Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

TỔNG hợp những bài văn mẫu chuyên sâu – ngữ văn 12 ôn THI đại học mới HAY NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.48 KB, 96 trang )

Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

TÂY TIẾN – Quang Dũng
Đề 1:
Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Anh/chị hãy cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính qua đoạn
thơ trên. Từ đó nhận xét về bút pháp tài hoa lãng mạn của nhà thơ.
BÀI LÀM
Nói về Quang Dũng là nói về một người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ. Bạn bè đồng
chí thường trầm trồ thán phục trước tài năng nhiều mặt của ông. Khơng chỉ hát hay,
đàn giỏi mà ơng cịn sáng tác nhạc, vẽ tranh và viết kịch. Đặc biệt, trong những giây
phút thăng hoa của tâm hồn, Quang Dũng cũng có những bài thơ để đời như “Tây
Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đơi bờ” và nhiều tác phẩm truyện, kí khác…
Chính bởi sự đa tài ấy mà hồn thơ Quang Dũng cũng mang nét riêng độc đáo. Đó là
một tâm hồn thơ bay bổng lãng mạn, phóng túng và tài hoa. Đọc thơ của Quang Dũng
, ta như vừa nghe giai điệu ngân vang của một nhạc phẩm, vừa tưởng thấy sắc màu và
đường nét của một bức họa. Lại vừa cảm cái chân tình, sâu sắc của đời lính. Tất cả
quyện hòa nhuần nhuyễn mà tự nhiên, sinh động mà sâu lắng. Đặc biệt, ở những bài
thơ viết về người lính của ơng. Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, cũng là
một trong những sáng tác hay nhất viết về người lính thời chống Pháp của văn học
dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu đoạn đầu bài thơ: Nỗi nhớ về những chặng đường
hành quân qua miền Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, gian nan vất nhưng khơng kém phần
thơ mộng mà ấm áp tình người.
Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xơi.


Với cảm xúc nhớ nhung, hồi niệm chân thành mà sâu sắc,những hình ảnh thơ
gợi về từ miền kí ức khơng xa với đồn binh Tây Tiến, một đơn vị quân đội chống
Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi ông từng gắn bó gần hai năm vào sinh ra tử, và với
tâm hồn lãng mạn hào hoa, Quang Dũng đã viết nên bài thơ “ Nhớ Tây Tiến” , Sau
đổi thành “Tây Tiến”. Bài thơ in trong tập thơ “Mây đầu ơ”.
Cả bài thơ gồm có 4 đoạn thơ, mạch cảm xúc là nỗi nhớ của nhà thơ về “Tây
Tiến” từ những chặng đường hành quân gian khổ đến những lúc dừng chân nghỉ ngơi
và cả khi đau đớn tột cùng trước những hi sinh mất mát của đồng đội mình, và kết lại
bài thơ là lời thề gắn bó với mảnh đất thiêng liêng Tây Bắc.
Bài thơ được viết năm 1948 khi Quang Dũng đã rời xa đoàn quân Tây Tiến,
một đơn vị quân đội chiến đấu chống Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi mà ông đã gắn
bó hai năm trên cương vị đại đội trưởng. Mới chỉ rời đơn vị không lâu, ngồi tại Phù
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

1


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Lưu Chanh, nỗi nhớ về Tây Tiến, về mảnh đất và con người nơi ấy đã thôi thúc nhà
thơ cầm bút viết lên những vần thơ đầy xúc động.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Dòng hồi tưởng đưa Quang Dũng trở về với những kí ức xa xưa: về những cung
đường chiến đấu, về đồng đội của mình… Mỗi kí ức là một mảng ghép tạo thành bức
tranh đa sắc màu về miền nhớ “Tây Tiến” thân thương. Khởi đầu của nỗi nhớ là hình
ảnh sơng Mã hiện ra vừa thơ mộng, trữ tình nhưng cũng vừa ẩn chứa nét hoang sơ, dữ
dội, một dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính, trở thành

chứng nhân lịch sử, thành kỉ niệm trường tồn của những ngày tháng chiến đấu và hi
sinh. Nhớ về sơng Mã là nhớ về đồn qn Tây Tiến, hai tiếng thân thương ấy vang
lên đầy tha thiết trong dòng cảm xúc nhớ nhung đầy tiếc nuối! Các từ “rồi”, “ơi” đặt
cuối mỗi cái tên được xướng lên nghe như da diết ngân vang, xúc động lòng người.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về núi rừng hoang sơ, địa bàn hoạt động của đoàn
binh. Nhà thơ điệp lại hai lần từ “nhớ” trong một câu thơ như tô đậm cảm xúc bao
trùm toàn bài thơ. Và đặc biệt, Quang dũng đã diễn tả thật chính xác cảm giác nhớ
nhung trong lịng mình. Khơng phải là cái nhớ đến cồn cào da diết trong tình u,
cũng khơng phải là cái nhớ thương khắc khoải của người vợ ngóng chồng nơi biên ải,
cũng chẳng phải cái nhớ bồn chồn, bâng khuâng trong tình qn dân son sắt. dó là nỗi
nhớ chơi vơi. Một nỗi nhớ dàn trải miên man, lan tỏa qua khơng gian, thời gian, làm
chênh chao lịng người và ám ảnh tâm trí. Dường như khơng gian mênh mơng quá,
lòng người trống trải quá mà nỗi nhớ tan hòa khó chế ngự đến vậy. Theo dịng kí ức
cịn tươi màu thời gian ấy, những cái tên gắn liền với chặng đường hành quân của
những chiến binh tây Tiến hiện ra: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Lng
…Đó từng là những địa danh xa lạ, đầy bí hiểm của chốn rừng thiêng nước độc đối
với những chành trai Hà thành giờ đã trở thành một phần kỉ niệm không thể nào
quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Con đường hành quân hiện lên với đầy thử thách, hiểm nguy. Đó là kỉ niệm về
những ngày hành quân xuyên qua sương mù giăng kín lối, những đêm ngang qua bản
Mường Lát hoang sơ, huyền ảo “hoa về trong đêm hơi”. Và dấu chân người lính đã
in trên cả những sườn đèo dốc núi nhiều hiểm nguy mà không kém phần thơ mộng:
Dốc lê khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ được tạo bởi những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” rồi các từ
ngữ đối lập “ngàn thước lên cao” và “ ngàn thước xuống ” như những nét vẽ đầy gân

guốc tái hiện chân thực sự hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Càng thấu hiểu những
gian khổ hiểm nguy trên đường hành quân ta càng thấy cảm phục ý chí kiên cường
của những chàng lính trẻ Hà Thành, họ luôn dũng cảm vượt núi băng rừng với “bước
chân nát đá” tiến lên phía trước tiêu diệt quân thù.
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

2


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Không chỉ cứng cỏi bản lĩnh mà giữa không gian thơ mộng của núi rừng với
“heo hút cồn mây”, mưa“mưa xa khơi”, những chàng trai hào hoa ấy ln mở lịng
đón nhận và say mê thưởng ngoạn. Vượt qua được trăm suối nghìn đèo là phút giây
tân hưởng cảm giác được chế ngự thên nhiên, đứng trên đỉnh cao và thả hồn bay bổng
cùng trời mây. “Súng ngửi trời” – mũi súng chạm đến mây xanh, một hình ảnh thơ
thật độc đáo, vừa gợi được thế đứng trên cao của người lính, như chiếm lĩnh khơng
gian, vừa gợi đến cách nhìn hóm hỉnh, lạc quan của tâm hồn người lính. Như hình
ảnh “đầu súng trăng treo” đầy ấn tượng trong thơ Chính Hữu. Tâm hồn người lính cụ
Hồ là như thế, coi thường mọi gian nguy, và luôn lãng mạn yêu đời.
Trong hai cặp câu thơ trên, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hài thanh thật điêu
luyện. Những câu thơ nhiều thanh trắc diễn tả cái hiểm trở của địa hình được đan xen
khéo léo đầy ý nghĩa với những câu thơ có nhiều thanh bằng, miêu tả khơng gian lãng
mạn, huyền ảo của núi rừng Tây Bắc. Người đọc như đang cảm thấy rõ lắm cái vị
mặn của mồ hôi, của nước mắt, của máu đã thấm trên từng dãy đá tai bèo sắc nhọn,
trên từng đèo dốc treo leo. Người đọc cũng như đang cảm thấy rõ lắm tiếng thở phào
nhẹ nhõm, thảnh thơi hịa vào gió ngàn heo hút, hình dung rõ lắm ánh mắt ngỡ ngàng
thích thú của những chiến sĩ khi chạm tới mây trời và ngắm “nhà ai” ẩn hiện trong làn

mưa xa khơi. Thật sinh động vô cùng.
Trong lá thư của Đại Tướng Võ Ngyên Giáp gửi các chiến sĩ Tây Tiến trước
khi lên đường có đoạn: “Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi
rừng xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một
người… Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hy sinh,
cái lịng kiên nghị của các đồng chí. Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này phải
đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Nhưng sự hiểm nghèo, khổ sở có bao giờ
chinh phục được lịng anh dũng của những thanh niên hăng hái, có bao giờ chinh
phục được chí hướng của một dân tộc...". Quang Dũng cũng đã diễn tả những hiểm
nguy, gian khổ bằng những câu thơ đầy ám ảnh:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chốn thâm sơn cùng cốc ấy, “Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” ln có những âm thanh
ghê rợn, đó là tiếng thác gầm thét, tiếng bước chân, tiếng gầm của những con thú khát
máu. Chỉ mới nghĩ đến thơi đã đủ khiến lịng người hoang mang, sợ hãi.
Những khó khăn, hiểm nguy bủa vây, dọa dẫm, trêu ngươi suốt ngày đêm. Vậy
mà, lính Tây Tiến vẫn kiên cường đối mặt để hồn thành nhiệm vụ được giao. Dẫu
cịn nhiều hi sinh mất mát.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...
Câu thơ gợi lên cái mệt mỏi của những bước chân hành quân bởi âm điệu kéo dài của
các từ “dãi dầu”, “nữa”. Đó là hiện thực đau đớn của chiến trường miền Tây. Chiến
đấu trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề, thậm chí có những lúc
Tài liệu ơn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

3


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12


2022

phải nhịn đói cả ngày dài thì sự hi sinh là khơng tránh khỏi. Nhưng, cách Quang
Dũng nói về cái chết của đồng đội mình “gục lên súng mũ bỏ quên đời” khiến ta ngỡ
như đó chỉ là một phút nghỉ ngơi lấy lại sức thôi, vẫn trong hàng ngũ, vẫn súng mũ
bên mình. Đọc đến câu thơ này, nhiều cựu chiến binh Tây Tiến đã khơng thể cầm
lịng, bởi thực tế, có những đồng đội hi sinh khơng thể chơn cất bởi địa bàn xung
quanh toàn núi đá tai bèo. Mỗi chiến sĩ đi qua chỗ đồng đội nằm lại chỉ kịp đặt xuống
một viên đá để che thân cho bạn. Họ bị ám ảnh bởi những cái chết lặng thầm đơn
độc. vì họ hiểu hơn ai hết về sự hi sinh của đồng đội mình. Cái chết đến nhẹ nhàng,
thầm lặng mà sao nghe nhói lịng!
Với bao nhiêu kí ức hiện về, Cảm xúc thơ Quang Dũng lại một lần nữa tuôn trào
thành tiếng gọi “Tây Tiến” thiết tha, trìu mến:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Đối lập với thiên nhiên khắc nghiệt hiểm trở là một khơng gian n bình ấm áp của
những bản làng đọng lại trong nỗi nhớ của nhà thơ. Đó là cơm lên khói, là “thơm nếp
xơi” tỏa lan khắp không gian, hương vị của sự đủ đầy, ấm no trong mái ấm gia đình,
nó như an ủi, động viên, như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trẻ xa nhà.
Hương vị của Tây Bắc cũng là sự thơm thảo của lịng người nơi ấy, nó hiện về trong
nỗi nhớ của bất kì ai đã từng lên với Tây Bắc: Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có
lịch /Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương. (Chế Lan Viên)
Câu thơ cuối có kết hợp từ thật lạ. “Mùa em” Phải chăng đó khơng chỉ là mùa
của xơi nếp mới, mùa của sự đủ đầy vật chất, mà đó còn là mùa của yêu thương, lãng
mạn, mùa của sự sẻ chia tình nghĩa. Có thể, “Mùa em” đã trở thành một mùa đặc biệt
được mong đợi nhất đối với những chàng lính hào hoa, nhiều mơ mộng ấy. Bằng nỗi
nhớ và tình yêu chân thành mà sâu sắc với Tây Bắc, Quang Dũng đã thi vị hóa những
kỉ niệm, khiến chúng trở nên đẹp đẽ lung linh lạ thường!
Đọc thơ Quang Dũng, ngay những dòng đầu, độc giả đã thấy toát lên phong vị
của cái tài hoa lãng mạn. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, khoang sơ đến rùng mình

nhưng qua ngịi bút của chàng trai có tâm hồn lãng mạn, nhiều mộng mơ bỗng trở nên
lung linh huyền ảo. Núi rừng Tây Bắc được khắc họa bởi những nét vẽ vừa gân guốc
cứng cỏi, vừa mềm mại uyển chuyển của nhà thơ tạo nên nét riêng thật độc đáo.
Khơng phải chỉ bởi Quang Dũng vốn đa tài, có năng khiếu hội họa, âm nhạc mà còn
bởi tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu mảnh đất hùng thiêng của một con người đã từng
gắn bó máu thịt với nơi ấy đã quyện hòa làm nên phong cách tài hoa lãng mạn ấy.
Tóm lại, qua mười bốn câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến, tác giả đã phác họa
thành công bức tranh thiên nhiên hồnh tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ
can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh...”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến
mà sự thành cơng là ở sự kết hợp hài hịa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn. Gần một thế kỉ đã trôi qua mà bài thơ vẫn giữ được giá trị trường tồn trong lòng
độc giả nhiều thế hệ.

Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

4


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Đề 2:
Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
"Doanh
trại
bừng
lên
hội

đuốc
hoa
...
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét riêng trong phong cách
sáng tác của nhà thơ.
BÀI LÀM
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống MĨ, ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng
thành công nhất là thơ. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một nhà thơ “xứ Đoài mây
trắng”, Quang Dũng đã sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “Tây
Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”, Mây đầu ô, Quán bên đường…Trong đó
tiêu biểu nhất là bài thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm hấp dẫn người đọc không chỉ ở cảm
xúc thơ chân thực sâu lắng của tình đồng chí đồng đội, mà nó cịn gợi về trong tâm trí
độc giả hình ảnh một miền đất xa xôi, hoang dại nhưng thơ mộng vô cùng, nơi ấy lưu
dấu những kỉ niệm không thể nào quên của một đoàn quân đã trở thành huyền thoại:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
...
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
Cất chân ra đi từ mảnh đất Hà Thành, nơi phố thị phồn hoa, những chàng trai
vừa đủ tuổi trưởng thành vốn chỉ quen với đèn sách bút nghiên, đã vượt cả trăm cây
số lên bảo vệ biên giới miền Tây Bắc của Tổ quốc. Những chặng đường hành quân
qua vực sâu núi thẳm, băng qua mưa bom bão đạn kẻ thù, và cả khi đối diện với
thiếu thốn, với bệnh tật… tất cả đều đó khơng làm vơi đi ý chí, nghị lực phi thường
của những chiến binh vệ trọc . Các anh vẫn giữ được tâm hồn lạc quan u đời, vẫn
ln mở lịng đón nhận những rung động đẹp đẽ từ những khoảnh khắc đầm ấm vui
tươi trong những đêm hội dã chiến, hay cảnh sơng nước n bình, lãng mạn ở chốn
thâm sơn cùng cốc ấy.
Không nhớ sao được những phút giây sôi nổi cùng nhau trong đêm liên hoan

ngập tràn ánh đuốc:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Câu thơ như làm bừng sáng cả không gian, xua đi cái u uất, tịch mịch của núi
rừng, xóa tan cái mệt mỏi dãi dầu trong mỗi bước hành quân của người lính. Động từ
“bừng” trong câu thơ đầu đoạn không chỉ diễn tả sự vận động nhanh, rộng khắp và
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

5


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

đầy bất ngờ của ánh sáng, mà còn gợi được cái háo hức của lòng người, gợi những
ánh mắt lấp lánh niềm vui với nụ cười rạng rỡ. Đêm hội liên hoan được tổ chức,
không phải tiệc rượu tưng bừng, không có đèn xanh pháo đỏ nhưng cũng đủ làm lịng
người náo nhiệt bởi ánh sáng của đuốc, sắc màu rực rỡ của những bông hoa vừa được
chọn hái giữa rừng. Chỉ một nét phác họa mà gợi cả hình, cả tiếng, cả cái rộn ràng
háo hức của lòng người, đủ cho thấy chất tài hoa nghệ sĩ của Quang Dũng!
Trong khơng khí vui tươi ấy, ta mường tượng như đang được chứng kiến từ
giây phút đầu tiên khi ánh đèn sân khấu bừng lên, những diễn viên bất ngờ xuất hiện
với xiêm y lộng lẫy:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Các cô gái Tây Bắc với trang phục biểu diễn rực rỡ như những bông hoa tươi
tắn của núi rừng bước ra sân khấu mang đến hương sắc ngọt ngào, say đắm lan tỏa
khắp nơi khiến những chàng lính trẻ Hà Thành khơi khỏi ngỡ ngàng, háo hức “Kìa
em”.
Những chàng lính đi từ ngỡ ngàng này đến ngạc nhiên khác, họ bị cuốn hút bởi
giai điệu man dại của tiếng khèn vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối

reo, của chim kêu, vượn hót.
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng
loại nhạc cụ này trong các dịp lễ hội, đó là tiết mục văn nghệ đặc sắc mang nét riêng
trong đời sống tinh thần của người dân Tây Bắc.
"Vang vọng núi rừng tíếng khèn gọi bạn
Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô đen."
Cùng với sự khỏe khoắn, dũng mãnh của những chàng trai trong điệu múa
khèn là hình ảnh những cơ gái yểu điệu dịu dàng, e ấp dun dáng trong điệu múa
xịe ơ khiến người xem ngây ngất, đắm say. Khơng khí đó đã xua tan mọi muộn
phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để
tiếp tục chặng đường đầy khó khăn phía trước. Phải chăng, bởi vậy mà câu thơ cuối
khổ đọc lên nhẹ nhàng bay bổng làm sao: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Dường
như tâm hồn chiến sĩ như đã cất cánh - thăng hoa.
Nhớ về những phút giây yên bình lãng mạn không thể không nhớ đến cảnh
sông nước hữu tình vùng Tây Bắc xa xơi.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ "
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng
vĩ dữ dội ở khúc thượng nguồn sông Mã. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc
được mở ra, khơng cịn cái gân guốc, hiểm trở của sườn đèo dốc đá mà cảnh vật trở
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

6


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022


nên thơ mộng trữ tình biết mấy. Cả khơng gian núi rừng Châu Mộc được bao phủ bởi
làn sương mỏng manh lãng đãng, khiến cảnh sắc thêm lung linh huyền ảo, vừa như
thực vừa như mơ, gợi nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người ra đi. Xuân Diệu
cũng đã từng bị cái khơng gian sương khói ấy làm cho thẩn thơ: “Sương nương theo
trăng ngừng lưng trời – Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
Trong buổi chiều sương trên vùng sơng nước Mộc Châu tâm hồn người chiến
sĩ cịn nặng tình vương vấn với “hồn lau nẻo bến bờ”. Vạn vật như hữu linh, lịng
người sao nỡ vơ tình!
Hai câu thơ cuối là nỗi nhớ về hình bóng con người hịa quyện cùng thiên
nhiên thơ mộng:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ vững trãi mà dun dáng,thướt tha hài
hịa trong vẻ đẹp của sơng nước mênh mơng. Trên dịng sơng ấy, những cánh hoa
khơng bị dập vùi mà nương theo dòng nước lũ, đong đưa như làm duyên làm dáng,
bồng bềnh
Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn
của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa,
dòng lũ cuộn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập
hồn tồn nhưng lại hài hịa, nên thơ.Bút pháp gợi mà khơng tả với những nét vẽ cách
điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lơi cuốn
người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích.
Khi bàn về nét riêng trong phong cách sáng tác của Quang Dũng qua “Tây
Tiến”, Giáo sư Hà Minh Đức có nhận xét, “Bài thơ được viết ra với những màu sắc
thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị
nên thơ của cuộc sống nơi bản làng q hương, có cảm hứng mạnh mẽ hịa hợp với
chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc
điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu
riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên

thơ và gợi cảm”. Và, độc giả dễ dàng nhận thấy một nhạc điệu du dương, tình tứ ngân
vang, trải dài khắp không gian nỗi nhớ từ đêm hội liên hoan đến cảnh sông nước
miền Tây thơ mộng ấy. Nét riêng đầy lãng mạn hào hoa ấy ít thấy trong nhiều bài thơ
viết về người lính cùng thời như Đồng chí (Chính Hữu), “Cá nước” (Tố Hữu)…
Có thể nói, qua tám câu thơ đậm đà chất thơ, chất họa, chất nhạc, người nghệ sĩ
tài hoa Quang Dũng đã khắc họa thật đẹp những kỉ niệm buổi sinh hoạt văn nghệ đầm
ấm và cảnh sơng nước hữu tình khiến lịng người mê đắm. Qua đoạn thơ, ta không
chỉ thấy vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, lạc quan yêu đời của những chàng vệ trọc mà cịn
thấy được cái tình trong từng nét vẽ, câu thơ của Quang Dũng. Quả thực nhà thơ luôn
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

7


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

ngưỡng mộ và yêu tha thiết những kỉ niệm gắn bó cùng đoàn quân Tây Tiến. Độc giả
cũng trân trọng hơn những rung cảm đẹp đẽ của hồn thơ Quang Dũng và yêu thêm
mảnh đất và con người Tây Bắc kiên cường.
Đề 3:
“Tây
Tiến
đồn
binh
khơng
mọc
tóc
Qn

xanh
màu

dữ
oai
hùm
Mắt
trừng
gửi
mộng
qua
biên
giới
Đêm


Nội
dáng
kiều
thơm
Rải
rác
biên
cương
mồ
viễn
xứ
Chiến
trường
đi

chẳng
tiếc
đời
xanh
Áo
bào
thay
chiếu,
anh
về
đất
Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ trên. Từ đó nhận
xét về sự quyện hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông
là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là
thơ. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một người con “xứ Đoài mây trắng”, Quang
Dũng đã sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “ Mây đầu ô”, “Thơ
văn Quang Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ khơng là dịng
cảm xúc nhớ nhung của Quang Dũng về mảnh đất Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội
với biết bao kỉ niệm gắn bó. Ấn tượng sâu đậm nhất trong dịng cảm xúc ấy là hình
ảnh những người lính Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào hoa:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm
vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt –Lào.
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

8


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, những chàng
trai hào hoa thanh lịch, lãng mạn yêu đời. Lên với chiến trường Tây Bắc, họ phải đối
mặt với bao khó khăn thử thách, nhưng vẫn ln ngời sáng một ý chí, một tinh thần
chiến đấu dũng cảm kiên cường. Quang Dũng gắn bó cùng đoàn quân Tây Tiến từ
những ngày đầu thành lập trên cương vị Đại đội trưởng, anh yêu thương và cảm phục
sâu sắc những chiến sĩ trẻ đầy quả cảm của đoàn quân. Cuối năm 1948, khi rời đơn vị
cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, vì rất nhớ đồn qn, Quang Dũng đã viết bài thơ
“Nhớ Tây Tiến, sau đổi tên thành “Tây Tiến” (in trong tập thơ “Mây đầu ô”).
Hai tiếng thân thương “Tây Tiến” được nhắc đến trong bài với thật nhiều cảm
xúc, khi thì đầy nuối tiếc, luyến lưu “Tây Tiến ơi!”, lúc lại da diết cồn cào: “nhớ ôi
Tây Tiến”, và cái tên “Tây Tiến” lúc này được gọi lên đầy kiêu hãnh tự hào:
“ Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn
cảm thấy trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng
của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh khơng mọc tóc”, “ Qn xanh màu lá”, tương
phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”,

“Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu
lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên
ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “
Tam qn tì hổ khí thơn Ngưu” là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần. “ Quân
xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong
chín năm kháng chiến chống Pháp.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lí tưởng sống của những chàng lính thật đẹp. Họ ln biết dung hịa giưa
mộng và mơ. Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng để giữ bình n cho xóm làng.
Tâm thế ln sẵn sàng chiến đấu và lập công, “ mắt trừng” . Cịn mỗi đêm khuya, lại
đắm mình trong những ước mơ thật đẹp :“Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng
kiều thơm” đã diễn tả thật “ đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh
Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn hiến, giữa khói lửa chiến trường
vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng
kiều thơm”. Ngịi bút của Quang Dũng biến hố, lúc bình dị mộc mạc, lúc lại mộng
ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của một hồn thơ chiến sĩ.

Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

9


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh
tráng liệt của những anh hùng vơ danh trong đồn qn Tây Tiến.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ
quốc. Đó là những cái chết lặng thầm, đơn độc và lạnh lẽo vô cùng. Bởi đồng đội vẫn
tiếp tục hành quân, còn các anh nằm lại nơi biên cương, miền viễn xứ - đất khách quê
người. Cả câu thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt khiến giọng điệu thơ trang trọng cổ
kính, khiến những nấm mồ hoang dại, đơn độc trở nên thiêng liêng, nhưng cũng
không tránh khỏi nỗi xót xa, thương cảm trong lịng người đọc.
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hình ảnh “áo bào” xuất hiện trong câu thơ khiến cái chết của các anh trở nên
oai hùng, bi tráng lạ thường, tưởng như đó là phút sa cơ của người dũng tướng của
một thời hào khí Đơng A. Nhưng sự thật đau lòng là khi nằm xuống, tấm quần manh
áo cịn khơng lành lặn huống chi là áo bào. Quấn thân các anh có thể chỉ là tấm vải dù
che mưa che gió. Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; n nghỉ trong
lịng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. Sự ra đi thật nhẹ nhàng mà lịng người ở lại trĩu nặng
nỗi xót xa.
Cả đồn qn lặng đi, chỉ cịn nghe thác sơng Mã thay tiếng của hồn thiêng
sông núi, tiếng của đồng bào, của Tổ quốc “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời,
vừa đau đớn vừa uất nghẹn căm hờn. “Khúc độc hành” vừa là khúc hát tiễn đưa hồn
tử sĩ, vừa là khúc hát lên đường đầy thiêng liêng, bi tráng .
Có người cho rằng, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền
thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vơ danh.
Quả thực vậy, nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nơng dân
mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng
vĩ uy nghiêm và đầy bi tráng về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi mở cõi”
dũng cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Đó là
vẻ đẹp riêng độc đáo làm nên huyền thoại về một đồn binh khơng mọc tóc thủa nào!
Trong thơ Quang Dũng, hiện thực khốc liệt của chiến tranh được nói đến thẳng thắn,
khơng hề né tránh, nhưng cách mà nhà thơ nhìn nhận và biểu đạt trong từng câu thơ

dù có đau thương chết chóc nhưng khơng khiến người đọc cảm thấy bi quan, buồn
chán, mà trái lại, hiện thực chỉ càng thổi bùng lên ý thức đấu tranh địi sự sống, cùng
tình u và sự tơn vinh đẹp đẽ hào hùng. Bởi vậy mà hình tượng tập thể anh hùng
Tây Tiến hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng mang vẻ đẹp hào hùng, bi tráng,
khơi gợi cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào nhiều hơn là cảm xúc xót đau, thương cảm.
Tài liệu ơn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

10


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Nhìn chung, đoạn thơ trên đã thể hiện thật rõ nét cốt cách và bút pháp lãng
mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại
một cách cao đẹp” thì đoạn thơ đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã
mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những
năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca
kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

VIỆT BẮC – Tố Hữu
Đề 4:
Mười
Mình
Nhìn

Mình
lăm


về
năm
về

cây

nhớ

mình
ấy
mình
núi,

thiết

nhìn



nhớ
mặn

tha
nhớ
sơng

nhớ

ta?
nồng.

khơng?
nguồn.

Tiếng
ai
tha
thiết
bên
cồn
Bâng
khng
trong
dạ,
bồn
chồn
bước
đi
Áo
chàm
đưa
buổi
phân
ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về chất trữ tình – chính trị trong
ngịi bút thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng

mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc
dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dịng kí ức về
giờ phút chia tay đầy bịn rịn lưu luyến của kẻ ở người đi:
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng?
Tài liệu ơn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

11


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến
dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan
trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm
gắn bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này.
Mạch thơ tn trào theo dịng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với
mảnh đất và con người Việt Bắc mà khởi nguồn là giây phút chia li thật xúc động
nghẹn ngào.

Chúng ta đã từng có những áng văn chương lớn nói về những cuộc chia ly làm
não lịng nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Đó là giọt nước mắt chia li của người
chinh phụ tiễn chồng ra biên ải (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Cơn); đó là phút tử
biệt “một giã gia đình một rửng rưng” của người chiến sĩ bước vào khói lửa đạn bom
(Tống biệt hành – Thâm tâm); hay đó là cuộc chia li “chói ngời sắc đỏ” của người vợ
xa chồng trong khánh chiến chống Mĩ...Thế nhưng, có một cuộc chia li không thấm
đẫm nước mắt, không nhuốm màu tử biệt đã đi vào lịch sử, đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng của dân tộc. Không phải là cuộc chia li chồng vợ hay của đơi trai gái
chung tình, mà buổi tiễn chân bộ đội miền xuôi về với thủ đơ vẫn nghe sao thật tình
tứ, mặn nồng.
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lịng đầy băn khoăn trăn trở về
tình cảm của người ra đi. Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại ln
có tâm trạng nặng nề hơn, vừa phải đối diện với một khơng gian trống trải, thiếu vắng
bóng người, vừa luyến tiếc những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi có còn nhớ ta
chăng?
Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao “mình về có nhớ ta chăng? – Ta về ta nhớ
hàm răng mình cười”, với lối xưng hơ “mình – ta” ngọt ngào, đằm thắm như đôi trai
gái yêu nhau đã khơi gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người về xuôi:
Người về chốn thị thành phồn hoa, có cịn nhớ đến ta?
Vừa khơi gợi cảm xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó
mười lăm năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc
đến khoảng thời gian đằng đẵng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao kỉ niệm về những
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

12


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12


2022

gian khổ, thiếu thốn “ta” và “mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn nồng” bền chặt,
keo sơn và luôn in dấu trong lịng người ở lại.
Kỉ niệm khơng chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà cịn được
nhắc nhớ qua khơng gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
Mình về mình có nhớ khơng?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.
Câu thơ vẽ lên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, khơng gian đã từng gắn
bó một thời gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở thành không gian
của nỗi nhớ. Nhà thơ đã sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở hai vế “nhìn – nhớ” để
nhấn mạnh và khắc sâu những diễn biến sẽ có trong tâm trí người ra đi. Núi rừng,
sông suối nơi Việt bắc sẽ trở thành một phần kí ức của bộ đội miền xi, để khi về lại
thủ đơ, mỗi lần nhìn “cây” nhìn “sơng” ở nơi ấy sẽ gợi nhắc về không gian “núi”,
“nguồn” chốn thượng ngàn. Câu thơ bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng người đi và ngâmd
ẩn một lời nhắc nhớ ngườ đi gìn giữ tấm chân tình: đừng vì hồn cảnh sống thay đổi
mà quên những ngày tháng đồng cam cộng khổ ở Việt Bắc thân thương.
Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lòng nhớ nhung, trăn trở của người ở lại,
ta khơng chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc dành cho cán
bộ miền xi, mà cịn thấy được sự trân trọng, nâng niu những kỉ niệm buồn vui suốt
mười lăm năm gắn bó của họ.
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng định
tình cảm của mình bằng những câu thơ đầy xúc động:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Nếu như Việt Bắc băn khoăn “mình về mình có nhớ…” thì đây chính là lời khẳng
định chắc chắn về nỗi nhớ, về tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc trong sự

đồng điệu tâm hồn. Người đi không chỉ nhớ mà cịn khắc ghi sâu đậm trong tâm
khảm “tiếng” và “hình” của người ở lại. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến đối tượng của
nỗi nhớ trở nên bao quát hơn và thi vị hơn, bởi nó khiến câu thơ mang dáng dấp
những câu dân ca ngọt ngào, tình tứ: “ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai, ai nhớ, bây
giờ nhớ ai”. Bởi đã gắn bó rất lâu nên tiếng nói của người Việt Bắc đã trở thành đối
tượng sâu đậm đầu tiên của nỗi nhớ. Thứ thanh âm “tha thiết” quen thuộc mang đặc
trưng của vùng miền đã gieo vào lòng người đi nỗi “bâng khuâng” vừa buồn vui, vừa
luyến nhớ, khiến bước chân trở nên “bồn chồn”, bởi lịng ngổn ngang nỗi nhớ, chùng
chình nửa ở nửa đi! Trong hai câu thơ lục bát, tác giả sử dụng đến ba từ láy “tha
thiết”, bâng khuâng”, “bồn chồn” để diễn tả trạng thái cảm xúc đang trào dân và luôn
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

13


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

thường trực của người ra đi. Lời đáp phải chăng đã giải đáp thỏa đáng nỗi niềm băn
khoăn của đồng bào Việt Bắc?
Tiếp theo trong lời đáp ấy, nhịp thơ thay đổi, khiến câu thơ như bẻ đôi, chia li,
cách biệt:
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Từ nhớ tiếng sang nhớ hình. Một nét ấn tượng nữa trong tâm trí người đi đó lại là
hình ảnh của chiếc áo chàm quen thuộc, đặc trưng cho lối ăn mặc của người Việt Bắc.
Mượn hình ảnh hốn dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc, người ra đi đã bộc lộ
một nỗi niềm thương nhớ và yêu mến cái chất phác, giản dị toát ra từ cái sắc trầm bền
bỉ, sắc son ấy. Cùng với hình ảnh đồng bào Việt Bắc, hành động “cầm tay” cũng để

lại ấn tượng thật sâu sắc. cái nắm tay thật giản đơn, mộc mạc thơi mà chất chứa bao
ân tình, hơn ngàn vạn lời nói. Qua cái nắm tay, người đi cảm nhận được hơi ấm, niềm
tin yêu, cảm nhận được tâm tư, tình cảm của người ra đi. Cách ngắt nhịp 3/3/2 của
câu thơvà dấu chấm lửng cuối dòng đã tạo nên những khoảng lặng trong cảm xúc
người ở kẻ đi. Đó là những giây phút nghẹn ngào khơng nói nên lời, chỉ biết nắm tay
nhau thật chặt để níu lại những thương yêu. Thật xúc động biết bao!
Bốn câu thơ đáp lời người ở lại của cán bộ miền xi bằng tình cảm chân thành
và sâu nặng đã thực sự làm n lịng người ở lại. Dù khơng dùng đến một từ “nhớ”,
nhưng nỗi nhớ tràn ngập bốn dòng thơ và xâm lấn trong tâm hồn, trong chiều sâu cảm
xúc của người ra đi. Tình cảm ấy cũng thủy chung son sắt, đậm đà tha thiết lắm thay!
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng thơ Tố Hữu là thơ của thứ tình cảm lớn,
niềm vui lớn, cảm xúc thơ ln gắn liền với những sự kiện chính trị quan trọng có ý
nghĩa cộng đồng. Nhưng phải nhận thấy một điều rằng, dù là đề cập đến nội dung
chính trị nhưng rất gần gũi, giàu cảm xúc mà không hề khơ khan giáo điều. Đoạn thơ
nói tái hiện khung cảnh chia tay trong thời khắc lịc sử quan trọng của đất nước giữa
đồng bào Việt Bắc và bộ đội miền xuôi mà nghe như cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn
rịn của đôi trai gái yêu nhau vậy. Thật lãng mạn và thắm thiết tình người.
Qua tám câu thơ đầu, bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao dun “ta”“mình”, kết hợp với việc sử dụng những ngơn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm
mà mộc mạc chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật khung cảnh chia tay đầy lưu luyến
giữa bộ đội miền xuôi và Việt Bắc. Đoạn thơ cũng góp phần ngợi ca vẻ đẹp trong tâm
hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó. Bằng việc
sử dụng khéo léo, tài tình ngơn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ
chính trị, khiến tình quân dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần làm
nên thành cơng của tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một
thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

14



Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Đề 5:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố
Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng thể hiện một tấm lòng
tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng của nhà thơ nói riêng, của bộ đội miền xi
nói chung với mảnh đất và con người Việt Bắc. Lịch sử đã sang trang, mà mỗi lần
đọc lại đều rưng rưng rưng xúc động:

- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

15


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Mười lăm năm đi hết cuộc đời trai trẻ, mười lăm năm gắn bó với thượng ngàn
heo hút, biết bao kỉ niệm vơi đầy, người thi sĩ - chiến sĩ ấy làm sao không lưu luyến
khi rời xa? “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Tháng 10 năm
1954, nhà thơ theo cơ quan trung ương, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp
quản thủ đô sau khoảng thời gian dài đã đồng cam cộng khổ cùng mảnh đất và con
người Việt Bắc, trong giây phút chia tay đầy lưu luyến và dạt dào xúc cảm, Tố Hữu
đã viết bài thơ Việt Bắc. Những kỉ niệm cứ ùa về như dịng thượng nguồn tn chảy
qua lời đối đáp ngọt ngào đằm thắm của kẻ ở - người đi mà khởi nguồn là phút nắm
tay giã biệt bịn rịn đầy lưu luyến. Nối tiếp là những lời gợi nhắc của người ở lại về

những kỉ niệm không thể nào quên.
Vẫn trong cấu trúc đối đáp “ta – mình” như lời giao duyên tình tứ gợi về khơng
gian văn hóa làng Việt gần gũi thân thương, từng câu hỏi của người ở lại như xoáy
sâu vào tâm trí người đi:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về những ngày tháng cùng chung sống với những cơn mưa
đầu nguồn xối xả, với lũ suối thành sông, với âm u núi rừng mây mù giăng khắp.
Thời tiết khắc nghiệt mang đặc trưng của thiên nhiên nơi đây đã tơi luyện ý chí, nghị
lực và tinh thần thép cho những người chiến sĩ đến từ miền xuôi. Cách nói nhấn
mạnh “những mây cùng mù” càng tơ đậm những khó khăn gian khổ đã trở thành
quen thuộc, đã trở thành một phần cuộc sống suốt 15 năm ròng gắn bó. Người ở lại
gợi nhắc đầy trăn trở: liệu rằng người về xi có cịn nhớ chăng?
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?”
Vẫn là “mình” đó mà lúc lại là “mình đi”, lúc lại là “mình về”, dường như cảm
xúc của người ở lại chộn rộn quá, như chống chếnh, như chơi vơi, vừa nhớ tiếc, vừa
luyến lưu. Không chỉ nhớ về khung cảnh mưa lũ mây mù, có chút ảm đạm nhưng
vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khống và hùng vĩ của thiên nhiên, mà
người ở lại còn gợi nhớ về cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu với “miếng cơm chấm
muối” đạm bạc mà nghĩa tình. Câu thơ có vế sóng đơi “mối thù nặng vai” diễn tả ý
chí quyết tâm một lòng của quân và dân Việt Bắc. Những khó khắn thiếu thốn ấy
càng thổi bùng lên ngọn lửa hờn căm, càng nhắc nhở về mối thù quân xâm lược đang
kết hình kết khối đè nặng lên vai. Câu thơ cũng bộc lộ niềm tự hào của những con
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

16


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12


2022

người đã từng trải qua những ngày tháng gian khổ, kiên trì đấu tranh để giành lại độc
lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
Phút chia tay thật nhiều điều muốn nói! Những câu hỏi như khơi sâu người ở
bộc lộ nỗi trống trải, thiếu hụt trong lịng bằng hình ảnh nhân hóa:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Người về với thị thành tấp nập, để lại khoảng trống khó lấp đầy của khơng gian. Núi
rừng cũng như bần thần nhớ “ai”. Những món ăn đặc sản núi rừng “trám bùi”, “măng
mai” cũng để rụng, để già, không còn người thu hái. Tất cả trở về với nguyên sơ, với
sự tĩnh lặng hiu hắt khi bộ đội về xuôi. Không buồn nhớ sao được!
Vẫn với tâm trạng băn khoăn luyến nhớ, người ở lại hỏi người ra đi:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son?
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đầy ấn tượng. Những ngơi nhà
sàn thấp thống sau những vạt lau sậy hắt hiu, hoang vắng, đó là mái ấm của những
con người Việt bắc chân chất mộc mạc. Đó cũng là nơi ni dưỡng những tấm lịng
son sắt thủy chung với cách mạng trường kì. Vẫn trong mạch cảm xúc băn khoăn
trăn trở, đồng bào gợi nhớ những hình ảnh thân thương ấy bằng một niềm kiêu hãnh
về phẩm chất cách mạng của mình. Sự tương phản hình ảnh “hắt hiu lau xám” và
“đậm đà lịng son”, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung,
càng khắc sâu ấn tượng về những con người tuy còn nghèo khổ, thiếu thốn nhưng
giàu tình u nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Nhớ về Việt Bắc, không thể không nhớ đến những ngày tháng đấu tranh gian
khổ:
Mình về, cịn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Cùng với những hình ảnh đặc trưng cho vùng cao Việt Bắc của quê
hương, đại từ mình xuất hiện đều đặn, nhịp nhàng và biến hóa linh hoạt
suốt khổ thơ đã tạo nên sắc điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc.
Nếu đại từ “mình” được dùng để chỉ những người bộ đội miền xuôi,
người ra đi trong cuộc chia tay ấy thì sang đến câu thơ cuối khổ, “mình”
được điệp lại ba lần với ý nghĩa khác nhau mà lại quyện hịa, gắn bó
khơng thể rạch rịi phân định. Đó là cách xưng hơ ân tình, đằm thắm như
lời lẽ tình tứ của đơi trai gái xưa “ Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt
áo ta đề câu thơ”. Mình có trong ta mà ta cũng ln hiện hữu trong trái
tim mình.
Với tình cảm gắn bó tha thiết ấy, người ra đi hãy đừng quên những tháng ngày
cùng nhau chiến đấu “khi kháng Nhật – thủa còn Việt Minh”, và đừng quên
những cái tên thân thuộc Tân Trào, Hồng Thái, nơi khởi nguồn của những
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

17


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

chiến cơng; đừng vội phai nhịa những kí ức thiêng liêng về buổi lễ xuất quân
dưới gốc đa cổ thụ bên mái đình Tân Trào năm ấy.
Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
được hoán vị thành “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa nhấn mạnh
cái tên đã đi vào lịch sử vừa tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục
bát. Người Việt Bắc luôn mong muốn người ra đi hãy khắc ghi và luôn gìn giữ
những phẩm chất cách mạng vốn có vẹn ngun như những ngày đầu!

Nói đên sự đóng góp của Tố Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, không thể
khơng nói đến đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc,
tinh thần dân tộc trong thơ. Thơ Tố Hữu bài nào cũng vậy, đều đậm đà sâu sắc
phong vị quê hương, từ ngôn từ giản dị, mộc mạc, cách xưng hơ ‘mình- ta”
thân tình ấm áp; hình ảnh của dưa cà mắm muối, của sân đình gốc đa, của
dáng mẹ, dáng chị, dáng anh quen thuộc, chân quê đến cách cảm, cách nghĩ và
một tâm hồn dào dạt nghĩa tình trong thơ. Tất cả điều đó đã làm nên nét rất
riêng trong phong cách sáng tác của nhà thơ. Đó cũng là lí do khiến thơ của Tố
Hữu chyển tải những điều lớn lao mà rất tự nhiên thấm sâu vào lòng người đọc
nhiều thế hệ, làm nên sức sống lâu bền.
Với mười hai câu thơ lục bát Tố Hữu đã tạo thành sáu câu
hỏi với kết cấu trùng điệp như khắc sâu vào kỉ niệm người đi về
một miền đất hoang sơ mà nghĩa tình. Mỗi câu đều gợi lại nét tiêu
biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc gian khổ thiếu
thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự
kiện lịch sử trọng đại của cách mạng Việt Nam. Đọc đoạn thơ ta
như thấy ngân vang khúc nhạc tình yêu êm ái dịu dàng. Những
câu hỏi là nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc đấy nhưng
thực chất lại chính là những lời tự dặn lịng mình của nhà thơ: trở
về xi rồi đừng qn những năm tháng cơ hàn khốn khó ở Việt
Bắc, đừng quên những con người mộc mạc mà ân nghĩa thủy
chung. Ta nhận thấy một tấm lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ
với Việt Bắc, thấy yêu mến và trân trọng hơn sự cống hiến của
nhân dân mọi miền cho độc lập hơm nay. Tơi chợt hỏi mình “ta đã
làm gì cho Tổ quốc hơm nay?”
Đề 6:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

18


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa
trong thơ Tố Hữu.

Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

19


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

BÀI LÀM
Nói về sức hấp dẫn trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng đó là

những vần thơ “từ trái tim vọt ra” vừa lãng mạn vừa tràn đầy “máu huyết”. Quả nhiên
là thế! Thơ Tố Hữu được khơi dẫn bởi mạch nguồn của tinh thần và ý chí cách mạng,
của lí tưởng đẹp đẽ và tình u đất nước sâu sắc. Đọc mỗi dịng thơ của ơng, ta đều
thấy chất chính trị quyện hịa nhuần nhuyễn với chất trữ tình đằm thắm ngọt ngào. “
Việt Bắc” là một minh chứng tiêu biểu cho nét phong cách sáng tác đó của nhà thơ.
Trong tác phẩm, tình cảm nhớ nhung lưu luyến giữa đồng bào Việt Bắc với bộ đội
miền xuôi được Tố Hữu diễn đạt bằng những câu thơ tình tứ vơ cùng:
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Nếu ai đó khơng biết rằng “Việt Bắc” là lời giã biệt, lời tri ân của cán bộ, bộ
đội miền xuôi với đồng bào Việt Bắc sau mười lăm năm gắn bó làm nên thắng lợi của
trận Điện Biên Phủ lừng lẫy thì hẳn sẽ nghĩ đó là những câu hát giao dun tình tứ
của những bậc liền anh liền chị ở một xứ Kinh Bắc nào. Sự kiện lịch sử quan trọng ấy
được ghi khắc khơng chỉ trong trí nhớ mà cịn khắc sâu trong trái tim của bao người
yêu thơ. Đó là sức mạnh của “một tiếng nói u thương ln ln chan hịa ánh sáng”
(Hồi Thanh) trong ngịi bút trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Có nhà phê bình từng nhận định “Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ
nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Tâm hồn của một thi sĩ làm cách
mạng đã khiến cho những điều khô khan, cứng nhắc cũng trở nên mềm mại trong thơ.
Chẳng thế mà,Tố Hữu đã thi vị hóa mối quan hệ quân - dân trở nên gần gũi, cởi mở
và chân thành biết mấy. Vốn dĩ, cách xưng hơ “mình – ta” đã rất quen thuộc trong đời
sống người dân lao động xưa, trong đối đáp giao duyên hay trong thơ ca dân gian. Ta

dễ dàng bắt gặp những câu ca dao ngọt ngào say đắm: “ Mình về ta chẳng cho về - ta
nắm vạt áo, ta đề câu thơ”. Hay “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng

Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

20


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

mình cười”. Ở đây, Tố Hữu thay lời bộ đội miền xi thân mật xưng hơ “ta-mình” với
đồng bào Việt Bắc, khiến tình cảm qn dân càng thêm khăng khít, mặn nồng.
Đoạn thơ là lời đáp lại tình cảm của người đi với người ở lại. Đồng bào Việt
Bắc vì nhớ nhung, lo lắng mà gặng hỏi người về xi có còn nhớ những ngày “ Mưa
nguồn suối lũ những mây cùng mù?”. Đáp lại tình cảm sâu nặng ấy, người ra đi đã
bộc lộ sự thủy chung son sắt như một lời thề :
- Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Câu thơ điệp lại theo cấu trúc vịng trịn: “ta với mình” rồi lại “mình với ta” tạo
nên sự gắn bó quyện hịa như khơng thể tách rời, khơng gì chia cắt. Lại thêm câu
khẳng định tấm lịng, tình cảm trước sau như một của người ra đi, vẫn luôn “mặn mà
đinh ninh”, không bao giờ phai nhạt. Đọc câu thơ, ta ngỡ như đó là lời thề non hẹn
biển của đơi trai gái yêu nhau: “Thuyền về có nhớ bến chăng – Bến thì một dạ khăng
khăng đợi thuyền”. Hẳn rằng lời khẳng định chân thành ấy của bộ đội miền xuôi đã
làm ấm lòng người ở lại.
Dường như ngần ấy chưa đủ để nói hết những lưu luyến nhớ nhung của người
ra đi dành cho mảnh đất và con người Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó chứ đâu phải
một sớm một chiều, tất cả như cịn vẹn ngun trong tâm trí người ra đi:

Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Lúc này đại từ “mình” được sử dụng để chỉ cho cả hai đối tượng, “mình” là bộ
đội miền xi hay “mình” cũng chính là người Việt Bắc. Dường như cảm xúc nhớ
nhung dâng trào đến độ “ta – mình” đã hịa vào một, ta là mình và mình là ta. Đến
đây, độc giả lại bắt gặp một tứ trong ca dao xưa “Qua đình ngả nón trơng đình – Đình
bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Cách ví von “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa
tình bấy nhiêu” vừa thân thuộc vừa mang đặc trưng lối nói của người vùng cao Việt
Bắc : tình nghĩa con người được ví với nước trong nguồn – một biểu tượng của thiên
nhiên vô tận, vĩnh hằng. Câu thơ vừa thể hiện nỗi nhớ, đồng thời cũng thể hiện tấm
lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ miền xuôi đối với Việt Bắc, nơi đã che chở,
nuôi dưỡng cách mạng từ trong trứng nước!
Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua khơng gian, thời gian:
Nhớ gì như nhớ người u
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

21


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho
tình cảm của người chiến sĩ miền xuôi với đồng bào Việt Bắc. Đó khơng phải là nỗi
nhớ của ý thức, của lí trí lạnh lùng mà là nỗi nhớ hằn in trong trái tim của người ra đi
như nỗi nhớ “người yêu” – một nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt. Câu thơ có từ để
hỏi “nhớ gì” vừa thể hiện sự ngỡ ngàng về một hiện thực trong trái tim mình, dường
như bản thân người đi cũng thực sự bất ngờ bởi nỗi nhớ đằm sâu mãnh liệt đến thế,

vừa như khẳng định sự hiện hữu một tình cảm đặc biệt dành cho Việt Bắc trong trái
tim mình. Thật đáng trân trọng!
Trong xúc cảm của một tình yêu nồng nàn, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn
mở ra “ Trăng lên đầu núi – nắng chiều lưng nương.” Một câu thơ phác họa hai thời
điểm khác nhau: vế đầu là hình ảnh gợi tả khơng gian hị hẹn lãng mạn với ánh trăng
vừa hé lộ dịu dàng e ấp, tình tứ; vế sau là hình ảnh gợi khơng gian của buổi chiều lao
động trên nương rẫy, những tia nắng còn trải vàng trên lưng chừng núi. Dường như,
những khoảnh khắc đẹp như tranh vẽ ấy đã lí giải tại sao nỗi nhớ đồng bào trong lòng
người đi lại như nỗi nhớ “người yêu”. Thiên nhiên và hình ảnh cuộc sống lao động
của con người nơi đây thật khiến lòng người xao xuyến, đắm say!
Và như một cuốn phim quay chậm, những hình ảnh thân thuộc hiện về nguyên
vẹn trong tâm trí người đi:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ
niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra rõ mồn một trong tâm trí của
người đi “từng bản khói cùng sương”, “từng rừng nứa bờ tre”... Nghệ thuật điệp từ
“nhớ” nằm trong cấu trúc điệp “nhớ từng”, kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê những
hình ảnh về khơng gian sinh sống của đồng bào, nơi đi về ấm áp trong tình cảm gia
đình, những địa danh lịch sử người cán bộ đã từng đặt chân “Ngịi Thia, sơng Đáy,
suối Lê…” làm cho những kỷ niệm thân thương về những tháng ngày gian khổ mà
kiên cường đấu tranh chống giặc hiện lên tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến
hình ảnh khác như suối nguồn không bao giờ vơi cạn.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ khơng
phải thơ tình u, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái
tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều
này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt Bắc từ việc sử dụng thể thơ lục bát, ở cách đối đáp
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB


22


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

giao duyện ngọt ngào thiết tha đến việc sử dụng linh hoạt, tài tình cặp đại từ nhân
xưng “mình, ta” nhịp nhàng sánh đơi để nói về tình cảm gắn bó giữa cán bộ với nhân
dân. Chính lý tưởng cộng sản là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo trong thơ Tố
Hữu. Thơ ơng ln có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội thuần túy với một tình cảm cá nhân đằm thắm nhất. Nhờ thế, nhà thơ đã
sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị, mang đậm đà
bản sắc dân tộc và nâng nó lên một trình độ mới.
Tóm lại, qua những lời thơ thủ thỉ tâm tình chân thành đằm thắm của người ra
đi với người ở lại trong đoạn thơ trên, ta không chỉ thấy những hồi ức đẹp đẽ về một
Việt Bắc thơ mộng nghĩa tình mà người đọc cịn cảm nhận một tình cảm cách mạng
thiết tha, sâu đậm trong tình quân dân cá nước. Đoạn thơ cũng tiêu biểu cho phong
cách trữ tình - chính trị của Tố Hữu, để lại dấu ấn khó phai trong lịng độc giả. Những
vần thơ cũng góp phần nhắc nhớ con người về lối sống ân nghĩa thủy chung, có được
những ngày bình yên hạnh phúc, đừng vội quên những tháng ngày gian khổ đã qua!
Phải chăng vì thế mà thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, nó trở thành cách nhìn, thành
nếp sống phổ biến của những con người thời đại mới!”

Đề 7:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cơ em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa
trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

23


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

mạn, mang tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là
một trong những sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Đó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ mà anh dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc
dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dịng kí ức về
một bức tranh tứ bình Việt Bắc thơ mộng, ân tình:
Ta về, mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến
dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan
trung ương chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đơ sau mười lăm năm
gắn bó. Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này.
Mạch thơ tuôn trào theo dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với
mảnh đất và con người Việt Bắc. Nhớ về Việt Bắc, không chỉ là nỗi nhớ về những hi
sinh, gian khổ “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn là nỗi nhớ về một Việt
Bắc đẹp như thơ, làm say đắm lòng người.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư
tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đơ.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xi. Ta hỏi mình có
nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là
dù có ở nơi xa xơi , dù có xa cách nhưng lịng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và
"nhớ" được điệp đi điệp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh chủ thể nỗi nhớ, vừa khẳng định
một tình cảm nhớ nhung đang chế ngự, tràn ngập trong tâm hồn người đi. Nỗi nhớ
hướng về "những hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt
Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn "người" là bông hoa đẹp nhất giữa núi
rừng. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa và người đồng hiện càng tôn lên
vẻ đẹp cho nhau,
khiến không gian trở nên hài hịa, lãng mạn.
Nỗi nhớ hiện về trong tấm trí người đi theo mạch trình tự bốn mùa, mỗi mùa là
một bức tranh đẹp tồn bích, mà khởi đầu là bức tranh Việt Bắc trong mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Không gian mở ra trước mắt người đi không phải là cảnh rừng ảm đạm lạnh lẽo mà là
một cánh rừng xanh bạt ngàn vô tận. Trên tấm thảm xanh đầy sức sống ấy là sắc đỏ
rực rỡ, tươi tắn của những bơng chuối rừng. Sự hài hịa giữa hai màu sắc tương phản
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB


24


Những bài văn mẫu chuyên sâu – Ngữ văn 12

2022

“xanh-đỏ” khiến lòng người cảm thấy ấm áp trước cái lạnh lẽo kahức nghiệt của thời
tiết nơi
rừng thiêng nước độc ấy.
Giữa khơng gian hoang vu mà thơ mộng, xuất hiện hình ảnh những con người
lao động khỏe khoắn cheo leo trên những đỉnh đèo “nắng ánh” với “dao gài thắt
lưng”. Những ánh nắng rực rỡ của ngày mới chiếu rọi vào những chiếc dao gài ở thắt
lưng tạo nên phản quang lấp lánh làm đẹp thêm hình ảnh những con người Việt Bắc
chủ động, tự tin giữa đại ngàn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra cũng mang nét rất riêng của thiên nhiên nơi đây.
Đó là thời điểm mà cả cánh rừng mênh mông ngập tràn sắc trắng tinh khôi của hoa
mơ nở rộ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Cách sử dụng kết hợp từ “mơ nở trắng rừng” khiến người đọc liên tưởng đến
sự chuyển biến của màu sắc, đồng loạt và nhất thể như nhuộn trắng cả không gian,
khác với sắc trắng điểm xuyết khiêm nhường trong những câu thơ miêu tả cảnh ngày
xuân của đại thi hào Nguyễn Du “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Xuân ở núi
rừng Việt Bắc là thế, thật riêng, thật ấn tượng.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần
mẫn, dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công
việc hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo
léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp

của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Nếu như bức tranh mùa đông và mùa xuân được nhà thơ cảm nhận bằng thị
giác thì sang đến bức tranh mùa hè các giác quan quan của nhà thơ được mở rộng để
đón nhận những điều thú vị tuyệt vời chỉ có ở Việt Bắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Đó là thứ âm thanh quen thuộc của mùa
hè. Khi tiếng ve cất lên cả không gian như bừng thức, cả cánh rừng phách đột ngột
“đổ vàng”. Động từ “đổ” được sử dụng độc đáo, tạo liên tưởng thú vị về sự chuyển
biến thật nhanh, thật đột ngột của màu sắc khu rừng từ xuân sang hạ. Tưởng như tấm
voan trắng tinh khôi của mùa xuân vừa đuwọc trút bỏ thì lập tức bà mẹ thiên nhiên đã
khốc lên cách rừng một tấm hoàng bào lộng lẫy kiêu sa. Cảnh tượng thật kì vĩ và ấn
tượng vơ cùng. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ "Một tiếng chim kêu sáng cả
rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà các tác giả đã gợi lên cả sự
vận động của
Tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT của cô Khánh Phượng Vũ | NB

25


×