện tại, Công ước là một trong
các điều ước quốc tế thành công nhất trong lĩnh vực thương mại quốc tế, được phổ
biến và áp dụng rộng rãi nhất, với trên 80 quốc gia thành viên trên thế giới.
Nhìn chung, các ngun tắc của Cơng ước phù hợp với các nguyên tắc chung
của pháp luật hợp đồng Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số điểm khác biệt

trong các điều khoản chi tiết của Công ước với các quy phạm tương ứng trong pháp
luật về mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam (ví dụ quy định về hình thức của
hợp đồng, về các chế tài khi vi phạm hợp đồng). Một số vấn đề được Cơng ước quy
định, nhưng chưa có trong pháp luật Việt Nam (kéo dài thời hạn hiệu lực của chào
hàng, hủy hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ).


2
Thực tiễn ký kết hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở Việt Nam
trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen
mà khơng theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vì vậy mà những vấn đề liên quan đến
giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng (chào hàng) và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng khơng mấy được quan tâm. Trong khi đó, để một hợp đồng là một căn
cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi cho mình thì khâu giao kết hợp đồng dường như là
quan trọng nhất. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng vẫn
còn khá nhiều điểm chưa sát hợp với thực tiễn áp dụng.
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế
(UNCITRAL) trong một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cơng ước này đã trở thành công ước được áp
dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hoá
quốc tế với các quốc gia thành viên. Chính vì vậy, để góp phần vào việc hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về vấn đề giao kết hợp đồng, tôi chọn đề tài “Những vấn đề
pháp lý và thực tiễn về giao kết hợp đồng theo CISG 1980 – so sánh pháp luật Việt
Nam” để qua đó góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế theo chủ trương của Đảng.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ lý do trên, khi nghiên cứu đề tài “NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
VÀ THỰC TIỄN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO CISG 1980 – SO SÁNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM” bài viết có các mục đích sau:

Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Qua đó thấy được tầm quan trọng của vấn đề giao kết hợp đồng liên quan
đến vấn đề này, đồng thời làm rõ các yếu tố của việc giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Thứ hai: Phân tích và đánh giá các quy định của công ước Viên 1980 – Công
ước thống nhất các quy định về vấn đề Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên
tồn thế giới về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong sự so sánh với
các quy định của Việt Nam.
Thứ ba: Từ những quy định và thực tiễn đề xuất một số phương hướng nhằm
xây dựng và hoàn thiện về pháp luật Hợp đồng nói chung và những đề xuất giúp
doanh nghiệp Việt Nam có thể áp dụng phù hợp những nguyên tắc trong giao kết
Hợp đồng mua bán hàng hóa.


3
3. Phạm vi nghiên cứu
Công ước Viên 1980 là Công ước quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế do Uỷ ban Liên hợp quốc soạn thảo với rất nhiều quốc gia thành viên và
được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Cho đến hiện tại, Việt Nam là thành viên
thứ 84 của Công ước, đây không còn là cơ hội của các doanh nghiệp nữa mà đó là
cuộc chơi là sự hịa nhập cần phải hiểu rõ và áp dụng thường xuyên các quy định
của Công ước khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hố mang tính chất
quốc tế này.
Cơng ước quy định về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế như đối tượng, chủ thể của hợp đồng, vấn đề giao kết hợp đồng, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, các vấn đề chế tài, trách nhiệm của các bên,
vấn đề bồi thường thiệt hại...Tuy nhiên do đề tài mà bài luận hướng đến là vấn đề về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hố theo Cơng ước Viên 1980 nên trong bài luận
này chỉ nghiên cứu về vấn đề giao kết bao gồm: chào hàng, chấp nhận chào hàng,
ký kết hợp đồng và một số vấn đề pháp lý khác liên quan trực tiếp.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và cổ điển
như phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin, bài luận còn dựa trên những phương pháp mang tính đặc thù như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp...
Phương pháp phân tích: Được thể hiện trong bài luận thơng qua tập trung phân
tích những quy định cụ thể trong Công ước Viên 1980, Bộ luật Dân sự, Luật thương
mại về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Phương pháp so sánh: Được áp dụng thông qua việc so sánh những quy định
của Công ước Viên 1980 với những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (ngồi ra cịn dẫn chiếu so sánh đến
những điều luật của các quốc gia khác có quy định về cùng nội dung…).
Phương pháp tổng hợp: Từ những kết quả có được thơng qua việc phân tích và
so sánh những quy định của Công ước và một số hệ thống pháp luật khác, tác giả đã
rút ra những kết luận mang tính chất khái quát, tổng hợp về thực trạng pháp luật
Việt Nam và đưa ra những phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia
sao cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đặc biệt bài viết còn sử dụng phương
pháp so sánh hai đối tượng so sánh với đối tượng thứ ba. Đối tượng thứ ba này
khơng phải là đối tượng chính trong hoạt động so sánh, song có vai trị làm cho thấy


4
rõ hơn đối tượng nào trong các đối tượng so sánh chính gần gũi hơn so với các
chuẩn mực hiện hữu.
5. Kết cấu khố luận
Bài luận này gồm có 02 chương, cụ thể là:
Chƣơng 1: Khái quát chung về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
theo pháp luật Việt Nam và theo Công ước Viên năm 1980
Chƣơng 2: So sánh các nội dung cụ thể của Công ước Viên năm 1980 với
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Đề xuất cho

Doanh nghiệp Việt Nam


5

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THEO CÔNG ƢỚC VIÊN
1980
1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có ngĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có
nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận.1
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
mua bán.
Hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong luật
Thương mại Việt Nam 2005 và Nghị định 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với
nước ngồi. Theo Điều 27 Khoản 1 LTMVN 2005 thì “Mua bán hàng hóa quốc tế
được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập và chuyển khẩu”.
Có một số tác giả đã đưa ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
xác định tính quốc tế trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên nhiều yếu
tố khác nhau. Theo đó: “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ các đặc
trưng cơ bản hợp đồng thương mại quốc tế (hợp đồng thương mại có yếu tố nước
ngồi). Tính quốc tế hay đặc điểm có yếu tố nước ngồi của quan hệ chính là điểm
khác biệt của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với hợp đồng mua bán hàng hóa

thơng thường. Yếu tố nước ngồi có thể được quy định khác nhau trong pháp luật
của các quốc gia cũng như trong pháp luật quốc tế, nhưng nhìn chung đó là các yếu
tố liên quan đến quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ sở của các chủ thể liên quan đến nơi
xác lập hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng hoặc nơi có tài sản là đối tượng của hợp
đồng.2
Chiếu theo quy định này thì tiêu chí để xác định yếu tố nước ngồi của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ là việc hàng
hóa là đối tượng của hợp đồng phải được giao qua biên giới. Với những loại hợp
1
2

Khoản 8 Điều 3 LTM 2005
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB CAND, Hà Nội, 2007, tr 207.


6
đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa khơng có sự dịch chuyển qua biên
giới thì rõ ràng sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thương mại Việt Nam.
Tuy nhiên, với tư duy coi BLDS hiện hành là “đạo luật mẹ” bao trùm lên các lĩnh
vực kinh tế- thương mại, hơn nhân và gia đình, lao động thì đối với những hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không được
chuyển giao qua biên giới quốc gia (như hợp đồng mua bán hàng hóa giữa một
thương nhân Việt Nam với một thương nhân nước ngồi nhưng hàng hóa chỉ được
dịch chuyển trong nội bộ lãnh thổ Việt Nam) thì hồn tồn có thể áp dụng các quy
định của Bộ luật dân sự 2015 đối với hợp đồng có yếu tố nước ngồi nói chung điều
chỉnh.
Như vậy, khái niệm “mua bán hàng hoá quốc tế” với tư cách là hoạt động
thương mại hoặc quan hệ thương mại theo Khoản 1 Điều 27 Luật thương mại năm
2005 có phạm vi hẹp hơn so với “mua bán hàng hố có yếu tố nước ngoài” xuất
phát từ khái niệm “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Trong khi đó, “mua bán

hàng hoá quốc tế” theo Luật thương mại năm 2005 chỉ căn cứ vào tiêu chí duy nhất
là hàng hố được vận chuyển qua biên giới.3
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for International Sales
of Goods, Vienna 1980 - CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm 1980): tính chất quốc
tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng
có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (Điều 1 Công ước Viên năm 1980).
Và, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm
đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua
bán hàng hố quốc tế.
Khác với Cơng ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 không đưa
ra tiêu chí hàng hố phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác định tính
chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hố quốc tế.
Có thể nói rằng, việc làm rõ khái niệm “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”
có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn và hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với việc xác
định luật nào áp dụng để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu hợp
đồng là hợp đồng mua bán thông thường (hợp đồng nội địa) thì sẽ được pháp luật
trong nước điều chỉnh. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì sẽ được điều
chỉnh bằng pháp luật thương mại quốc tế: có thể là pháp luật của mỗi quốc gia khác
nhau, các điều ước quốc tế liên quan và trong nhiều trường hợp liên quan đến cả tập
3

/>

7
quán thương mại quốc tế, nên cần thiết phải lựa chọn luật nào trong số đó để áp
dụng cho hợp đồng. Không những thế mà trong một số trường hợp còn cho phép
xác định được pháp luật của quốc gia nào được sử dụng để điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Vì vậy, hết sức cần thiết phải có một khái
niệm chung rõ ràng về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hay nói cách khác là

phải có cách xác định tương đối thống nhất tính quốc tế của hợp đồng thương mại
quốc tế.
Điều cần chú ý ở hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao
kết hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá
trình vận chuyển, thanh tốn, thực thi cam kết hợp đồng… Vì vậy, các bên cần thỏa
thuận và soạn thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 Luật thương mại
2005 quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn
bản.
1.2 Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc các bên bày tỏ ý chí với
nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các
quyền, nghĩa vụ liên quan tới việc mua bán hàng hóa quốc tế.
Những nguyên tắc đó bao gồm:
Nguyên tắc tự do ý chí (hay cịn gọi là tự do hợp đồng);
Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại;
Nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn dẫn chiếu tới.
Như vậy, ngoài việc tuân theo các nguyên tắc trên, để xác lập hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, các thương nhân cần phải thể hiện bằng hành vi để thể hện ý
chí của mình. Do hợp đồng là sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận, nên nó có hai
thành tố cơ bản sau:
Đề nghị giao kết hợp đồng.
Chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.3 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Khi nhắc đến hợp đồng mua bán hàng hóa, trên phương diện pháp lý về đặc
điểm cơ bản được hiểu theo đó là loại hợp đồng song vụ có đền bù. Việc mua bán là
hoạt động nhằm trao đổi lợi ích giữa các bên với nhau phục vụ về mặt vật chất và
tinh thần trong quan hệ mua bán đó. Hiểu một cách đơn giản bên bán có nghĩa vụ
giao hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, bên mua nhận hàng và thanh



8
toán cho bên bán. Tuy nhiên, so sánh giữa hợp đồng mua bán hàng hóa thơng
thường thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì có một số đặc điểm khác nhau:
Về chủ thể:
Trong mua bán hàng hóa thơng thường, chủ thể khi được nhắc đối với hoạt
động mua bán hàng hóa mang tính thương mại chỉ có thể thực hiện là thương nhân.
Còn về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ thể của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là các bên, người bán và người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các
nước khác nhau. Mặc dù quy định như vậy, nhưng việc xác định tư cách thương
nhân còn phải phụ thuộc vào luật của quốc gia nơi họ mang quốc tịch thường trú.
Luật thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh - Khoản 1 Điều 6”. Nhưng để được giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế thì thương nhân phải đáp ứng đủ điều kiện theo pháp luật.
Một vấn đề khác được đặt ra, chủ thể kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế chủ yếu là các thương nhân nhưng có phải các thương nhân được tự do kí
kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà khơng phụ thuộc ngành nghề đăng
ký kinh doanh của mình, hay là chỉ được kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình. Câu trả lời thật
khơng dễ dàng khi có sự quy định không thống nhất của luật. Thật vậy, theo quy
định tại Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005 thì doanh nghiệp
có nghĩa vụ kinh doanh theo đúng ngành nghề được ghi trong giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Như vậy nếu theo quy định này thì thương nhân chỉ được phép kí
kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh
doanh của mình, điều đó cũng có nghĩa là thương nhân hoạt động trong lĩnh vực
“bánh kẹo” khơng được kí hợp đồng mua bán “đồ chơi trẻ em”. Nhưng vấn đề sẽ
hoàn toàn khác, khi chúng ta nhìn vào quy định của Luật Thương Mại, thật vậy
Điều 3 Nghị định 12/2006/NĐ-CP quy định: trừ hàng hóa thuộc danh mục cấm xuất
khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu,
tạm ngừng nhập khẩu thương nhân được xuất nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc

vào ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình. Thiết nghĩ rằng trong trường hợp
này thì quy định của Luật Thương Mại là hợp lí hơn vì xuất phát từ bản chất của tự
do hóa thương mại cũng như vấn đề tăng trưởng kinh tế, việc mở rộng phạm vi
được kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa
hoạt động ngoại thương thơng qua đó tạo điều kiện phát triển cho nền kinh tế. Còn


9
nếu theo quy định của Luật Doanh Nghiệp thì vơ hình chung, chúng ta đã tạo một
rào cản cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.4
Tuy nhiên thương nhân theo pháp luật của các nước trên thế giới được xác
định bởi dấu hiệu: thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy
chúng làm nghề nghiệp của mình; tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là
thực hiện các hành vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ.
Về đối tượng:
Định nghĩa hàng hóa theo pháp luật của một số nước.
Đạo luật mua bán của Anh định nghĩa: “Hàng hóa bao gồm tất cả những động
sản khác hơn về các quyền mô hình. Theo Australia và New Zeland: Hàng hóa là
động sản hữu hình, khơng là tài sản vơ hình và tiền, bao gồm cả mùa màng, hoa lợi
và những vật gắn liền với đất hoặc tạo thành một phần của đất mà được thỏa thuận
tách rời khỏi đất trước khi bán hoặc trong hợp đồng bán”. Còn trong bộ luật thương
mại nhất thể của Hoa Kỳ: “Hàng hóa có nghĩa là tất cả những vật (bao gồm những
hàng hóa được sản xuất đặc biệt) mà là động sản tại thời điểm tham gia hợp đồng
mua bán, khác hơn tiền mà là động sản tại thời điểm tham gia hợp đồng mua bán,
khác hơn tiền mà giá cả phải được trả, chứng khốn đầu tư và những quyền vơ hình
khác. Hàng hóa cũng bao gồm súc vật chưa ra đời cây trồng và những vật được
nhận biết khác gắn liền với bất động sản như được mơ tả trong phần nói về hàng
hóa được tách rời từ bất động sản”.
Đặc điểm về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là động sản,
tức là hàng hóa có thể dịch chuyển qua biên giới một nước.

Thậm chí ngay tại điều 2 của Công ước Viên1980 cũng quy định đối tượng
không áp dụng vào việc mua bán: Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc
nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào
thời điểm giao kết hợp đồng, không biết hoặc khơng cần phải biết rằng hàng hóa đã
được mua để sử dụng như thế; Bán đấu giá; Ðể thi hành luật hoặc để thực hiện các
quyết định tư pháp; Các cổ phiếu, trái phiếu, thương phiếu hoặc tiền tệ; Tàu thủy,
máy bay và các thiết bị bay, tàu chạy trên đệm khơng khí; Ðiện năng. Tuy vậy, án lệ
CISG cho thấy có trường hợp hợp đồng mua bán thành phần, bộ phận riêng lẻ của
tàu thủy, máy bay, có thể quy định luật áp dụng là Công ước.5
Trong khi hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước được quy định: Hợp đồng
mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Hiểu theo nghĩa thơng thường hàng
hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu
cầu của con người. Theo luật Thương mại 2005, hàng hóa bao gồm “tất cả cá loại

4
5

/>xem them án lệ số 1/1998, 18/12/1998 tại địa chỉ />

10
động sản kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất Khoản 2 Điều 3”.
Tóm lại, việc quy định đối tượng chung là căn cứ xác định bước đầu, còn việc
xác định cụ thể thì cịn phải đảm bảo được các yếu tố từ pháp luật quốc gia hay
thông qua các điều ước xuất pháp từ những chính sách chung của các quốc gia với
nhau.
Về ngơn ngữ:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết bằng tiếng nước
ngồi, trong đó phần lớn là tiếng Anh.
Về tổ chức giải quyết tranh chấp:
Tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế có thể được giải quyết bởi các hình thức như trọng tài, hòa giải hoặc thương
lượng.
Về luật điều chỉnh hợp đồng:
Luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là luật quốc gia
mà các bên thỏa thuận lựa chọn trong hợp đồng hoặc là luật của quốc gia mà các
quy tắc tư pháp quốc tế của nơi giải quyết tranh chấp dẫn chiếu đến.
Phần năm của BLDS 2015 quy định:
Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật
của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu khơng có thỏa thuận khác.
Hợp đồng giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn tồn tại Việt Nam thì phải
tn theo pháp luật Việt Nam.
Nếu hợp đồng khơng ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi thực hiện hợp
đồng phải tuân theo pháp luật Việt Nam.
Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp
đồng.
Nếu hợp đồng giao kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về hình thức hợp
đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng khơng trái với quy định về hình thức hợp
đồng theo pháp luật Việt nam thì hình thức hợp đồng được giao kết ở nước ngồi
vẫn được cơng nhận tại Việt Nam.
Hình thức hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc chuyển giao quyền sở
hữu cơng trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân
theo luật Việt Nam.
Ví dụ: Trường hợp: Hợp đồng giữa người bán Liechtenstein (liên bang Nga)
và người mua Việt Nam về mua bán thép tấm. Trong hợp đồng, hai bên đã lựa chọn


11
CISG làm luật áp dụng và khi xét xử tranh chấp, trọng tài quốc tế do hai bên lựa
chọn đã áp dụng CISG.6
Bình luận: trong hợp đồng này, người bán có trụ sở tại một quốc gia thành

viên của CISG 1980 (liên bang Nga) và có thể người bán đã đề xuất lựa chọn CISG
1980 làm luật áp dụng và bên người mua Việt Nam đã đồng ý. Như vậy, dù Việt
Nam chưa gia nhập Công ước nhưng nếu doanh nghiệp Việt Nam khơng chủ động
tìm hiểu thì có thể sẽ rất bị động khi đối tác của bên Việt Nam là công ty của một
quốc gia thành viên và họ đề xuất áp dụng CISG 1980.7
Khi hợp đồng được điều chỉnh bởi Cơng ước Viên 1980, các bên có thể dự
kiến một nguồn luật bổ sung cho những vấn đề mà Công ước này không đề cấp đến,
hoặc trường hợp các bên không lựa chọn nguồn luật bổ sung cho thì cơ quan giải
quyết tranh chấp sẽ lựa chọn.
Các nguồn luật bổ sung cho có thể bao gồm:
Luật quốc gia của nơi người bán hoặc người mua đặt trụ sở kinh doanh, hoặc
bất kỳ quốc gia nào mà các bên có thỏa thuận lựa chọn.
Các bộ nguyên tắc về hợp đồng (khơng mang tính ràng buộc) như Bộ Ngun
tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ Nguyên tắc về Luật
Hợp đồng Châu Âu (PECL).
Các tập quán thương mại quốc tế khác phù hợp với nội dung tranh chấp.
Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang tính đa dạng và
phức tạp. Điều này có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa phải chịu sự điều chỉnh
khơng chỉ bằng luật pháp của nước đó mà cịn cả luật pháp nước ngồi, thậm chí
phải chịu điều chỉnh của điều ước quốt tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án
lệ để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, phụ thuộc vào sự thỏa thuận
của các bên khi ký hợp đồng…

6

Xem quyết định số 4, trong: VCCI, Danida, Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc, NXB Tư pháp,
2007, tr.34.)
7

/>


12
1.4 Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được tạo lập do sự thỏa thuận của các
bên. Do đó luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng này cũng có các nguyên tắc của luật
hợp đồng nói chung, đó là: nguyên tắc tự do ý chí; nguyên tắc áp dụng tập qn và
thói quen thương mại. Ngồi ra luật hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cịn có
ngun tắc riêng là nguyên tắc phù hợp với luật của nước được lựa chọn dẫn chiếu
tới.
Là một văn bản thống nhất luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, CISG
ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản được phân tích dưới đây.
1.4.1 Nguyên tắc tự do ý chí
Nguyên tắc tự do ý chí của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được
thể hiện rõ và ở mức độ cao hơn trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
nước. Các luật gia và những người thương lượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, với khả năng sáng tạo đặc biệt của mình đã tạo ra những khuôn khổ pháp lý phù
hợp cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa
trong nước, nguyên tắc tự do ý chí chỉ thể hiện ở việc các bên được tự do trong việc
thỏa thuận các điều kiện liên quan đến các điều kiện của hợp đồng như: điều kiện về
quyền và nghĩa vụ của các bên; các điều kiện về giá cả, số lượng, chất lượng, thời
gian giao nhận hàng hóa…Cịn trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
nguyên tắc này không chỉ thể hiện trong việc xác định các điều kiện của hợp đồng,
mà còn được thể hiện trong những vấn đề pháp lý sau:
- Các bên hoàn toàn tự do trong việc xác định luật áp dụng để điều chỉnh quan
hệ hợp đồng giữa họ với nhau;
- Các bên hoàn toàn tự do trong việc thỏa thuận hình thức và nơi giải quyết
tranh chấp.
1.4.2 Nguyên tắc áp dụng tập qn và thói quen thƣơng mại
Ví dụ nếu các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thống nhất ghi
điều kiện CIF Incoterm 2010 thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc giao

hàng sẽ được xác định theo điều kiện CIF Incoterm 2010. Công ước không đưa ra
khái niệm tập quán.8
Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động
thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng

8

Có thể tham khảo định nghĩa tập quán tại Khoản 4 Điều 3 Luật thương mại Việt Nam 2005.


13
được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động
thương mại.
Trong vụ việc phát sinh từ hợp đồng mua bán gỗ giữa người Đức (nguyên
đơn) và người Áo (bị đơn) vào năm 2000, Tòa Tối cao Áo đã tuyên rằng người mua
bị rằng buộc bởi tập quán “Tegernsee Usages” – một tập quán phổ biến trong mua
bán gỗ tại vùng Bavaria nước Đức.9
Tịa án giải thích rằng người Áo phải biết đến tập quán này do đây là một tập
quán phổ biến, được áp dụng thường xuyên trong việc mua bán gỗ khối giữa Đức
và Áo. Hơn nữa, việc áp dụng tập quán đã được người bán đề cập khi chấp nhận đặt
hàng từ người mua.
Ngồi ra, các thói quen phát sinh từ những giao dịch thương mại giữa các bên
cũng có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng cụ thể của các bên có
thói quen từ trước đó.
Từ đó cũng đặt ra vấn đề, những tập quán và thói quen đã được được lập cần
phải được nghiên cứu cụ thể. Bằng việc tổng hợp các án lệ đã được thơng qua và lấy
đó làm căn cứ trong giải quyết tranh chấp.
1.4.3 Nguyên tắc phù hợp với luật của nƣớc đƣợc lựa chọn dẫn chiếu tới
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG: Đây
là điều ước quốc tế quan trọng nhất hiện nay trong việc điều chỉnh hợp đồng mua

bán hàng hóa quốc tế. Cơng ước Viên 1980 điều chỉnh đến ¾ thương mại thế giới
và hiện có khoảng trên 80 quốc gia thành viên. Vấn đề gia nhập công ước của Việt
Nam đã được đặt ra từ lâu và vì vậy, doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu cơng ước
này khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng là luật của một trong hai bên ký kết: luật
nước người mua hoặc luật nước người bán. Điều này phụ thuộc vào “thế” và “lực”
của doanh nghiệp khi tham gia đàm phán với phía đối tác.
Luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng là luật của một nước thứ ba: doanh nghiệp
cần cân nhắc kỹ xem chọn luật nước nào, luật nước nào lợi cho người bán hay
người mua. Khả năng tham gia tranh tụng tại nước ngoài của luật sư Việt Nam cịn
hạn chế, vấn đề chi phí th luật sư tranh tụng tại nước ngồi là khơng nhỏ. Hiện
nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chọn luật thương mại của Singapore để điều
chỉnh hợp đồng.

9

/>

14
Trong trường hợp khơng có sự lựa chọn, thì quy tắc của tư pháp quốc tế của
nước được thụ lý giải quyết tranh chấp sẽ dẫn chiếu tới luật của nước nào đó được
dùng để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, ngun tắc này có tính chất đặc thù xuất phát
từ quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi.
1.5 Hình thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hình thức giao kết rất quan trọng khi các bên cần có để làm căn cứ hiệu quả
khi phát sinh tranh chấp.
Theo Điều 400 Bộ luật dân sự 2015, thời điểm bên đề nghị nhận được chấp
nhận giao kết được cho là căn cứ để xét tính trực tiếp hay gián tiếp về hình thức
giao kết. Cụ thể, “hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả
lời chấp nhận giao kết; thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các

bên thỏa thuận về nội dung của hợp đồng; thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn
bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác
được thể hiện trên văn bản”. Có thể thấy, trong cả hai trường hợp giao kết trực tiếp
là gặp mặt, với trường hợp giao kết gián tiếp là không gặp mặt hoặc không trao đổi
trực tiếp đều phải tuân thủ quy định về việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng
khơng phụ thuộc vào hình thức hay thủ tục của hợp đồng mà ưu tiên công nhận sự
thỏa thuận và những cam kết giữa các bên.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cịn cơng nhận việc giao kết hợp đồng thông qua
phương tiện điện tử hoặc các phương tiện khác mà các bên giao kết hợp đồng khơng
có mặt tại cùng một thời điểm để ký kết hợp đồng và xem đó là giao kết hợp đồng
vắng mặt.
Khác với quy định của pháp luật Việt Nam đều có thể giao dịch với hai hình
thức giao kết là giao kết trực tiếp hay gián tiếp, thì theo Cơng ước Viên 1980 lại ưu
tiên cho hình thức gián tiếp lấy căn cứ dựa trên đề nghị giao kết (chào hàng) hay
chấp nhận đề nghị giao kết. Hình thức giao kết hợp đồng gián tiếp là hình thức chủ
yếu trong thương mại quốc tế vì một số lý do như là các cơng ty có trụ sở ở các
quốc gia khác nhau, sự phát triển về công nghệ thông tin cũng giúp các công ty tăng
cường quan hệ thương mại với các đối tác ở các quốc gia khác. Như vậy, gần như
Công ước không đề cập đến quy định thời điểm có hiệu lực của giao kết bằng văn
bản hay lời nói. Bằng một cách liên quan đề nghị và chấp nhận đề nghị có hiệu lực
khi nào cũng sẽ làm căn cứ cho việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 18 Công ước về chấp nhận chào hàng có hiệu lực
và thậm chí cho rằng sự vắng mặt của các bên trong giao kết bằng việc chào hàng bị
thu hồi, cho thấy rằng Cơng ước ưu tiên hình thức giao kết gián tiếp.


15
1.6 Ý nghĩa của CISG đối với pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, việc gia nhập CISG 1980 sẽ giúp cho pháp luật về mua bán hàng
hóa quốc tế tại Việt Nam trở nên đồng nhất với nhiều quốc gia trên thế giới, đồng

thời hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của Việt Nam. CISG 1980 sẽ phát sinh hiệu
lực một cách tự động giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
mà các quốc gia này là thành viên của Cơng ước (ngoại trừ các bên đã có thỏa thuận
loại trừ hiệu lực của Công ước đối với hợp đồng của mình). Do đó, CISG 1980, chứ
khơng phải pháp luật thương mại của mỗi quốc gia, sẽ được áp dụng đối với những
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như vậy. Lợi ích to lớn nhất mà chúng ta nhận
được đó chính là việc giảm bớt xung đột pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
quốc tế, tạo khung pháp lý thống nhất và hiện đại.10
Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 84 của CISG đã mang lại lợi ích đối
với các doanh nghiệp Việt Nam.
Đầu tiên, căn cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 1 Công ước CISG, Công ước này
sẽ được áp dụng cho các hợp đồng mua bán giữa các bên có trụ sở thương mại tại
các quốc gia thành viên, trừ phi các bên thỏa thuận về việc không áp dụng Công
ước này. Do đó, các thương nhân Việt Nam và các đối tác tại 85 quốc gia thành viên
(con số tăng lên theo thời gian) sẽ có một khung pháp lý thống nhất, được áp dụng
một cách tự động cho hợp đồng của mình. Đồng thời sẽ tránh được những vấn đề
gây tranh cãi và những khó khăn gặp phải và đón nhận những lợi ích sau đây:
 Giảm bớt chi phí và thời gian đàm phán để thống nhất lựa chọn luật áp dụng
cho hợp đồng. Đây là lợi ích lớn nhất khi các bên đã có một nguồn luật thống nhất
để áp dụng. Dù các bên trong hợp đồng không thỏa thuận gì về luật áp dụng thì
Cơng ước Viên 1980 vẫn được tự động áp dụng cho hợp đồng mua bán giữa các
bên.
 Giảm bớt các khó khăn và chi phí có thể phát sinh do luật được lựa chọn để
áp dụng cho hợp đồng là luật nước ngoài. Nếu phải áp dụng luật nước ngoài thương
nhân Việt Nam có thể mất thời gian để tự mình tìm hiểu hoặc mất chi phí th tư
vấn luật để tìm hiểu luật nước ngồi đó. Ngồi ra, ln tiềm ẩn những rủi ro pháp lý
cho thương nhân Việt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật nước ngoài cũng
như cách áp dụng luật nước ngồi. Trong khi đó, chi phí và thời gian để tìm hiểu
CISG là ít hơn rất nhiều so với luật quốc gia nước ngồi, vì các Ủy ban Tư vấn về
Chính sách thương mại quốc tế-VICC “Việt Nam gia nhập Cơng ước Viên 1980”


10

Tờ trình số 173/Ttr-CP ngày 22 tháng 4 năm 2015 về việc gia nhập Công ước Viên 1980 của Liên Hiệp
Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế


16
doanh nghiệp/luật sư tư vấn có thể tham khảo rất dễ dàng (và miễn phí) các hệ
thống cơ sở dữ liệu vơ cùng phong phú về CISG như đã trình bày ở trên.
Tránh được việc phải sử dụng đến quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế
để xác định luật áp dụng cho hợp đồng. Khi các bên trong hợp đồng không lựa
chọn, hoặc không thể lựa chọn được luật áp dụng cho hợp đồng, cơ quan giải quyết
tranh chấp (tòa án, trọng tài) dẫn chiếu đến quy phạm luật xung đột để chọn một
nguồn luật nhằm giải quyết tranh chấp có liên quan. Quy phạm luật xung đột
thường là khác nhau ở các quốc gia, vì thế, việc áp dụng các quy phạm này thường
dẫn đến tính khó dự đoán trước được về nguồn luật áp dụng, gây khó khăn đáng kể
cho các bên tranh chấp. Đáng lưu ý là CISG chỉ áp dụng nếu các bên trong hợp
đồng khơng có thỏa thuận khác.
Tiếp theo, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một khung pháp lý hiện đại,
cơng bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ
hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh, từ đó có điều kiện cạnh tranh cơng
bằng hơn trên trường quốc tế.
Như đã phân tích trong Phần I, Cơng ước Viên 1980, với 101 điều khoản,
được đánh giá là một nguồn luật hiện đại, phù hợp với thực tiễn kinh doanh quốc tế.
Công ước Viên 1980 đã đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết hầu hết mọi vấn đề
pháp lý có thể phát sinh trong q trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế: giá trị pháp lý, thời hạn hiệu lực của chào hàng, của chấp nhận chào
hàng; quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua; các biện pháp mà một bên có
được khi bên kia vi phạm hợp đồng

Thứ hai, việc gia nhập CISG 1980 sẽ mang lại lợi ích to lớn cho các doanh
nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong vấn đề giải quyết tranh chấp. Trong các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước đây khi Việt Nam khơng phải là một thành
viên của WTO, các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp nhiều bất lợi khi có tranh
chấp xảy ra khi mà pháp luật được lựa chọn để làm nguồn luật giải quyết tranh chấp
thường không phải là pháp luật Việt Nam mà là pháp luật nước ngoài. Điều này gây
cho các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn về cả mặt thời gian lẫn chi phí để có thể
tìm hiểu về pháp luật nước ngồi. Trong khi đó hiện nay, khi mà CISG 1980 đã tự
động phát sinh hiệu lực thì khi có tranh chấp xảy ra, việc nghiên cứu, tìm hiểu các
quy định của CISG 1980 là dễ dàng hơn rất nhiều so với việc nghiên cứu quy định
pháp luật của một quốc gia bởi lẽ nguồn tài liệu tham khảo cho CISG là cực kỳ dồi
dào và phong phú.11

11

/>

17
CHƢƠNG 2
SO SÁNH CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỚI
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ - ĐỀ XUẤT CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1 So sánh nội dung cụ thể
2.1.1 Đề nghị giao kết hợp đồng
2.1.1.1 Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng
Chào hàng: là lời đề nghị giao kết hợp đồng, xuất phát từ phía người bán hay
người mua về một loại hàng hóa nào đó cho một số người, có thể quy định thời hạn
hay khơng quy định thời hạn trả lời.
2.1.1.2 Điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng
Sự khác nhau về những quy định về điều kiện của đề nghị giao kết theo Công

ước Viên 1980 về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và theo pháp luật
Việt Nam được thể hiện cụ thể qua bảng so sánh sau:
Bảng 1
Pháp luật Việt Nam

CISG 1980
 Chào hàng nếu có đủ chính xác và
nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng
muốn tự ràng buộc mình trong trường
hợp có sự chấp nhận chào hàng đó

 Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu
sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề
nghị đối với bên đã được đề nghị
(Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015).

 Một đề nghị là đủ chính xác khi nó
nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về
giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
hoặc quy định thể thức xác định những
yếu tố này.
 Một đề nghị giao kết hợp đồng gửi  Bên được đề nghị đã được xác định.
cho một hay nhiều người xác định. Để
(Điều 386 BLDS 2015)
phân biệt với quảng cáo hay lời mời
chào hàng.
(Điều 14 CISG 1980)



18

Người nhận chào hàng (bên nhận đề nghị giao kết): Ngay tại Khoản 1 Điều 14
CISG có nói “một đề nghị giao kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác
định”, nếu khơng nó sẽ được xem như là một lời mời để thực hiện một đề nghị.
Trường hợp đề nghị được gửi cho nhiều người không xác định rõ danh tính mà
khơng khẳng định đó là một chào hàng (ví dụ quảng cáo, phát tờ rơi), thì đó chỉ
được coi như một lời giới thiệu về chào hàng, sản phẩm, hay một lời mời chào hàng
mà không cấu thành một chào hàng có giá trị pháp lý. Theo Khoản 2 Điều 14 của
CISG, chào hàng gửi đến công chúng khơng được coi như là một chào hàng, vì nó
khơng gửi đến cho một hay nhiều người cụ thể, trừ phi người đề nghị đã phát biểu
rõ ràng điều trái lại. Ví dụ, một “mail order catalogue” có thể được gửi đến một
người cụ thể, nó sẽ được gửi đến những người có thể nhìn thấy “catalogue”.12
Trường hợp đề nghị được gửi đến một hoặc nhiều bên không xác định nhưng
đề nghị đó thể hiện ý chí của người chào hàng xem nó như là một chào hàng thật sự,
thì đề nghị đó đã đáp ứng đủ tính xác định để cấu thành một chào hàng. BLDS 2015
cũng có cách tiếp cận tương tự và công nhận các đề nghị giao kết hợp đồng gửi đến
cơng chúng.
Cịn căn cứ theo BLDS 2015, để được xem là lời đề nghị giao kết hợp đồng và
bên đề nghị chỉ chịu sự ràng buộc về đề nghị của mình “đối với bên đã được xác
định cụ thể”. Thực tế, quy định này có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một
là, lời đề nghị phải được gửi đến bên được đề nghị cụ thể, chứ không phải chung
chung. Hai là, đề nghị khơng gửi đến “đích danh” một chủ thể nào nhưng lời đề
nghị có nêu rõ nội dung và chủ thể được đề nghị.
Khác so với BLDS 2005, Khoản 1 Điều 386 BLDS 2015 quy định “đề nghị
giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc
về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới cơng
chúng”. Có thể thấy rằng với quy định mới này đã lược bỏ cụm từ “cụ
thể”, nghĩa là chỉ cần gửi tới bên đã được xác định, đồng thời mở rộng thêm chủ thể
là “công chúng”. Như vậy, với quy định mới, khái niệm “đề nghị giao kết hợp

đồng” mang tính bao quát và phù hợp hơn cho thực tiễn áp dụng. Bởi cụm từ “cụ
thể” dường như là khơng cần thiết, đồng thời có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau như đã phân tích nêu trên (bài viết của LS. Phạm Anh Tuấn về một số quy
định mới về giao kết hợp đồng theo bộ luật Dân sự 2015).13

12

accessed 17/01/07
/>13


19
Ý định ràng buộc của bên đề nghị: Một trong những yếu tố cần thiết tiếp theo
là “ý định” của bên chào hàng. Thông thường nội dung của một thư chào hàng đã
cho thấy hành động “sẵn sàng” giao kết hợp đồng từ phía đưa ra, đồng nghĩa với
việc họ mong đợi giao kết hợp đồng từ phía đối tác, tức là đã thể hiện rõ ý định giao
kết hợp đồng.
Trên thực tế, ý định của bên đề nghị giao kết có thể được hiểu và kết luận qua
tranh chấp dưới đây: Tranh chấp (computer hardware devices case), [Switzerland 5
December 1995 Handelsgericht [Commercial Court] St. Gallen]. 14
Tóm tắt tình tiết:
Một người mua Thụy Sỹ (người mua) gửi một bản fax khơng có chữ ký đến
cho người bán Đức (người bán) đặt mua ba thiết bị phần cứng máy tính. Người bán
giao hàng hóa đã đặt, nhưng người mua khơng thanh toán. Người bán đã khởi kiện
người mua để yêu cầu thanh toán tiền hàng và tiền lãi phát sinh. Người mua đã cố
gắng từ chối yêu cầu này bằng việc lập luận bằng bản fax mà người mua gửi đi
không thể trở thành một chào hàng có hiệu lực, và vì vậy khơng tồn tại một hợp
đồng hợp pháp giữa các bên.
Phán quyết của Tòa án:
Căn cứ vào Điều 11 CISG, một hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết

hoặc minh chứng bằng văn bản, cụ thể, hợp đồng có thể được minh chứng bởi lời
khai của nhân chứng. Một chào hàng căn cứ vào Khoản 1 Điều 14 CISG được đưa
ra nếu chào hàng “đủ xác định”, ví dụ, khi nếu nó nêu rõ hàng hóa và ấn định những
yếu tố này. Nếu một thỏa thuận, ngay cả thỏa thuận gián tiếp, thiếu đi một trong số
những yếu tố này, thì hợp đồng khơng thể được hình thành. Chào hàng được giải
thích căn cứ vào ý định của người chào hàng.
Vào ngày 3 tháng 12 năm 1990, người mua gửi đến cho người bán một trao
đổi bằng fax, trong đó họ đặt hàng 3 dao máy cắt rập cho hàng may mặc PMC
(PMC blade plotters). Trao đổi bằng fax liên hệ đến một “lệnh giao hàng số 1847ngày 2 tháng 12 năm 1991”, từ đó có thể kết luận rằng việc liên hệ (có thể bằng
điện thoại) nhằm mục đích đặt hàng đã được thự chiện trước đó. Bởi do các điều
khoản “đặt hàng”, “chúng tơi đặt hàng” và “giao hàng ngay lập tức, người nhận có
thể và sẽ phải nhận định rằng, ở góc độ của người phát lệnh đặt hàng, ý định ràng
buộc mình đối với việc mua hàng đã thể hiện rõ. Việc giao hàng được thực hiện và
hóa đơn được gửi đến trong vòng mấy ngày sau. Người mua được ghi nhận là người
gửi fax, với địa chỉ chính xác và số điện thoại, số fax và telex ghi nhận trong bản

14

/>

20
fax. Người bán cũng tham khảo đến người mua về việc các chỉ số của dao cắt máy
rập được gửi địa chỉ của người bán tại St. Galler.
Tòa án đã kết luận rằng theo Điều 14 CISG một lời đề nghị có thể cấu thành
một chào hàng khi nó cho thấy ý định của bên đề nghị tự ràng buộc trong trường
hợp đề nghị được chấp nhận: trong trường hợp trên, ý định ràng buộc của bên đề
nghị được thể hiện trong các điều khoản đặt hàng, “chúng tôi đặt hàng” và “giao
hàng ngay lập tức” có trong fax.
Tính xác định của đề nghị: Một lời đề nghị được coi là đủ chính xác khi lời đề
nghị này nêu rõ hàng hóa, ấn định hoặc xác định số lượng và giá cả một cách trực

tiếp hoặc gián tiếp.
Hàng hóa phải được xác định rõ, không phải tất cả các loại hàng hoá đều được
phép mua bán trong thương mại mà chỉ có những loại hàng hố khơng bị cấm kinh
doanh mới được phép mua bán. Ngoài ra đối với những hàng hố hạn chế kinh
doanh, hàng hố kinh doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi hàng
hoá và các bên mua bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật. Vấn đề này hiện nay được quy định tại một số văn bản sau: Luật thương
mại 2005 tại các điều: Điều 25, Điều 26, Điều 32, Điều 33; Nghị định số: 59/NĐCP ngày 12/06/2006 về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện; Nghị định số: 12/NĐ – CP ngày 23/01/2006 về mua bán,
gia cơng, đại lý hàng hố quốc tế và Thông tư số: 04/TT-BTM ngày 06/04/2006.
Ngay tại Điều 2 của công ước cũng quy định việc không áp dụng vào việc mua bán
một số loại hàng hóa.
Số lượng hàng hóa, đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì cần phải
quy định cụ thể cách xác định số lượng và đơn vị đo lường bởi hệ thống đo lường
của các nước là có sự khác biệt. Đối với những hàng hố có số lượng lớn hoặc do
đặc trưng của hàng hố có thể tự thay đổi tăng, giảm số lượng theo thời tiết thì cũng
cần quy định một độ dung sai (tỷ lệ sai lệch) trong tổng số lượng cho phù hợp.
Giá hàng hóa được ấn định hoặc xác định15. Bên cạnh số lượng và chất lượng
hàng hóa, thì giá hàng hóa cũng phải được ấn định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
xác định. Việc xác định một chào hàng có ấn định một mức giá chính xác cho hàng
hóa hay khơng là vấn đề tạo ra nhiều tranh cãi nhất trong việc áp dụng Điều 14.16

15

Đây là một điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tham khảo bài viết tại

16
/>TkYPI-TNe&sig=bCSlNhIpIfVIx5lhcz5rDKlv0Ls&hl=vi&sa=X&ved=0CEYQ6AEwBWoVChMIi-2S-



×