Tải bản đầy đủ (.pdf) (250 trang)

NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬPLUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.44 MB, 250 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÙY YÊN

NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM
VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2016


BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÙY YÊN

NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM
VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC



Người hướng dẫn khoa học: 1, PGS.TS. Nguyễn Văn Cương
2, PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các
kết quả nghiên cứu và kết luận trong luận án là trung thực và chưa từng được cơng
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được
thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thùy Yên


1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ....................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................2
MỞ ĐẦU........................................................................................................................3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA VÀ KHÁI
LƯỢC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI ASEAN...............................19
1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa......................................................................19
1.2. Cơ sở lý thuyết của luận án ...................................................................................49
1.3. Khái lược về mối quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN ........................................55

Tiểu kết .........................................................................................................................62
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA
VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP...................................63
2.1. Những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .............63
2.2. Các hình thức hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ...................72
2.3. Đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .........................104
Tiểu kết .......................................................................................................................113
CHƯƠNG 3. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT
NAM VỚI ASEAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.................................................115
3.1. Xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ..................115
3.2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao văn
hóa Việt Nam với ASEAN .........................................................................................121
Tiểu kết .......................................................................................................................146
KẾT LUẬN ...............................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................152
PHỤ LỤC ..................................................................................................................162


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

AC


: Cộng đồng ASEAN

ARF

: Diễn đàn khu vực ASEAN

ASA

: Hiệp hội Đơng Nam Á

ASCC

: Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEAN - COCI

: Ủy ban Văn hóa - Thơng tin ASEAN

CLM

: Campuchia, Lào, Mianma

CLMV

: Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CSR

: Trách nhiệm xã hội

HTQT

: Hợp tác Quốc tế

NCKH

: Nghiên cứu Khoa học

NCS

: Nghiên cứu sinh

NGVH

: Ngoại giao văn hóa

Nxb

: Nhà xuất bản

PVS


: Phỏng vấn sâu

SEAGAMES

: Đại hội thể thao Đông Nam Á

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, bức tranh tồn cảnh về tình hình chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội... của thế giới có nhiều thay đổi. Xu hướng chủ đạo của thế
giới và khu vực là hịa bình, hợp tác và phát triển. Sự phát triển của mỗi quốc gia,
khu vực và cả thế giới đang có xu hướng phụ thuộc ngày càng nhiều vào môi trường
quốc tế. Những thành tựu của khoa học công nghệ và thông tin đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh. Các cuộc xung đột tôn giáo - sắc tộc, tranh chấp về lãnh
thổ... không chỉ ảnh hưởng đến một vài quốc gia mà cịn lan rộng ra tồn khu vực,
ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế quốc tế. Xu thế tồn cầu hóa và khu

vực hóa trên tất cả các lĩnh vực là một xu hướng tất yếu. Vì vậy mỗi quốc gia muốn
tham gia vào q trình tồn cầu hóa thì phải chủ động xác định chiến lược hội nhập
và xác định “vị thế” của mình trong quan hệ quốc tế, đặc biệt các quốc gia ngày
càng chú trọng gia tăng sức mạnh mềm của mình trên trường quốc tế.
Sự vận động và phát triển của ASEAN trong những năm qua cũng nằm trong
quy luật đó và Việt Nam cũng khơng nằm ngồi vịng xốy của khu vực và quốc tế.
Do vậy việc Việt Nam hội nhập ASEAN (1995) là phù hợp với xu thế của thời đại
và điều kiện hoàn cảnh riêng của đất nước. ASEAN mang lại cho đất nước ta nhiều
lợi ích quan trọng và thiết thực, tạo thuận lợi và hỗ trợ rất lớn trong việc triển khai
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động
hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Trong 20 năm tham gia
ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp
tác của hiệp hội ASEAN như kinh tế, quốc phòng - an ninh và đặc biệt trong lĩnh
vực hợp tác văn hóa. Tham gia hội nhập ASEAN, Việt Nam có điều kiện khai thác
tối đa những thuận lợi để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển đất nước. Thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được là không chỉ tăng
cường sự hiểu biết, tin cậy nhau và sẵn sàng hỗ trợ nhau khi cần thiết, mà còn thúc
đẩy tinh thần đoàn kết giữa nhân dân các nước ASEAN. Trong xu thế quốc tế hóa


4

và tồn cầu hóa như hiện nay, văn hóa là chiếc cầu nối quan trọng trong quan hệ
quốc tế của mỗi nước.
Vai trị, vị trí quan trọng của văn hóa nói chung và ngoại giao văn hóa nói
riêng đã được thừa nhận rộng rãi trong nghiên cứu và trong chính sách phát triển
chung trên toàn thế giới. Các quốc gia, ở mức độ khác nhau, đều sử dụng văn hóa
như một cơng cụ trong hoạt động ngoại giao. Vì đây là kênh ngoại giao hữu hiệu
làm gia tăng sức mạnh mềm, xây dựng lòng tin, quảng bá giá trị văn hóa ra thế giới,
tiếp thu văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền văn hóa đất nước. Từ đầu thế kỷ

XXI, khi tồn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, ngoại giao văn hóa càng được sử dụng
rộng rãi với nhiều hình thức phong phú và có vai trị quan trọng hơn trong nền ngoại
giao của mỗi quốc gia bởi sức lan toả mạnh mẽ của văn hóa có vai trò to lớn trong
việc xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn các mối
quan hệ chính trị và kinh tế. Nhân tố văn hóa có ảnh hưởng, tác động đến quan hệ
quốc tế và trong một số trường hợp mang tính quyết định. Do đó, việc vận dụng yếu
tố văn hóa để nâng cao hiệu quả triển khai đường lối đối ngoại được các quốc gia
ngày càng chú trọng. Sự trân trọng các giá trị văn hóa trong cơng tác ngoại giao trở
thành cầu nối để vượt qua những khác biệt, đưa các dân tộc xích lại gần nhau và
cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong xu thế hịa bình, sự phân cơng
lao động trên thế giới ngày càng sâu sắc sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét và
xu thế hội nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế quốc tế thì
ngoại giao văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết.
Như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam với sự kết hợp giữa nhận thức về
vai trị của văn hóa và nhận thức về sự cần thiết đẩy mạnh hội nhập quốc tế đã đưa
ngoại giao văn hóa thực sự trở thành một trong 3 trụ cột của nền ngoại giao Việt
Nam hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu chủ trương: "Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại" [26, tr.235],
đồng thời đề cập trực tiếp đến vai trò của ngoại giao văn hóa: "Phối hợp chặt chẽ
hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa
ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa” [26, tr.238].


5

Với vai trò ngày càng lớn của ngoại giao văn hóa, việc nghiên cứu những
khía cạnh khác nhau của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế, trước hết là
quan hệ với các nước trong khu vực rất quan trọng trong tình hình hiện nay. Nghiên
cứu các hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN có ý
nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta nhận diện được tình hình

thực tế, đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước
ASEAN, nhận định xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với
các nước ASEAN trong những năm tới, từ đó đưa ra những bàn luận nhằm thúc đẩy
công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN để đáp ứng những yêu cầu thực
tiễn hiện nay.
Xuất phát từ tình hình đó, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài: “Ngoại giao
văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập” làm luận án Tiến sĩ chuyên
ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu về ngoại giao văn hóa
2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
* Những luận điểm làm tiền đề cho lý luận ngoại giao văn hóa
- Thuyết xung đột văn minh
Thuyết xung đột văn minh do Samuel P.Huntington đề ra, ơng cho rằng,
nhân tố văn hóa ngày càng có vai trị quan trọng trong quan hệ giao lưu quốc và thế
giới đang tiến vào một thời kỳ lịch sử của “Xung đột giữa các nền văn minh”. Thời
kỳ sau chiến tranh lạnh, chính trị tồn cầu đang tiến hành tổ chức lại theo ranh giới
văn minh. Đặc tính chung và sự khác biệt của văn hóa ảnh hưởng tới các quốc gia,
những dân tộc và quốc gia có nền văn hóa tương tự đang tụ hợp lại, những dân tộc
và quốc gia có nền văn hóa khác đang chia tách ra.
Các tác phẩm của ông bao gồm: “Sự xung đột giữa các nền văn minh” và“Các
loại quy phạm của thế giới sau chiến tranh lạnh. Nếu như không phải là văn minh thì
sẽ là cái gì?” trên Tạp chí Ngoại giao, năm 1992; Năm 1996 ơng xuất bản cuốn sách
“Xung đột của văn minh và việc xây dựng lại trật tự thế giới”; Năm 2003 ở Việt Nam


6

cuốn “Sự va chạm của các nền văn minh” của Samuel P.Huntington đã được dịch ra
tiếng Việt do Nxb Lao động, Hà Nội xuất bản.

“Thuyết xung đột văn minh” của Huntington trong nhiều năm đã gây ra luận
chiến gay gắt trong giới học thuật quốc tế. Học giả người Đức Harald Miluer, người
đại diện thuyết chủ trương “Cùng tồn tại văn minh” với tác phẩm tiêu biểu “Cùng
tồn tại văn minh” đã phê phán thuyết xung đột văn minh của Huntington (2001), cho
rằng Huntington thổi phồng quá đáng sự xung đột giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên
“Thuyết xung đột văn minh” cũng đã tác động đến mọi người về sự thay đổi của tình
hình thế giới từ góc nhìn văn hóa.
- Sức mạnh mềm
Những thảo luận về sức mạnh mềm đã xuất hiện khá sớm trong đời sống học
thuật phương Tây. Sau đó khái niệm này được Joseph Nye - Nhà nghiên cứu chính
trị học quốc tế Mỹ, giáo sư danh tiếng Đại học Havard định nghĩa và phát triển
thành một luận thuyết. Ông nêu quan điểm: cần chú ý đặc biệt khác nhau giữa“sức
mạnh cứng” (khả năng kinh tế, quân sự của một nước tiến hành mua chuộc và tập
hợp) và “sức mạnh mềm” (khả năng cảm hóa và kêu gọi hình thái ý thức văn hóa để
tiến hành thu hút) được thể hiện trong cuốn sách “Nước Mỹ định một mình làm bá
chủ thế giới chăng?” và luận văn “Xác định lại ranh giới lợi ích quốc gia”, (1990).
Một tác phẩm vận dụng lý luận “sức mạnh mềm”, phân tích tường tận tác
dụng của sức mạnh mềm là cuốn sách: “Sức mạnh mềm: Sự thống trị toàn cầu của
phim ảnh, nhạc thịnh hành, truyền hình và quán ăn nhanh của Mỹ” (2005) của
Matthen Fraser, học giả Canada. Trong cuốn sách đó, ơng đã trình bày tường tận sự
khởi nguồn, phát triển của “sức mạnh mềm” của Mỹ và sự ảnh hưởng của nó trong
ngoại giao quốc tế từ bốn mặt: Phim ảnh, truyền hình, âm nhạc thịnh hành và quán
ăn nhanh.
Các nghiên cứu trên đã đi đến xác định: Sức hấp dẫn về văn hóa, tư tưởng
chính trị và các chính sách quốc gia là ba nguồn lực chính tạo nên sức mạnh mềm.
- Văn hóa trong quan hệ quốc tế


7


Vai trị văn hóa trong quan hệ quốc tế đã được các nhà nghiên cứu đề cập tới
rất nhiều và ngày càng đi vào chiều sâu. Đã có rất nhiều tác phẩm bàn luận về vấn
đề này tiêu biểu như: “Chính trị học tồn cầu” do Herano Kenichiro; “Thay đổi lớn
toàn cầu” do David Held, giáo sư Đại học Mở Anh quốc; “Quan hệ văn hóa quốc
tế” của học giả văn hóa Pháp Louis Doro; “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai học
giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald; “Nhân tố văn hóa
trong quan hệ quốc tế Đông Tây” của Tư Trung Quân; “Lý luận văn hóa của chính
trị thế giới” và trong luận văn cùng tên đã trình bày luận điểm: “Văn hóa có quan
hệ với quan hệ quốc tế như thế nào?” của Tần Á Thanh; “Bàn về mối quan hệ giữa
văn hóa và ngoại giao” của Phùng Thiệu Lôi;...[61, tr.14-22].
Các tác phẩm trên đều đề cập tới vai trị của văn hóa trong quan hệ quốc tế từ
nhiều góc độ. Tiêu biểu là luận điểm của ông Herano Kenichiro, giáo sư trường Đại
học Tokyo, chuyên gia về vấn đề quốc tế nổi tiếng của Nhật trong cuốn sách
“Chính trị học tồn cầu” cho rằng, trong giao lưu giữa các nước ngồi quan hệ
chính trị, quan hệ kinh tế và quan hệ pháp luật ra cịn có quan hệ văn hóa, hơn nữa
quan hệ văn hóa khơng chỉ gián tiếp mà cịn trực tiếp ảnh hưởng tới đời sống và lối
sống của mọi người. Ông đề xuất, văn hóa trong quan hệ quốc tế bao gồm 4 mặt
sau: (1), quan hệ giữa văn hóa và văn hóa lạ; (2), ý trực diện văn hóa trong quan hệ
quốc tế; (3), quan hệ văn hóa có tính quốc tế; (4), văn hóa quốc tế [61, tr.16].
Luận điểm của học giả văn hóa Pháp Louis Doro đã phân tích một cách hệ
thống quan hệ văn hóa quốc tế, nhấn mạnh vị trí, vai trị của giao lưu văn hóa quốc
tế trong ngoại giao tổng thể trong cuốn sách “Quan hệ văn hóa quốc tế”. Ơng cho
rằng hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại ngày càng hướng tới trung tâm sân khấu
giao lưu quốc tế, lĩnh vực hoạt động ngoại giao nhà nước được mở rộng không cịn
giới hạn ở lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự nữa mà đi sâu
vào lĩnh vực văn hóa. [61, tr.17]. Những nghiên cứu về văn hóa trong quan hệ quốc
tế ở trên sẽ là cơ sở cho nghiên cứu ngoại giao văn hóa sau này.
* Về ngoại giao văn hóa



8

Việc nghiên cứu của giới học giả về ngoại giao văn hóa bắt đầu tương đối
muộn. Khái niệm mới “ngoại giao văn hóa” do nhà sử học ngoại giao người Mỹ
Ralph Tumer đưa ra sớm nhất từ những năm 40 của thế kỷ XX. Sau này, nhà sử học
ngoại giao Mỹ Frank Ninkovich đã trình bày và phát triển một cách hệ thống quan
niệm trên. Ninkovich cho rằng: “Nhà chính trị có kiến thức sâu rộng ln ln thừa
nhận ngoại giao cần suy tính kỹ quan niệm giá trị văn hóa, vì những quan niệm giá
trị này có vai trị rất quan trọng trong việc hình thành khả năng lập luận ngoại giao,
do đó mà càng có ý nghĩa hơn so với tín ngưỡng, hình thái ý thức hay quan niệm
trừu tượng của nó. Ở thế kỷ XX, hầu như tất cả các nhà chính trị quan trọng của Mỹ
đều cân nhắc coi nhân tố văn hóa là bộ phận để xử lý công việc ngoại giao của họ;
quả thật văn hóa có tác dụng rõ ràng trong cơng việc ngoại giao của họ, thường là
quyết định trong quyết sách đối ngoại của họ” [61, tr.21].
Bước vào thế kỷ XXI, mang lại sự thay đổi có “tính cách mạng” cho nghiên
cứu ngoại giao văn hóa phải kể đến cuốn sách “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai
học giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald. Các tác giả chỉ ra
rằng, muốn tìm hiểu ngoại giao tồn diện thì phải tiến hành nghiên cứu và phân tích
ngoại giao từ những góc độ khác nhau. Các tác giả nhận xét: chính phủ, phi chính
phủ hay cơ quan chun mơn, hoạt động thương vụ, cá nhân công dân, nghiên
cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, tài trợ, thông tin và truyền thơng đều có thể trở
thành kênh quan trọng của trao đổi ngoại giao. Trong 9 “Quỹ đạo” ngoại giao mà
các tác giả nêu có 3 lĩnh vực (nghiên cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, truyền bá và
truyền thông) là thuộc về phạm trù ngoại giao văn hóa [61, tr.17].
2.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ngày càng
được gia tăng cả chiều sâu lẫn chiều rộng, trong đó văn hóa trở thành một lĩnh vực
phát triển mạnh mẽ. Ngoại giao văn hóa là một đề tài rất quan trọng, nhưng các
cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở nước ta còn chưa nhiều và đây là lĩnh vực
khá mới mẻ. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu chun sâu



9

về ngoại giao văn hóa ở dạng đề tài cấp Bộ, luận văn, sách, giáo trình và các bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành, hay trong kỷ yếu của các hội thảo khoa học...
Về sách giáo trình có một số cuốn tiêu biểu như:“Giáo trình quan hệ cơng
chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại” (2011) do Lê Thanh Bình chủ biên;
“Ngoại giao và cơng tác ngoại giao” (2009) của Vũ Dương Huân. “Những vấn
đề quốc tế đương đại và quan hệ đối ngoại của Việt Nam” của Viện Quan hệ
Quốc tế (Học viện Ngoại giao); …
Trong đó đáng chú ý là cuốn sách“Ngoại giao văn hóa cơ sở lý luận, kinh nghiệm
quốc tế và ứng dụng” (2012) của Phạm Thái Việt. Có thể khẳng định đây được xem là
một ấn phẩm đầu tiên của Việt Nam về ngoại giao văn hóa.
Cuốn sách chia thành 10 chương đề cập tới nhiều vấn đề nhưng dung lượng dành
cho ngoại giao văn hóa cịn hạn chế, các vấn đề như vai trị, nội dung, hình thức… của
ngoại giao văn hóa thì chưa được đề cập tới. Tuy nhiên, khái niệm văn hóa, ngoại giao,
đặc biệt về khái niệm ngoại giao văn hóa đã được tác giả nghiên cứu khá dày cơng.
Ngồi ra phải kể đến một số bài viết, bài phát biểu của các nhà ngoại giao, nhà
nghiên cứu ngoại giao văn hóa trình bày trong các Hội thảo:
Hội thảo quốc gia: "Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường
quốc tế, phục vụ hịa bình, hội nhập và phát triển bền vững" (2008) do Bộ Ngoại
giao tổ chức. Đáng chú ý là các bài viết của Nguyễn Mạnh Cầm, Vũ Khiêu, Phạm
Sanh Châu, Vũ Dương Huân, Trần Trọng Toàn... đã nêu nên những ý kiến về ngoại
giao văn hóa rất sâu sắc và bổ ích.
Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa trong thế giới hội nhập” (2010) do Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Kỷ yếu Hội thảo có nhiều bài về ngoại giao văn hóa,
các tác giả đã đề cập tới quan niệm về ngoại giao văn hóa và vai trị của ngoại giao văn
hóa, sự khác nhau giữa ngoại giao văn hóa và giao lưu văn hóa…
Hội thảo “Văn hóa đối ngoại trong thế giới hội nhập” (2011) do Trường Đại

học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Hội thảo bàn về những vấn đề lý luận và thực tiễn của
văn hóa đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhiều bài viết về ngoại giao


10

tiêu biểu như các bài viết của Vũ Khoan, Phạm Sanh Châu, Lê Viết Duyên… Đáng
chú ý là bài “Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Lý luận và thực tiễn trong thời kỳ hội
nhập” của Nguyễn Thái Yên Hương. Tác giả cũng bàn luận về ngoại giao và đánh
giá thực trạng hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong thời gian qua. Từ
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của ngoại giao văn hóa trong thời
gian tới.
Nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao văn hóa cịn được thể hiện dưới dạng
đề tài. Đặc biệt phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Hoạt động ngoại
giao văn hóa Việt Nam trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI” (2009) chủ nhiệm đề tài
Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa Đối ngoại, UNESCO. Đây là đề tài
nghiên cứu cấp Bộ chuyên sâu đầu tiên bàn về ngoại giao văn hóa. Một lợi thế thấy
rõ là nhóm tác giả chính là những người đang thực thi nhiệm vụ ngoại giao văn hóa
nên sẽ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc triển khai nghiên cứu. Thành công của đề
tài là không chỉ đáp ứng được hiểu biết cơ bản ban đầu về ngoại giao văn hóa Việt
Nam mà cịn hiểu biết được ngoại giao văn hóa trên thế giới hiện nay được tổ chức
như thế nào.
Tuy nhiên một số nội dung trong đề tài mới chỉ được nêu khái quát, chưa
phân tích kỹ, mới mang tính gợi mở như: Vai trị của ngoại giao văn hóa; nội dung
của ngoại giao văn hóa; thực trạng của cơng tác ngoại giao văn hóa Việt Nam. Các
tác giả cũng chưa đề cập tới khái niệm cần thiết như: ngoại giao, văn hóa ngoại
giao, xung đột văn hóa… đây là sự gợi mở cho hướng nghiên cứu tiếp theo.
Đáng chú ý là các bài báo được đăng trên tạp chí chun ngành về ngoại giao
văn hóa như: “Thơng tin truyền thơng và đẩy mạnh ngoại giao văn hóa” của Đỗ Q
Dỗn, Tạp chí Cộng sản số 797, 3/2009; “ngoại giao văn hóa và truyền thơng văn

hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập của quốc tế” của Đặng Thị Thu Hương, Tạp
chí Nghiên cứu Quốc tế số 1, 3/2009; ngoại giao văn hóa qua Festival tại Việt Nam”
của Đỗ Thị Minh Thúy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 335, 5/ 2012; “Quan hệ công
chúng và ngoại giao văn hóa” của Phạm Thái Việt, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3,


11

9/2009; “ngoại giao văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của Cao Vũ Huyền, Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật số 336, 6/2012; “Ngoại giao văn hóa trong chiến lược phát triển hịa
bình của Trung Quốc” của Phạm Hồng Yến, Tạp chí Quốc tế số 2, 6/2011; “Ngoại
giao văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia như thế nào?” của Thạch Hà, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế số 2, 6/2009; Ngoại giao văn hóa Trung Quốc và vai trị của nó
trong q trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 8/2009.
Có thể nói chỉ trong giới hạn của những bài viết, các tác giả dưới những lăng
kính khác nhau đã khai thác, phân tích những vấn về liên quan đến ngoại giao văn
hóa rất sâu sắc và đầy mới mẻ về các vấn đề như:
- Vai trò của thông tin và truyền thông trong việc đẩy mạnh ngoại giao văn hóa
hiện nay.
- Sự tiến triển Quan hệ công chúng (PR), những nội dung cơ bản của PR và
khả năng ứng dụng PR trong ngoại giao văn hóa.
- Việc tổ chức festival ở Việt Nam chính là một hoạt động ngoại giao văn
hóa nhằm thúc đẩy sự quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra thế giới,
thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa thế giới tại Việt Nam.
- Muốn thực hiện thành công ngoại giao văn hóa, chúng ta phải chú trọng,
tăng cường “khai thơng” nhận thức, tư tưởng cho toàn xã hội về vai trị to lớn của
ngoại giao văn hóa trong thời đại tồn cầu hóa.
- Vai trị của việc tơn vinh các giá trị bản sắc dân tộc, đưa ra một số việc cần
làm ngay như: tổ chức lựa chọn Quốc phục, Quốc nhạc, Quốc tửu, các món ăn tiêu
biểu của Việt Nam…

- Truyền thống ngoại giao văn hoá với những nét đẹp trong suốt thời kỳ lịch
sử với ba đặc trưng cơ bản đó là: ngoại giao gắn với chủ thể văn hóa; ngoại giao lấy
tinh thần khoan hịa văn hóa làm phương châm; ngoại giao thông qua con đường
văn học nghệ thuật...


12

2.2. Những nghiên cứu về mối quan hệ và ngoại giao văn hóa Việt Nam
với ASEAN
* Về lịch sử, chính trị, văn hóa Việt Nam với ASEAN
Các cuốn sách viết về lịch sử, chính trị, văn hóa của Việt Nam với ASEAN
khá nhiều, tiêu biểu như: cuốn “Việt Nam – Đơng Nam Á: Quan hệ lịch sử văn hóa”
(1995) của Phạm Đức Thành, Ngô Văn Doanh, Trần Thị Lý...; “Các nước Đông
Nam Á” (2010) của các tác giả Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn
Thị Kim Yến, Đào Ngọc Tú; “Việt Nam- ASEAN” (1995) do Phạm Đức Thành (chủ
biên); “Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN” (2009) của Đinh Xuân Lý; “Ngoại
giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (2011) của Bùi Văn
Hùng; “Một Đông Nam Á vận mệnh chung, tương lai chung” (2013) của
M.Rajaretnam và Thái Quang Trung; “Quốc hội Việt Nam với AIPA trong tiến trình
xây dựng cộng đồng ASEAN” của Ngơ Đức Mạnh; “Xây dựng Cộng đồng văn hóa
xã hội ASEAN” (2013) do Đức Ninh chủ biên; “Hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN.
Bối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra” (2013) do Trương Duy Hòa chủ biên;
“Đánh giá hiện thực các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN” do Nguyễn Huy
Hồng chủ biên...
Trong đó đáng chú ý là cuốn sách “Lịch sử Đông Nam Á tập VI: Đông Nam
Á trong thời kỳ hịa bình, phát triển và hội nhập (1991-2010)” (2012) do Nguyễn
Thu Mỹ, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á chủ biên.
Cuốn sách đã dựng lại quá trình phấn đấu vì hịa bình, an ninh, phát triển và
hội nhập của Đông Nam Á từ 1991- 2010, bàn về một số vấn đề khoa học và thực

tiễn trong lịch sử Đông Nam Á đương đại như các vấn đề đặt ra trong q trình xây
dựng các giá trị văn hóa dân tộc, hiện đại và giữ gìn bản sắc khu vực trong bối cảnh
tồn cầu hóa như: các chính sách về văn hóa của các nước Đơng Nam Á; các thành
tựu phát triển văn hóa, xã hội và những vấn đề đang đặt ra cho các nước Đông Nam
Á trong thời gian tới; tình hình xây dựng Cộng đồng ASEAN…


13

* Về ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN
Có thể khẳng định là hiện chưa có một cơng trình chuyên biệt nào nghiên cứu sâu
về NGVH Việt Nam với ASEAN. Những tài liệu chủ yếu bàn về vấn đề có liên quan
đến NGVH Việt Nam với ASEAN có thể kể đến:
Cuốn “Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự gia
tăng quyền lực mềm” (2013) do Hoàng Minh Lợi chủ biên đã bàn về sự gia tăng
quyền lực mềm tại khu vực Đơng Bắc Á và tác động của nó tới nhiều quốc gia (trong
đó có Việt Nam). Các tác giả đề xuất, Việt Nam cần phải có những đối sách thích hợp
để biến những lợi thế, sức mạnh trở thành “quyền lực mềm phục vụ hữu hiệu cho
việc xây dựng hình ảnh và vị thế quốc gia”; Cuốn "Sức mạnh mềm văn hóa Trung
Quốc - Tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á” (2015) do Nguyễn Thị Thu
Phương chủ biên nói về mức độ tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc
một số nước Đơng Á và đặc biệt các tác giả nhận định Việt Nam cần tỉnh táo, thận
trọng trong việc tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tác động tích cực từ
sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc, đồng thời tăng cường “nội lực” văn hóa nhằm
chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại gây xói mịn các giá trị nền tảng,
làm giảm đi bản sắc văn hóa, chủ quyền văn hóa quốc gia. Từ đó xây dựng “chiến
lược nâng cao sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam”.
Hội thảo khoa học quốc tế “ASEAN:40 năm nhìn lại và hướng tới”, (2007)
do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ
chức. Hội thảo đã nhìn nhận thực tế 40 năm tồn tại và phát triển đã chứng tỏ rằng

ASEAN đã tạo dựng được một bản sắc riêng, khơng hịa trộn, được các nước và
cộng đồng quốc tế thừa nhận như là một “phong cách ASEAN”. Sự hình thành bản
sắc hay phong cách đó gắn liền với cội nguồn văn hóa Đơng Nam Á từ hàng nghìn
năm trước và trở thành tài sản chung của ASEAN hiện nay.
Ngồi ra cịn một số bài viết liên quan đến NGVH Việt Nam với ASEAN
như: "Hợp tác văn hóa, thơng tin và giáo dục trong ASEAN trong thế kỷ XXI”
(2009) của Đỗ Hương Giang, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á; “Quan hệ văn


14

hóa Việt Nam - ASEAN: một cách tiếp cận” của Lê Đình Tự; “Vài nét giao lưu văn
hóa ASEAN – Trung Quốc và Việt Nam trong lĩnh vực thư viện” (2012) của Phan
Thị Kim Dung, Tạp chí Thư viện Việt Nam...
Trong đó phải kể đến bài viết “Hợp tác văn hóa Việt Nam – ASEAN hướng
tới cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN” của Vũ Tuyết Loan, và bài “Tư duy đối
ngoại của Việt Nam về văn hóa trong hợp tác ASEAN” của Lê Viết Duyên. Theo
hai tác giả, hợp tác văn hoá giữa các nước ASEAN với nhau và giữa ASEAN với
các nước đối thoại là một nhu cầu tất yếu và rất được coi trọng. Các bài viết đã bàn
về hợp tác văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm qua và triển vọng hợp tác
văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm sắp tới. Tác giả nhận định văn hố
đã, đang và sẽ đóng vai trị quan trọng đề cao hình ảnh của ASEAN, không thể xây
dựng một Cộng đồng ASEAN trong tương lai mà khơng gắn với việc giữ gìn và làm
phong phú hơn những đặc trưng của văn hoá các dân tộc ASEAN, của con người
ASEAN. Văn hoá giúp tạo dựng tinh thần ASEAN, từ đó khiến cho nếp nghĩ và
hành động của mỗi người dân trong từng quốc gia có tính khu vực hơn.
Tóm lại, tổng quan tình hình nghiên cứu cả trong và ngoài nước cho thấy,
đây là những tài liệu hữu ích để tham khảo về lý luận và thực tiễn của ngoại giao
văn hóa. Đóng góp của các cơng trình là đã tìm ra khái niệm ngoại giao văn hóa ở
nhiều góc độ khác nhau, tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc

tế. Nhiều cơng trình cịn nghiên cứu và phân tích sâu về chính sách và thực tiễn
ngoại giao văn hóa của một số quốc gia cụ thể, hoặc làm rõ những nhân tố tác động,
những mục tiêu chiến lược mà chính sách ngoại giao văn hóa của quốc gia đó
hướng tới. Tuy nhiên, vẫn thiếu hụt các cơng trình nghiên cứu dưới góc độ văn hóa
học mà chủ yếu là dưới cách tiếp cận chính trị học, ngoại giao học.
Nhìn chung, do phần tư liệu tổng quan khơng phải là cơng trình nghiên cứu
chuyên biệt về chủ đề được lựa chọn nghiên cứu nên tính hệ thống và vấn đề nghiên
cứu liên quan trực tiếp đến đề tài chưa cao. Các công trình liên quan đến ngoại giao
văn hóa Việt Nam với ASEAN mới chỉ dừng lại ở các bài viết dưới dạng biểu hiện
của ngoại giao văn hóa như sức mạnh mềm văn hóa, hoạt động giao lưu, hợp tác về


15

văn hóa giữa Việt Nam với ASEAN… Có thể thấy rằng hiện nay các cơng trình
nghiên cứu chun sâu về ngoại giao văn hóa của khu vực Đơng Nam Á, đặc biệt là
ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập đang còn hạn chế,
thiếu hụt.
Việc mơ tả, phân tích tương đối rõ ràng mức độ thành cơng của các cơng trình
nghiên trong và ngồi nước và những kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của
luận án đã đem đến nhiều gợi mở ở các cấp độ khác nhau như: quan điểm phân tích hệ
thống lý luận về ngoại giao văn hóa, sức mạnh mềm văn hóa, vai trị của ngoại giao văn
hóa, những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa, hoạt động ngoại giao văn hóa giữa
Việt Nam với các nước ASEAN, xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa trong quan
hệ quốc tế nói chung và Việt Nam với các nước ASEAN nói riêng.
2.3. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
- Tại sao ngoại giao văn hóa lại được đề cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế
và có vị trí ngang hàng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế?
- Thực tiễn hoạt động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong
thời gian qua được thực hiện như thế nào?

- Ngoại giao văn hóa (một hoạt động văn hóa) có vai trị gì (đóng góp gì?)
cho mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN?
- Ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN có xu hướng vận động như thế
nào và những vấn đề cần đặt ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay?
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực tiễn và đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam
với các nước ASEAN, đồng thời góp bàn những phương thức để nâng cao hiệu quả
hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ hệ thống lý luận về ngoại giao văn hóa.
- Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam với ASEAN


16

- Nghiên cứu những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với
ASEAN.
- Khảo sát thực tiễn triển khai hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với
ASEAN.
- Nghiên cứu xu hướng vận động và những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu
quả của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Trong không gian Đông Nam Á hiện đại.
- Thời gian nghiên cứu: từ 1995 (khi Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN)
đến nay.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Ngoại giao văn hóa với cơ cấu hoạt động
hoạt động rất đa dạng và phong phú như phân loại theo nội dung hoạt động, hình

thức hoạt động, chủ thể hoạt động, không gian hoạt đông… Trong khuôn khổ của
luận án tác giả xin tập trung vào tiêu chí phân loại theo hình thức hoạt động của
ngoại giao văn hóa.
- Giới thuyết tên đề tài: Hiểu theo nghĩa đầy đủ tên đề tài của luận án là: Hoạt
động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và hợp tác quốc tế; các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về chính sách văn hóa đối ngoại, ngoại giao văn hóa nói chung
và với ASEAN nói riêng.
Ngồi ra luận án còn dựa trên cơ sở lý thuyết về "Sức mạnh mềm” và “Tiếp
biến văn hóa”.


17

6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu
Được sử dụng để tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp, giúp NCS sử dụng
nhiều nguồn tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, dùng để đánh giá, phân loại
tài liệu trong quá trình nghiên cứu nhằm phân tích, luận giải cơ sở lý luận liên quan
đến ngoại giao văn hóa, hệ thống hóa quan điểm của điểm của Đảng và Nhà nước
về ngoại giao văn hóa, đồng thời phân tích hoạt động thực tiễn ngoại giao văn hóa
Việt Nam với các nước ASEAN trong thời gian qua, những thành tựu và hạn chế
cần khắc phục.
- Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở nội dung của luận án, NCS lựa chọn các nhà khoa học, các
chuyên gia, những người am hiểu về lý luận và thực tiễn về ngoại giao văn hóa làm
việc tại các cơ quan nghiên cứu và các cục, vụ chức năng của Bộ Văn hóa, Thể thao

và Du lịch (Bộ VHTTDL), Bộ Ngoại giao… để trao đổi, tham khảo những quan
điểm, ý kiến đối với vấn đề nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn chủ yếu là quan điểm
của các chuyên gia về các vấn đề liên quan đến hoạt động ngoại giao văn hóa giữa
Việt Nam với các nước ASEAN như: nhận thức của họ về vai trị của ngoại giao
văn hóa, đánh giá của họ về thành công và hạn chế của hoạt động ngoại giao văn
hóa Việt Nam với ASEAN, về cơ chế phối hợp, về nguồn nhân lực, nguồn kinh phí
cho hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN…
- Phương pháp liên ngành
Nghiên cứu hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ
hội nhập là sự thu thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học chuyên
ngành như lịch sử, xã hội học, ngoại giao học, chính trị học… Cho nên, các thao tác
nghiên cứu của luận án được thực hiện thông qua sự kết hợp linh hoạt các phương
pháp trên. Sử dụng phương pháp liên ngành, đa ngành vào đề tài luận án, giúp cho
việc khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau trong vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp liên ngành/đa ngành còn liên cứu các lĩnh vực chồng lẫn giữa các hoạt
động văn hóa, chính trị, kinh tế của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN.


18

7. Đóng góp của luận án
Về mặt lý luận: Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa
là một trong những trụ cột của nền ngoại giao hiện đại.
Xác định khái niệm ngoại giao văn hóa, cơ cấu của ngoại giao văn hóa, vai
trị của ngoại giao văn hóa trong q trình hội nhập.
Nâng cao nhận thức về ngoại giao văn hóa trong hoạt động ngoại giao tổng hợp.
Về mặt thực tiễn: Khảo sát thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt
Nam với ASEAN.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm nguồn tư liệu vào tìm hiểu ngoại
giao văn hóa nói chung, ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN nói riêng cho

những người làm ngoại giao, các tùy viên văn hóa, các nhà nghiên cứu và sinh viên
các ngành Quan hệ quốc tế, ngành Quản lý văn hóa, Văn hóa học…Ngoài ra, cung
cấp các kiến giải và luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chính sách văn hóa
đối ngoại củaViệt Nam với các nước ASEAN trong thời kỳ hội quốc tế.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các cơng trình nghiên cứu của tác giả và danh
mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa và khái lược về mối quan hệ
giữa Việt Nam với ASEAN
Chương 2: Thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN
trong thời kỳ hội nhập
Chương 3: Xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN
và những vấn đề đặt ra


19

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA
VÀ KHÁI LƯỢC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI ASEAN
1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa
1.1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa và các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa
Muốn nhận thức một cách khoa học định nghĩa ngoại giao văn hóa (NGVH),
chúng ta phải làm rõ khái niệm ngoại giao và khái niệm văn hóa. Hai khái niệm này
là cơ sở để hiểu rõ NGVH.
* Khái niệm ngoại giao
Ngoại giao (diplomacy) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (diplom). Mặc dù đã
xuất hiện từ rất lâu, song khái niệm ngoại giao đến nay được hiểu khá khác nhau.
Loại định nghĩa thứ nhất, thiên về hình thức ngoại giao, cho rằng:

Ngoại giao chủ yếu là đàm phán. Thực chất của ngoại giao chính là
thơng qua đàm phán để xử lý quan hệ quốc tế. Học giả Đức Martens
cũng từng chỉ ra một cách rõ ràng: Ngoại giao “trên nghĩa hẹp, là khoa
học nghệ thuật đàm phán”. Trong “Từ điển Webster” của Mỹ, ngoại giao
được định nghĩa: “Là nghệ thuật điều khiển đàm phán quốc tế”. Từ điển
Anh ngữ Oxford chỉ ngoại giao là: (1) Thông qua đàm phán xử lý quan hệ
quốc tế; (2) Phương pháp mà đại sứ hoặc các nhân viên ngoại giao điều
chỉnh và xử lý những quan hệ này; (3) Nghiệp vụ hoặc kỹ thuật của nhà
ngoại giao; (4) Kỹ năng hoặc cách ăn nói trong xử lý quan hệ giao lưu và
đàm phán quốc tế [61. tr, 57-58].
Loại định nghĩa thứ hai, chủ yếu nhấn mạnh công năng của ngoại giao, cho rằng
công năng của ngoại giao chủ yếu là xử lý quan hệ quốc gia và cơng việc quốc tế. Định
nghĩa mang tính đại diện như sau: Trong cuốn “Hướng dẫn thực tiễn ngoại giao”
E.M.Satow, quan chức ngoại giao Anh, đã chỉ ra: “Ngoại giao là sự vận dụng trí lực và
cơ trí để xử lý quan hệ chính thức giữa chính phủ các quốc gia độc lập và quốc gia phụ
thuộc. Hoặc nói một cách đơn giản, là chỉ dùng thủ đoạn hịa bình để xử lý công việc


20

giữa các nước” [61, tr. 58].
Loại định nghĩa thứ ba chủ yếu nhấn mạnh mặt bản chất của ngoại giao, cho
rằng ngoại giao là một loại hành vi đối ngoại quốc gia có chủ quyền.
Ở Việt Nam theo Từ điển Tiếng Việt năm 1996 định nghĩa:
Theo nghĩa động từ: “Ngoại giao là sự giao thiệp với nước ngoài để bảo vệ quyền
lợi của quốc gia mình và góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung”.
Theo nghĩa danh từ: “Ngoại giao là chỉ hoạt động của một nước về mặt quan
hệ quốc tế”.
Trong từ điển Hán ngữ hiện đại (tái bản năm 2002), khái niệm ngoại giao
được giải thích là: “Hoạt động của một nước trong phương diện quan hệ quốc tế,

như tham gia tổ chức và hội nghị quốc tế, cử đại sứ, tiến hành đàm phán, ký kết
điều ước và hiệp định…” [61, tr.59].
Chúng ta có thể thấy trong mỗi định nghĩa đều cố gắng làm nổi bật những khía
cạnh mà định nghĩa đó coi là chủ yếu và quan trọng nhất của khái niệm, có thể khái
quát các khái niệm trên như sau:
Về mặt bản chất: Ngoại giao là sự giao thiệp của quốc gia chủ thể với quốc
gia bên ngoài.
Cách thức: Sử dụng phương pháp hịa bình, thủ đoạn hịa bình.
Kỹ năng: nghệ thuật, phương pháp và nghiệp vụ của nhà ngoại giao trong
giao lưu và đàm phán quốc tế.
Hoạt động: mang tính tổng hợp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tồn cầu hóa như hiện nay, các chủ thể tham dự
quan hệ quốc tế tăng lên khơng ngừng, kèm theo đó là sự gia tăng của các tác nhân
mới trên trường quốc tế như: các tổ chức phi chính phủ (NGOs) các thể chế liên
chính phủ, các tổ chức quốc tế. Điều đó đã làm cho phương thức ngoại giao ngày
càng đa dạng. Hay nói cách khác ngoại diên khái niệm ngoại giao đã mở rộng ra rất
nhiều, từ ngữ ngoại giao cũng rất phong phú, các từ ngữ, khái niệm mới liên tiếp


21

xuất hiện như “ngoại giao môi trường”, “ngoại giao hoạt hình”, các khái niệm quen
thuộc như “ngoại giao kinh tế”, “NGVH”, “ngoại giao thể dục”, “ngoại giao bóng
bàn”… tần suất sử dụng ngày càng tăng cao, được giới học thuật sử dụng rộng rãi.
* Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm rất phong phú và đa dạng vì ở mỗi dân tộc, mỗi
thời đại lịch sử cho ta định nghĩa khác nhau về văn hóa, và văn hóa gắn liền với xã
hội (kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao…) mỗi sự thay đổi của nó cho ta quan
niệm khác nhau về văn hóa…
Đầu thế kỷ XXI, trong Tun bố tồn cầu về Đa dạng văn hóa (tháng 11/2001)

được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) khẳng định:
Văn hóa là một tổng hợp các đặc điểm tinh thần, thể chất, tri thức và tình
cảm đặc trưng cho một xã hội hoặc một nhóm xã hội, bao hàm khơng chỉ
nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, cách thức cùng chung sống, các
hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng. Những đặc trưng của các yếu
tố cấu thành đó giúp ta phân biệt được một xã hội (hoặc một nhóm xã hội)
với các xã hội (hoặc nhóm xã hội) khác [94].
Với định nghĩa này, UNESCO đã chỉ ra bản chất của văn hóa là tổng hợp đặc
điểm tình thần của một cộng đồng, trong đó cơ cấu của văn hóa là nghệ thuật, văn
chương, lối sống, cách sống chung, giá trị, truyền thống, tín ngưỡng của một cộng
đồng. Định nghĩa trên cũng đã nhấn mạnh vai trị của văn hóa trong việc giúp một xã
hội khẳng định sự hiện diện của mình trên thế giới và đảm bảo sự tồn tại của xã hội
đó theo dịng thời gian. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác “đa dạng văn hóa” cịn ẩn
chứa một sức mạnh bên trong nó. Bởi “đa dạng văn hóa” về bản chất chính là “sự
khác biệt” giữa các nền văn hóa với nhau, và chính sự khác biệt này tạo nên sự hấp
dẫn, sự thu hút của một nền văn hóa đối với thế giới bên ngồi.
Vì vậy, trong luận án này tác giả sử dụng định nghĩa của UNESCO về văn
hóa trong Tun bố tồn cầu về Đa dạng văn hóa là nền tảng chính để phát triển
luận điểm phục vụ cho nghiên cứu của luận án.


22

* Mối quan hệ giữa văn hóa và ngoại giao
Trong ngoại giao thời cổ đại và cận đại, mặc dù văn hóa cũng tham gia vào
các hoat động giao lưu, nhưng mới chỉ được coi là bối cảnh của ngoại giao gây ảnh
hưởng đến việc lựa chọn mục tiêu, chính sách, quá trình quyết sách, phong cách
ngoại giao và phương thức ngoại giao của ngoại giao quốc gia. Đây là sự giải thích
sớm nhất của con người về quan hệ văn hóa và ngoại giao, cũng là hàm nghĩa đầu
tiên của “ngoại giao văn hóa”, nghĩa là: văn hóa là bối cảnh của ngoại giao.

Từ khi bắt đầu xuất hiện các quốc gia dân tộc, hoạt động giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc chưa bao giờ bị gián đoạn. Giao lưu văn hóa truyền thống có đặc
điểm mang tính tự phát, quy mô nhỏ và nội dung hạn chế. Chủ thể giao lưu phần
lớn là các thương gia và khách du lịch.
Giao lưu văn hóa thể hiện tính tích cực cá nhân được chính thức đưa vào lĩnh
vực ngoại giao thời cận đại. Do sự truyền bá, giao lưu và kết nối văn hóa giữa các
quốc gia ngày càng mở rộng sang nhiều lĩnh vực như chính trị, luật pháp, kinh tế,
khoa học kỹ thuật và quân sự, đồng thời ảnh hưởng tới việc chế định chính sách đối
ngoại của quốc gia, nên các quốc gia dần ý thức được “lợi ích của việc đưa thêm
truyền bá văn hóa dân tộc và giao lưu trí lực vào trong quan hệ ngoại giao”, từ đó
khơng cịn “khơng quan tâm” mà “chủ động suy nghĩa về nó”.
Bước vào thế kỷ XX đến nay, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ hai,
trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, tác dụng và vị trí của giao lưu văn hóa trong
quan hệ quốc tế ngày càng nổi bật. Các nước trên thế giới phổ biến coi trọng việc
lợi dụng thủ đoạn văn hóa để thể hiện rõ văn hóa nước mình, truyền bá quan niệm
giá trị của mình, nâng cao và mở rộng sức ảnh hưởng của quốc gia.
Chính vì vậy, hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại dần bước vào trung tâm
của vũ đài giao lưu quốc tế không chỉ hạn chế trong các lĩnh vực như chính trị, kinh
tế, khoa học kỹ thuật và quân sự mà còn đi sâu vào lĩnh vực văn hóa. Do đó, dần
hình thành hành vi ngoại giao của lĩnh vực văn hóa, hay hoạt động văn hóa trong
lĩnh vực ngoại giao. Hành vi văn hóa trong ngoại giao được “Cơng ước quan hệ
ngoại giao Vienna”năm 1961 đặc biệt đề cập tới, một trong những nhiệm vụ của đại


×