Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

SKKN: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.89 KB, 42 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT NGÔ GIA TỰ
----------

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT

Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THÚY HẰNG
Mã môn: 51

Lập Thạch, năm 2019


MỤC LỤC
Mục
I
II
III
IV
V
VI

Nội dung
Giới thiệu đề tài
Tên sáng kiến
Tác giả sáng kiến
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:



20.10.2014
VII Mô tả bản chất của sáng kiến:
1 Khái lược về truyện ngắn
2 Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn
3 Định hướng cách đọc - hiểu truyện ngắn trong nhà trường THPT
4 Thực nghiệm
5 Kết quả nghiên cứu
6 Kết luận chung
VIII Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
IX Đánh giá lợi ích thu được
X Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu

Trang
3
5
5
5
5
6
6
6
6
13
15
40
41
42
42

42

BÁO CÁO
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
I. Giới thiệu đề tài
1. Lý do chọn đề tài
- Có ý kiến cho rằng: Truyện ngắn là một thứ giọt nước mà khơng
có nó khơng thể có đại dương. Đây cũng là một thể loại đánh dấu trình độ nghệ


thuật của một nền văn học. Nhìn từ phương diện hình thức, truyện ngắn chỉ là
một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ bên cạnh những trường ca, những bộ tiểu thuyết đồ
sộ. Nhưng ý nghĩa và giá trị của truyện ngắn lại không hề nhỏ và thua kém
những tiểu thuyết hay trường ca. Đây là thể loại văn học có nội khí "một lời mà
thiên cổ, một gợi mà trăm suy". Do đó, truyện ngắn là một trong những thể loại
văn học khó nhất, địi hỏi một cơng phu lao động lớn của nhà văn nhưng cũng là
thể loại hấp dẫn và cuốn hút độc giả nhất trên thế giới.
- Trong chương trình Ngữ văn THPT, truyện ngắn (dân gian, trung
đại và hiện đại) chiếm một ưu thế khá nổi trội, khoảng 1/2 số lượng văn bản văn
học được học và đọc thêm. Thực tế này khẳng định vị trí quan trọng của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học cũng như trong quá trình giảng dạy và tiếp nhận
văn học trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy người viết
nhận thấy: khi tiếp cận tác phẩm truyện ngắn, học sinh mới chỉ tiếp nhận đơn
thuần giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm đơn lẻ mà chưa nắm
vững được những đặc trưng cơ bản của thể loại. Điều này dẫn đến tình trạng
lúng túng trong q trình viết bài văn phân tích một trong những vấn đề được
đặt ra trong một tác phẩm truyện ngắn. Đặc biệt, đối với một đoạn truyện ngắn
khơng nằm trong chương trình được đưa vào các bài đọc - hiểu (trong các dạng
đề thi THPT Quốc gia) thì học sinh hầu như khơng đọc - hiểu được ý nghĩa
cũng như những đặc sắc nghệ thuật của văn bản.

- Xuất phát từ cơ sở lí luận về thể loại văn học truyện ngắn cũng
như thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy văn bản truyện ngắn trong nhà trường phổ
thông nói trên, người viết lựa chọn đề tài: Đặc trưng truyện ngắn và định
hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT như một
hướng khai thác và nghiên cứu trong quá trình giảng dạy.
2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài
Nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy ở
trường trung học phổ thông, người viết sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn
bao qt và tồn diện về đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nắm vững cách thức
đọc - hiểu truyện ngắn. Trên cơ sở nắm vững lý thuyết chung đó, học sinh có thể


vận dụng để tìm hiểu và giải mã sâu sắc những vấn đề đặt ra trong một đoạn
truyện ngắn, một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm truyện ngắn cụ thể trong
chương trình.
Ngồi ra, đề tài này cũng giúp HS rèn luyện và nâng cao kĩ năng
phân tích, cảm thụ truyện ngắn khi làm văn. Đối với học sinh các lớp học
chương trình nâng cao, đề tài này cịn định hướng và kích thích hứng thú sáng
tác truyện ngắn của các em.
3. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn.
- Phạm vi nghiên cứu: Bám sát vào các tác phẩm truyện ngắn hiện
đại tiêu biểu trong nhà trường phổ thông (chẳng hạn như các tác phẩm của Nam
Cao, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tơ Hồi, …).
4. Phương pháp tiến hành
- Nghiên cứu tài liệu
- Thực nghiệm (giảng dạy), đây là phương pháp chính
Do tính chất đa dạng và phạm vi sâu rộng của kiến thức trong chuyên
đề mà nó được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển cho nhiều loại đối tượng học
sinh khác nhau từ học sinh đại trà đến học sinh khá giỏi, với thời gian học khác

nhau. Tùy từng đối tượng HS cụ thể mà giáo viên có phương pháp giảng dạy
phù hợp từ cơ bản đến nâng cao kiến thức. Trong q trình dạy, giáo viên có thể
kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp đọc - hiểu văn bản.
Nếu đối tượng là học sinh đại trà, cụ thể là học sinh lớp 11 ban A, chuyên đề
có thể được dạy trong 2 đến 3 tiết. Giáo viên sẽ cung cấp những kiến thức cơ
bản và ngắn gọn nhất về đặc trưng của truyện ngắn, định hướng cách đọc hiểu
và áp dụng vào bài đọc - hiểu một truyện ngắn cụ thể.


Với học sinh lớp học nâng cao, cụ thể là học sinh lớp 11 ban KHXH, nội
dung các kiến thức trên được tiến hành giảng dạy trong các tiết chuyên đề. Thời
gian tuỳ thuộc vào sự phân bố số tiết học của từng chuyên đề đã được quy định
cho các lớp, nhưng có thể gói gọn từ 4 đến 6 tiết. Ngoài những kiến thức cơ bản
đã nêu, trong quá trình dạy đặc trưng thể loại truyện ngắn giáo viên có thể định
hướng cho học sinh cái nhìn so sánh với đặc trưng của các thể loại văn học khác.
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh đọc - hiểu các văn bản cụ thể trong chương
trình, giáo viên cịn đưa ra các bài tập nâng cao, để học sinh vận dụng lí thuyết
xử lí các đề bài liên quan đến thể loại truyện ngắn.
Nếu học sinh tham gia đội tuyển thi học sinh giỏi cấp tỉnh thì cần xác định
thời gian là cấp tốc, ngoài việc khái quát những kiến thức cơ bản, giáo viên định
hướng và kích thích học sinh tự tìm hiểu phong cách viết truyện ngắn của một số
nhà văn tiêu biểu trong chương trình với cái nhìn đối sánh. Đồng thời giáo viên
cũng nên đưa ra những bài tập chọn lọc vận dụng nhiều kiến thức tổng hợp và
các dạng đề thường gặp khi thi HSG. Thời gian học có thể từ 2 đến 4 tiết.
II. Tên sáng kiến:
Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn
trong nhà trường THPT

III. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thúy Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Ngô Gia Tự
- Số điện thoại: 0987.137.977
- E-mail:
IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng
V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Đề tài này, tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu đặc trưng truyện ngắn và
định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT; vận dụng
phương pháp này vào dạy học các bài đọc văn về thể loại truyện ngắn trong
chương trình ngữ văn 11. Từ đó, giúp học sinh tìm ra được phương pháp học
chủ động sáng tạo, khoa học và đạt hiệu quả cao.
VI. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20.10.2014


VII. Mô tả bản chất của sáng kiến
1. Khái lược về truyện ngắn
- Khái niệm: truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ với một dung lượng
hiện thực, số lượng nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian…tương đối hạn chế.
- Thời gian xuất hiện: Truyện ngắn đích thực (phân biệt truyện ngắn hiện
đại với truyện ngắn thời trung đại, truyện kể dân gian) xuất hiện tương đối muộn
trong lịch sử văn học, khoảng thời cận hiện đại, gắn liền với sự ra đời và phát
triển của báo chí và chủ yếu phát triển trong 150 năm gần đây. Đây là thể loại
gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời.
2. Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn
2.1. Truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật (“ngắn”).
Một trong những đặc trưng nổi bật của truyện ngắn là: Truyện ngắn phải
ngắn. Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến nó tự phân biệt một cách dứt
khốt và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết. Đặc trưng này được biểu
hiện qua một số phương diện cụ thể như sau:

- Ngơn ngữ, dung lượng: ngơn ngữ ít, số trang ngắn và bị giới hạn
(thường dưới 10 trang), đặc biệt có những truyện rất ngắn (chỉ một vài câu).
- Về mặt đề tài, chủ đề: dung lượng hay phạm vi đời sống được phản ánh
là có hạn. Truyện ngắn không đặt ra nhiều vấn đề đời sống khác nhau trong tác
phẩm mà thường chỉ xoay quanh một vấn đề.
Chẳng hạn trong “Đời thừa” - Nam Cao: Đề tài và chủ đề dù có sự xung
đột giữa ước mơ cao đẹp, lí tưởng nhân đạo và hiện thực xã hội khắc nghiệt
nhưng bi kịch của Hộ là bi kịch cá nhân của người trí thức nghèo trong xã hội
cũ.
- Thời gian trong truyện ngắn: truyện ngắn không phản ánh một quá trình
mà chỉ tập trung phản ánh một thời điểm tiêu biểu, một lát cắt, một “moment”
của đời sống.
Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) tập trung kể lại khoảng thời gian 6 ngày
cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) xoay quanh
tình huống gặp gỡ của Huấn Cao và quản ngục ở nhà tù trong mấy ngày cuối đời


của Huấn Cao trước khi ra pháp trường để chịu án tử hình. “Rừng xà nu”
(Nguyễn Trung Thành) được kể trong một đêm khi Tnú được nghỉ phép về thăm
làng. Thậm chí tác phẩm “Sống chết mặc bay” (Phạm Duy Tốn) chỉ kể lại những
sự việc diễn ra trong 1 giờ.
- Không gian được miêu tả trong truyện ngắn là khơng gian hẹp với 1 địa
điểm cụ thể.
Ví dụ: Làng Vũ Đại trong "Chí Phèo", làng Xơ Man trong "Rừng xà nu",
một phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ”, một xóm ngụ cư trong "Vợ nhặt",
một nhà lao ở vùng tỉnh Sơn trong “Chữ người tử tù”, thậm chí chỉ trong căn
nhà của vợ chồng văn sĩ Hộ ở tác phẩm "Đời thừa".
- Sự kiện: Truyện ngắn thường ít sự kiện. Trong tác phẩm thường tập
trung kể về một sự kiện chính nên cốt truyện tương đối đơn giản.
Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) xoay quanh sự kiện chính là cuộc gặp gỡ

giữa Chí Phèo và Thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh lương tri tiềm ẩn trong con quỷ
dữ làng Vũ Đại, hắn khát khao lương thiện nhưng không được, cuối cùng Chí
tìm đến cái chết. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa cảnh vật và một số hoạt động
sinh hoạt của phố huyện nghèo từ chiều tà đến đêm tối qua con mắt của nhân vật
Liên. “Chữ người tử tù” với sự kiện chính là xin chữ và cho chữ giữa Huấn Cao
và Quản ngục. "Vợ nhặt" xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu
Tràng.
- Nhân vật: số lượng nhân vật thường ít, tính cách khơng quá phức tạp.
Nếu trong tiểu thuyết, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng trăm thì nhân vật
trong truyện ngắn rất ít. “Chữ người tử tù” xoay quanh 3 nhân vật: Huấn Cao,
quản ngục, thơ lại. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa Liên và An. “Chí Phèo” tập
trung khắc họa 3 nhân vật: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến. "Vợ chồng A Phủ" tập
trung khắc họa nhân vật Mị và A Phủ.
2.2. Truyện ngắn vẫn khắc phục những giới hạn này để vươn tới sức khái
quát hiện thực, tạo ra sự hấp dẫn riêng
Truyện ngắn phải ngắn đòi hỏi phải cô đọng đến mức cao nhất. Ngắn ở
truyện ngắn đồng nghĩa với cơ đọng, tinh chất - nhìn vào đó có thể thấy cuộc


sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Theo tơi hiểu, tồn bộ truyện ngắn là một
tấm thảm lớn lao về cả thời đại. Với những mảnh tưởng như rất nhỏ bé, nó góp
phần tạo nên cả tấm chân dung hồn chỉnh. Sêkhơp - bậc thầy truyện ngắn cũng
quan niệm rằng: truyện ngắn là biết nói ngắn những truyện dài, lời chật mà ý
rộng. Cụ thể như sau:
- Đề tài nhỏ nhưng chủ đề lớn, có ý nghĩa hiện thực, nhân sinh và có tính
triết lí cao.
+ “Số phận con người” của Sôlôkhốp với chủ đề: con người đứng dậy sau
những mất mát, đớn đau bằng tình thương.
+ “Chí Phèo” của Nam Cao với chủ đề: tình người làm hồi sinh tính
người.

+ Trong “Tư cách mõ”, Nam Cao muốn nêu lên một triết lí: tính cách con
người nảy sinh do hồn cảnh chứ khơng phải bản tính trời cho. Tính cách ấy có
thể bị biến đổi theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi là do hoàn cảnh chi phối.
Đặc biệt, chính sự ghen ghét, đố kị của con người có thể đẩy người khác đến chỗ
biến dạng, đánh mất chính bản thân mình.
+ Ở tác phẩm “Một bữa no”, Nam Cao khái quát chủ đề: Miếng ăn không
phải là nghệ thuật ẩm thực nữa mà là miếng khổ, miếng nhục. Tên tác phẩm là "
Một bữa no" nhưng để nói về cái đói, về số phận rẻ rúng của con người trước cái
đói, miếng ăn. Trước cái đói, miếng ăn, con người trở nên thấp hèn với chính
mình, với những người xung quanh.
+ Với "Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân muốn hướng tới chủ đề: Sự chiến
thắng của cái đẹp, cái thiện với cái xấu, cái ác.
- Không gian, thời gian dù bị hạn chế nhưng:
+ Không gian được lựa chọn ở những thời khắc và những điểm khơng
gian có ý nghĩa, có khả năng dồn nén sức nặng hiện thực và có khả năng nhận
thức đối với nhân vật.
Ví dụ: Truyện ngắn “Chí Phèo” chỉ chọn sáu ngày cuối cùng của cuộc
đời Chí Phèo khi Chí gặp Thị Nở và thức tỉnh bản tính lương thiện. Đó cũng là
tư tưởng chủ đạo mà Nam Cao gửi gắm trong tác phẩm. Chọn không gian là một


làng Vũ Đại - làng hội tụ tất cả những áp bức, bất công của bọn cường hào và
nỗi cực khổ của người nơng dân - chính là bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt
Nam đương thời.
Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” chỉ chọn thời điểm một giờ
trước và khi đê vỡ - thời điểm nguy kịch, góp phần vạch trần bản chất bàng
quan, vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ được coi là cha mẹ dân.
Truyện ngắn "Chữ người tử tù" chỉ tập trung khắc họa nhân vật
Huấn Cao trong mấy ngày cuối cùng của cuộc đời - khoảng thời gian vô cùng
ngặt nghèo và quý báu, trong nhà lao - nơi tồn tại cái xấu, cái ác, sự nhơ bẩn.

Từ đó góp phần làm nổi bật khí phách anh hùng, thiên lương trong sáng, chất
nghệ sĩ tài hoa, cao hơn là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ
bẩn.
+ Không gian, thời gian còn được mở rộng bằng sự hồi tưởng bằng việc
kể lại quá khứ, bằng giấc mơ và kỉ niệm. Do đó nhà văn vẫn khái quát được cả
cuộc đời và cả một thế hệ, nhân vật vẫn hiện lên trọn vẹn.
Ví dụ: Chí Phèo chỉ xuất hiện trong truyện với khoảng thời gian 6 ngày
nhưng truyện đã tái hiện được cả cuộc đời của nhân vật từ khi sinh ra đến khi
chết, nhân vật vẫn hiện lên trọng vẹn, sống động thơng qua dịng thời gian hồi
tưởng về quá khứ.
Trong truyện ngắn "Rừng xà nu", thời gian trần thuật là một đêm
Tnú được nghỉ phép về thăm buôn làng nhưng truyện đã tái hiện được toàn bộ
cuộc đời Tnú từ khi sinh ra đến khi tiếp tục cầm súng tham gia chiến đấu sau
những mất mát lớn lao. Cùng với đó là cuộc đấu tranh và nổi dậy của dân làng
Xô Man từ những ngày đau thương đến chiến thắng thông qua lời kể lại của cụ
Mết - già làng.
+ Thời gian, khơng gian cịn được mở rộng về hướng tương lai, hướng
“mở” khiến câu chuyện được tiếp diễn, dịng đời chảy trơi vơ tận. Do đó, câu
chuyện không phải là một khoảnh khắc, không dừng lại ở một lát cắt của cuộc
đời mà là một dòng chảy trong đời sống.
Ví dụ: “Chí Phèo” với kết thúc mở, gợi suy nghĩ về một Chí Phèo con ra


đời nối nghiệp bố và cuộc sống khổ cực, bi thảm của người nơng dân vẫn là một
vịng luẩn quẩn, bế tắc. Hiện tượng Chí Phèo dường như vẫn chưa kết thúc.
Trong “Số phận con người”, Sôlôkhốp không chỉ tái hiện cuộc đời
nhân vật trong quá khứ, hiện tại mà có cả niềm tin vào tương lai tươi sáng (qua
dịng trữ tình ngoại đề).
- Nhân vật trong truyện ngắn tuy ít nhưng:
+ Nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất: ngoại hình, nội

tâm, hành động…
Ví dụ: nhân vật Chí Phèo được tập trung miêu tả ở các phương diện sau:
• Ngoại hình được miêu tả tỉ mỉ từ đầu tóc, quần áo, tay, ngực, mặt…khi
Chí mới đi ở tù về nhằm nhấn mạnh dấu hiệu báo trước về sự khác biệt đến dị
thường của con người này.
• Nội tâm: chỉ được miêu tả nội tâm ở đoạn đời sau khi gặp Thị Nở. Lần
đầu tiên sau bao năm tha hố, biến chất thành “quỷ dữ”, Chí Phèo đã thốt khỏi
cơn say triền miên khơng ngày tháng để suy nghĩ về cuộc đời mình: đoạn đời đã
qua, những ước mơ trong quá khứ chưa bao giờ thực hiện được và tương lai mờ
mịt sắp tới. Từ đó Nam Cao muốn khẳng định: bản chất lương thiện luôn tồn tại
trong con người ở bất cứ hồn cảnh nào.
• Hành động: Chí Phèo được miêu tả là kẻ lưu manh nên hành động của
Chí phù hợp với tính cách lưu manh: uống rượu, rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến,
địi nợ Đội Tảo, tỏ tình với Thị Nở, giết Bá Kiến…
+ Nhân vật cịn được đặt trong tình huống để bộc lộ nhận thức và hành
động. Tình huống là kết quả của nhiều sự kiện. Nó buộc nhân vật phải hành
động, trong tình huống ấy nhân vật bộc lộ mình rõ nhất.
Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” - Tơ Hoài. Nhân vật Mị sau bao ngày thờ ơ, lạnh
lùng, vơ cảm trước APhủ bị trói đứng. Nhưng một đêm chợt nhìn thấy dịng
nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại của APhủ - giọt nước
mắt đau khổ và tuyệt vọng  Mị nhớ tới mình trong quá khứ (thương mình) 
thương APhủ  thấy sự tàn ác của cha con Thống lí  Thấy sự bất công trong
cái chết của APhủ  cuối cùng nỗi thương người chiến thắng nỗi sợ hãi nên Mị


đã quyết định cắt dây trói cho APhủ. APhủ đi rồi, cịn lại 1 mình - nỗi sợ hãi bao
trùm, niềm khát khao sống bùng dậy mãnh liệt  Mị chạy theo APhủ.
Với "Chí Phèo", nhà văn Nam Cao đã thức tỉnh bản tính lương
thiện, khao khát ở nhân vật Chí Phèo và Chí hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho
hắn nhưng cuối cùng lại bị từ chối. Con đường hồn lương đóng sầm trước mắt,

bản tính lương thiện trở về khiến hắn không thể tiếp tục lựa chọn con đường làm
quỷ dữ. Vì thế, Chí Phèo phải giết kẻ đã gây ra bi kịch này cho mình (giết Bá
Kiến) và tự sát để bảo toàn nhân cách.
- Đặc biệt: Sức hấp dẫn, sinh động của truyện ngắn còn được tạo ra từ
những chi tiết đắt. Truyện ngắn rất đề cao chi tiết. Đó là những chi tiết có sức cơ
đọng, khái qt, gợi mở, tạo được khơng khí cho truyện, có những chi tiết thể
hiện con người, tạo vấn đề, thể hiện ý nghĩa, giá trị tư tưởng của tác phẩm…
+ Ví dụ trong “Chí Phèo” cần nói đến các chi tiết: mùi hương cháo hành,
cái lò gạch, cái mặt sẹo của Chí, giọt nước mắt của Chí…
+ Ví dụ trong “Rừng xà nu” - chi tiết đơi bàn tay của Tnú: hình ảnh biểu
trưng cho cuộc đời và phẩm chất, tính cách của nhân vật.
+ Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” - chi tiết Mị ăn lá ngón tự vẫn, chi tiết dòng
nước mắt của APhủ…
- Kết cấu của truyện ngắn luôn tạo những bất ngờ và đột biến. Đây là một
yếu tố được đề cao trong truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn thường tập trung tơ
đậm cái mở đầu và cái kết thúc. Mở đầu thường tạo ấn tượng và sự hấp dẫn đặc
biệt. Kết thúc luôn tạo được những bất ngờ, thú vị, không theo phán đoán của
người đọc (tưởng thế này mà hoá ra thế khác) và thường để lại nhiều dư âm.
+ Ví dụ mở đầu tác phẩm "Chí Phèo" là sự xuất hiện trực tiếp, đầy ấn
tượng của nhân vật chính - Chí Phèo với những bước đi xiêu vẹo và tiếng chửi
đặc biệt của một kẻ nửa say nửa tỉnh. Kết thúc bất ngờ: tưởng Chí Phèo đến giết
bà cơ Thị Nở nhưng hóa ra Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến và giết hắn.
+ Kết thúc tác phẩm “Lão Hạc” cũng là một kết thúc bất ngờ để lại nhiều
dư âm cho người đọc. Ông giáo và cả người đọc tưởng lão xin bả chó là hành


động tha hố, làm liều khi đói q, cuối cùng lão lại dùng bả chó tự vẫn, từ đó
bộc lộ đức hi sinh, phẩm chất trong sạch của lão.
- Truyện ngắn cịn tạo được “màu sắc, hương vị, khơng khí, nắng mưa,
thời tiết riêng, hơi thở riêng, một không gian ba chiều, thậm chí bốn chiều”

(Nguyên Ngọc) để đưa người đọc vào ấn tượng và cảm giác sát thực đối với
hồn cảnh của câu chuyện.
Ví dụ: Với tác phẩm “Dưới bóng hồng lan”, Thạch Lam đã tạo được
khơng khí trữ tình nhẹ nhàng, man mác. Truyện “Hai đứa trẻ” vừa mang màu
sắc lãng mạn vừa mang màu sắc hiện thực: lãng mạn ở cảnh chiều tà đẹp mà
buồn, ở hình ảnh đồn tàu rực rỡ ánh sáng và sơi động âm thanh chạy qua phố
huyện…, hiện thực ở cuộc sống nghèo nàn, tăm tối của người dân, khơng khí
buồn tẻ và đêm tối dày đặc ở phố huyện.
- Truyện ngắn cũng mang khả năng tổng hợp cao: ghép vào đó chất triết lí
của ngụ ngơn, chất trữ tình, chất thơ của thơ ca, chất kịch…
+ Ví dụ: Truyện ngắn mang tính chất trữ tình của Thạch Lam, Hồ Zếch,
Thanh Tịnh.
+ Truyện ngắn mang chất kịch của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan.
+ Truyện ngắn mang chất tiểu thuyết, chất triết lí của Nam Cao.
* Tóm lại: Đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là phải ngắn, nhưng lại có sức khái
qt, sự cơ đọng, tinh chất. Chính vì thế, sự thách đố ở đây là ai viết được ngắn
gọn nhất! Lep Tonxtoi nói: Tơi khơng có thời gian để viết ngắn. Cịn A.Tsekhop
nói: Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, khơng có cái gì được thừa,
cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, khơng có gì được
thừa, truyện ngắn cũng vậy. Nghệ thuật viết truyện ngắn, nói cho đúng ra, khơng
phải ở chỗ viết như thế nào, mà là nghệ thuật vứt bỏ đi những gì dở kém như thế
nào… Tương tự như thế, có ý kiến cho rằng: Trong các thể loại văn chương,
truyện ngắn đóng vai trị hổ báo trong đại gia đình các lồi vật. Ở lồi thú dữ
này, khơng được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không
thể săn mồi được. Ngắn gọn là qui luật của việc cấu tạo truyện ngắn. Nhờ có khả


năng phản ánh hành động một cách ngắn gọn, truyện ngắn có khi cịn có thể đạt
tới trình độ anh hùng ca và đó là cả một bí mật của nó (Hoan Bốtsơ).
3. Định hướng cách đọc - hiểu truyện ngắn trong nhà trường THPT

Như đã trình bày trong phần Đặt vấn đề, truyện ngắn (truyện ngắn hiện
đại) chiếm một tỉ lệ khá lớn trong chương trình Ngữ văn bậc THPT. Do đó, việc
định hướng cho học sinh cách đọc - hiểu một tác phẩm thuộc thể loại truyện
ngắn là một việc làm cần thiết trong quá trình giảng dạy. Qua việc nghiên cứu
tìm hiểu đặc trưng và phương pháp dạy học truyện ngắn, cùng với những kinh
nghiệm trong thực tiễn giảng dạy, người viết mạnh dạn chia sẻ một số kinh
nghiệm giảng dạy truyện ngắn sau đây:
3.1. Những hoạt động cần thiết trước tiết đọc - hiểu tác phẩm truyện ngắn.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học, giáo viên
nên giao những yêu cầu và bài tập cụ thể cho học sinh chuẩn bị thật kĩ ở nhà:
- Yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm ở nhà. Trong quá trình đọc văn bản
cần phải biết gạch chân vào những sự kiện, chi tiết quan trọng để tìm ra mạch
truyện. Trước ngổn ngang sự kiện, từ ngữ, giáo viên định hướng học sinh nhận
diện được những vấn đề sau đây:
+ Bối cảnh xảy ra câu chuyện: thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện,
hồn cảnh, tình hình, điều kiện gắn liền với các sự việc, sự kiện...
+ Số lượng nhân vật trong tác phẩm là bao nhiêu, đâu là nhân vật chính,
nhân vật phụ, các nhân vật có quan hệ với nhau như thế nào?
+ Câu chuyện diễn ra theo tiến trình như thể nào: mở đầu, thắt nút, cao
trào, mở nút...
- Sau đó, học sinh tự tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn để nắm vững
cốt truyện của truyện ngắn. Đây là một trong những thao tác quan trọng khi đọc
- hiểu truyện ngắn.
- Học sinh tự đọc và trả lời vào vở chuẩn bị các câu hỏi ở phần Hướng
dẫn đọc bài trong SGK.
3.2. Những hoạt động trong tiết dạy đọc - hiểu một tác phẩm truyện ngắn.
- Bước 1: Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu tổng quát.


Bước này giúp HS thâu tóm được nội dung khái quát nhất của truyện ngắn

thông qua việc giáo viên tổ chức cho học sinh hoặc các nhóm học sinh trình bày
tóm tắt cốt truyện, nêu đề tài và chủ đề của truyện. Từ đó, học sinh có thể hiểu
được ý nghĩa chung của tác phẩm và tư tưởng, thái độ chung của tác giả. Đây là
bước cơ sở để học sinh sẽ dễ dàng đi đọc - hiểu chi tiết tác phẩm.
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu chi tiết tác phẩm:
Một trong những yếu tố quan trọng trong truyện ngắn là nhân vật. Nhân
vật là linh hồn của truyện ngắn. Thông qua nhân vật, nhà văn gửi gắm tư tưởng,
tình cảm của mình về nhân sinh. Muốn đọc - hiểu chi tiết giá trị của truyện ngắn,
GV sẽ hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính theo
các yếu tố: ngoại hình, hành động, ý nghĩ, ngơn từ của nhân vật, các chặng
đường đời của nhân vật, mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh và các nhân
vật khác. Các chi tiết này vừa cho ta biết về nhân vật một cách cụ thể, sống
động, vừa là căn cứ để suy nghĩ về nhân vật, tìm ra được những tư tưởng và
thơng điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Q trình này giáo viên có thể tổ chức chia nhóm cho học sinh thảo luận
từng vấn đề, hoặc từng chặng đường đời của nhân vật chính, sau đó khái qt ý
nghĩa của từng vấn đề đó.
Kết quả của q trình này là học sinh có thể nắm được tồn bộ nội dung
chi tiết, cụ thể của tác phẩm truyện ngắn
- Bước 3: Hướng dẫn đọc - hiểu cảm thụ.
Trên cơ sở học sinh đã nắm tương đối vững nội dung chi tiết của văn bản,
giáo viên có thể định hướng học sinh:
Phát hiện những chi tiết đặc sắc của văn bản và trình bày cảm nhận của
mình về những chi tiết ấy.
Phát hiện và cảm nhận những đặc sắc về mặt nghệ thuật của truyện: kết
cấu, tình huống truyện, ngơn ngữ (ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ của người kể
chuyện), giọng văn, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật...
- Bước 4: Củng cố và thực hành.



GV yêu cầu HS khái quát những giá trị nội dung và nghệ thuật cơ bản của
truyện ngắn.
GV nêu câu hỏi nhằm củng cố bài học để học sinh trả lời hoặc thảo luận.
Có thể kết hợp giao những bài tập viết cho HS về nhà thực hành.
4. Thực nghiệm
4.1. Hướng dẫn HS đọc - hiểu truyện ngắn "Chữ người tử tù" - Nguyễn
Tuân.
Hoạt động dạy thực nghiệm bài học "Chữ người tử tù" được tiến hành
tại các lớp: 11A4, 11A5 - trường THPT Ngô Gia Tự. Tất nhiên, để phù hợp với
từng đối tượng học sinh của các lớp trên, hoạt động dạy học có thể linh hoạt
thay đổi ở một số đơn vị kiến thức hoặc hoạt động tổ chức giờ dạy.
A. Mục tiêu bài học
- Cảm nhận được vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao, qua đó hiểu được
quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.
- Hiểu và phân tích được nghệ thuật của thiên truyện: Tình huống truyện
độc đáo, khơng khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngơn ngữ góc cạnh, giàu giá trị tạo
hình.
B. Phương pháp
- Kết hợp các thao tác phát vấn, gợi mở, hoạt động nhóm.
- Tích hợp với kiến thức về thư pháp, về tác giả Cao Bá Quát, lịch sử, với tranh
ảnh có liên quan.
C. Tiến trình giảng dạy
1. Chuẩn bị ở nhà
Chuẩn bị của GV
- Thiết kế bài giảng

Chuẩn bị của HS
- Chuẩn bị bài học

- Đọc tài liệu về nghệ thuật thư pháp, về Cao Bá - Xem lại kiến thức về

Quát. Chuẩn bị tranh ảnh về Nguyễn Tuân, về Cao Bá Quát.
cảnh cho chữ.
2. Tiến trình lên lớp
* Ổn định tổ chức (1’)


* Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", những kiếp người nơi phố
huyện được tác giả Thạch Lam miêu tả như thế nào, bằng những đặc sắc nghệ
thuật gì?
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên từ chiều đến tối đến đêm ra sao? Điều
đó chứng tỏ Liên là một cô bé như thế nào?
* Bài mới
HĐ của GV và HS

Nội dung cần đạt

I. Tiểu dẫn
Bằng hiểu biết của 1. Tập truyện ngắn “Vang bóng một thời”
mình, em hãy giới - In lần đầu năm 1940, gồm 11 truyện ngắn.
thiệu đơi nét khái - Nhân vật chính: Là những nho sĩ cuối mùa, tài hoa,
quát về tập truyện bất đắc chí, coi thường danh lợi, mâu thuẫn với xã hội
ngắn

“Vang

bóng Tây - Tàu nhố nhăng, cố giữ “thiên lương” và “sự

một thời”?


trong sạch của tâm hồn”,
- Nội dung:
+ Viết về những con người, những thú vui tao nhã của
một thời chưa xa lắm nhưng chỉ còn vang bóng (Thời
nhà Nguyễn suy tàn, Pháp xâm lược) thể hiện ý thức giữ
gìn những vẻ đẹp văn hố truyền thống của dân tộc.
+ Tỏ bày thái độ bất hoà sâu sắc của các nho sĩ cuối mùa
với xã hội đương thời, không chịu vứt bỏ lương tâm,
chạy theo danh lợi, cố giữ tâm hồn trong sạch.
 “Vang bóng một thời” là tác phẩm nổi tiếng nhất, kết
tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng
Tám, một tác phẩm gần đạt tới sự toàn thiện, toàn mĩ
(Vũ Ngọc Phan).

Nêu xuất xứ và nhan

2. Truyện ngắn “Chữ người tử tù”

đề của truyện ngắn - Được sáng tác trên cơ sở những câu chuyện mà
"Chữ người tử tù"?

Nguyễn Tuân nghe được từ người cha là cụ tú Nguyễn
An Lan về nhà nho tài hoa – anh hùng Cao Bá Quát.


- Tác phẩm in trên tạp chí Tao đàn với tên “Dịng chữ
cuối cùng”, khi đưa vào tập “Vang bóng một thời” mới
đổi tên là “Chữ người tử tù”.
+ Dòng chữ cuối cùng: chỉ đề cập đến dòng chữ cuối
cùng – tác phẩm nghệ thuật cuối cùng HC để lại cho đời

+ Chữ người tử tù: Khái quát được cả quá trình xin chữ
và cho chữ của Huấn Cao và quản ngục.
II. Đọc hiểu văn bản
- GV đọc mẫu một Yêu cầu:
đoạn, sau đó gọi HS + Đọc chậm, trang trọng, cổ kính, chú ý những câu thoại
đọc tiếp tác phẩm

ngắn của các nhân vật.

- GV yêu cầu HS + Tóm tắt ngắn gọn, rõ ràng và đầy đủ.
tóm tắt tác phẩm.
Căn cứ vào diễn biến - Tình huống truyện độc đáo.
cốt

truyện,

tìm - Hình tượng nhân vật Huấn Cao - một sáng tạo nghệ

những tình huống, thuật tuyệt vời của Nguyễn Tn.
chi tiết, nhân vật có - Hình tượng nhân vật Quản ngục.
vai trò vào việc thể - Cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
hiện chủ đề của tác
phẩm?
Tình huống truyện là 1. Tình huống truyện
gì?

* Khái niệm tình huống truyện: Là một sự kiện đặc
biệt của đời sống, trong đó nó chứa đựng những tương
quan bất thường giữa con người với con người, con
người với hồn cảnh...Từ đó là nổi bật tính cách của

nhân vật cũng như tư tưởng mà nhà văn gửi gắm.
Tình huống truyện có vai trị là nịng cốt của một truyện
ngắn.
- Có 3 loại tình huống truyện: tình huống truyện nghiêng
về hành động, tình huống truyện nghiêng về tâm trạng,
tình huống truyện nghiêng về nhận thức.


Trong “Chữ người tử * NT đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo:
tù”, Nguyễn Tuân đã Cuộc gặp gỡ đầy éo le, kịch tính giữa Huấn Cao và quản
xây dựng một tình ngục.
huống truyện như - Khơng gian gặp gỡ: nhà tù - không gian dành cho cuộc
thế nào?

gặp gỡ bất đắc dĩ.

Ý nghĩa của tình - Thời gian gặp gỡ: những ngày cuối cùng của cuộc đời
huống truyện đó là HC --> đầy tính éo le.
gì?

- Mối quan hệ giữa 2 nhân vật
+ Trên bình diện xã hội: tử tù >< quan coi ngục
Họ là đối địch của nhau.
+ Trên bình diện nghệ thuật: Người cho chữ - kẻ xin
chữ, người nghệ sĩ - kẻ có tâm hồn nghệ sĩ là tri âm,
tri kỉ của nhau.
--> Nguyễn Tn đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn có
tính xung đột: Hoặc làm tròn bổn phận của một viên
quan thì phải chà đạp lên tấc lịng tri kỉ, trở thành kẻ tầm
thường; hoặc trọn đạo tri kỉ thì phải vượt lên phép nước,

bỏ qua chức phận của một viên quan, bất chấp phép tắc
và phải chấp nhận những hậu quả có thể liên quan đến
tính mạng
* Ý nghĩa của tình huống truyện
- Làm sáng rõ vẻ đẹp anh hùng - nghệ sĩ của Huấn Cao
và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục
- Làm sáng lên chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi cái ĐẸP,
cái THIỆN. Cái đẹp, cái thiện chiến thắng cái xấu, cái ác
ngay trong lòng cái xấu, cái ác.
- Biến cuộc kì ngộ của hai nhân vật thành một cuộc
hạnh ngộ.

Dựa vào những chuẩn 2. Hình tượng Huấn Cao
bị ở nhà, hãy cho biết - Vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao được thể hiện trên 3


vẻ đẹp của nhân vật phương diện: Tài hoa nghệ sĩ (thư pháp), khí phách anh
Huấn Cao được thể hùng và nhân cách trong sáng (thiên lương).
hiện

trên

những

phương diện nào?
- GV tổ chức cho HS
làm việc nhóm. Mỗi
nhóm sẽ tìm hiểu về
một vẻ đẹp nổi bật
của nhân vật Huấn

Cao. Thời gian thảo
luận nhóm là 5 phút,
sau đó cử đại diện
nhóm trình bày
*Nhóm 1: tìm hiểu a. Huấn Cao - một nghệ sĩ tài hoa
vẻ đẹp tài hoa nghệ * Có tài viết chữ đẹp
sĩ của Huấn Cao: - Giới thiệu về chữ Hán và nghệ thuật thư pháp.
Tập trung vào các * Thể hiện
vấn đề sau đây:

- Được gián tiếp thể hiện qua lời nói, thái độ của quản

Huấn Cao có tài ngục và thơ lại
năng gì?

+ “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta

Em biết gì về chữ vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó ko?”
Hán và nghệ thuật + “Đối với những người như ngài,…cố gắng chu tất”
thư pháp?

- Thể hiện gián tiếp qua ước nguyện cả đời của quản

Tài viết chữ đẹp của ngục:
Huấn
Nguyễn

cao
Tuân


được + Chữ ông HC đẹp lắm, vng lắm…Có được chữ ơng
thể HC mà treo là có một vật báu trên đời”

hiện như thế nào? + Quản ngục băn khoăn, trăn trở về việc xin chữ, biệt
qua những cách thức đãi HC, quản ngục nhẫn nhục, có khi đau khổ, nỗi hốt
giới thiệu nào của hoảng, hi vọng và tuyệt vọng.
tác giả?

- Thể hiện trực tiếp qua cảnh cho chữ và lời nói của


Huấn Cao:“Chữ thì q thực”
“Đây khơng phải là nơi để treo một bức lụa trắng với
những nét chữ vuông, tươi tắn nó nói lên nhữngcái
hồi bão tung hồnh của một đời con người”.
Huấn Cao được nói tới như một nghệ sĩ tài hoa. Chữ
ơng Huấn Cao q giá vì nó đẹp, nhưng q hơn cả vì
nó kết tụ tinh hoa và tâm huyết của người cầm bút, thể
hiện nhân cách cao khiết, trở thành nỗi khát khao cháy
bỏng cả đời quản ngục. Nguyễn Tuân vừa sử dụng lờì
ngợi ca trực tiếp, vừa tinh tế, khéo léo sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật khác (đòn bẩy) để gián tiếp ca ngợi cái
tài vừa quý vừa hiếm ấy của Huấn Cao.
Thể hiện tài năng * Ý nghĩa:
của Huấn Cao, tác + Thể hiện quan niệm tư tưởng và nghệ thuật của
giả nhằm mục đích Nguyễn Tuân: Kính trọng, ngưỡng mộ những bậc tài
gì?

hoa, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền của cha
ông.

+ Thể hiện thái độ luyến tiếc đối với một nhã thú cổ

truyền đang bị lụi tàn.
* Nhóm 2: Tìm hiểu b. Huấn Cao - một anh hùng khí phách
về khí phách anh - Qua lời viên quản ngục
hùng của Huấn Cao. + Ơng là một anh hùng sống có lí tưởng, dám đấu tranh
Tập trung thảo luận vì lợi ích của dân chúng, bất chấp tính mạng của cá nhân
các câu hỏi sau đây:
Hành

động

mình.

dám “Trong đó, tơi nhận thấy tên đứng đầu bọn phản

đứng lên khởi nghĩa nghịch là Huấn Cao”, “ngồi cái tài viết chữ tốt cịn có
chống lại triều đình cái tài bẻ khố và vượt ngục” (chú ý: Phản nghịch là
của Huấn Cao cho chữ dùng theo cái nhìn của tầng lớp phong kiến, đó là
em hiểu gì về tính hành động chống lại triều đình – một triều đình đã thối
cách của ơng?

nát.)


Khí phách đó được - Qua hành động, thái độ của Huấn Cao
thể hiện qua những + Hành động rỗ gông:
hành động, thái độ . Chiếc gông dài 8 thước, nặng 7 – 8 tạ, xứng đáng với
nào của Huấn Cao và tội án của 6 tử tù.  tượng trưng cho sự trừng phạt tàn
các đồng chí của ơng nhẫn, bạo lực, khắc nghiệt đối với tử tù.

khi bị đưa đến ngục . Thái độ rỗ gông: Lạnh lùng chúc mũi gơng nặng, khom
thất, đối diện với cai mình thúc mạng đầu thang gông xuống thềm đá tảng
ngục?

đánh thuỳnh một cái... trước mặt quản ngục, thơ lại và

Thái độ của Huấn những người lính áp giải.
Cao như thế nào khi Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, đầy thách thức. Khi bị
nghe tin viên thơ lại đưa đến ngục thất, Huấn Cao cũng như những người bạn
báo ngày ông sẽ phải đồng chí của ơng ko hề tỏ ra run sợ, thậm chí họ lạnh
về kinh chịu án tử lùng, bình thản đón nhận sự đọa đày của tù ngục, coi
hình?
thường cái chết và rất khinh bỉ những kẻ cam tâm phục vụ
Ông đã sống như thế chế độ thống trị bất công. Con người này tuy sự nghiệp
nào trong những không thành nhưng rất hiên ngang.
giây phút cuối cùng + Hành động thản nhiên nhận rượu thịt trước sự biệt đãi
của cuộc đời mình?
của quản ngục, coi như đó là một việc vẫn thường làm
trong cái hứng lúc sinh bình.
--> Tốt lên phong thái ung dung tự tại của một trang
anh hùng hảo hán.
+ Thậm chí Huấn Cao cịn mắng viên quản ngục
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là
ngươi đừng đặt chân vào đây” --> Câu trả lời giống như
một mệnh lệnh xua đuổi, mắng mỏ với thái độ khinh bạc
đến điều.
- Qua suy nghĩ của Huấn Cao: “ta đến cái cảnh chết
chém cịn khơng sợ nữa là mấy trò tiểu nhân thị oai
này”
- Trong cảnh cho chữ: trong những giây phút cuối cùng



của cuộc đời mình, ơng vẫn sống rất quả cảm, khơng cịn
là một tử tù, mà ơng sống như một nghệ sĩ, thanh thản và
ung dung sáng tạo cái đẹp. Người nghệ sĩ ấy đang tự do
nhất trên đời, như khơng có cái chết kề bên, ơng Huấn
đang đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp
 Ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ, thái độ…của Huấn Cao
đã làm sáng lên vẻ đẹp bức chân dung tinh thần của
một bậc hào kiệt văn võ song tồn, có nhân, trí, dũng.
Nhà tù phong kiến giam được thể xác nhưng không
giam được tinh thần của con người hiên ngang, bất
khuất này. Đó thực sự là con người “uy vũ bất năng
khuất”, “Chọc trời khuấy nước bằng đầu / Dọc ngang
nào biết trên đầu có ai”
* Nhóm 3: Tìm hiểu c. Huấn Cao - một thiên lương trong sáng
vẻ đẹp thiên lương - Qua thái độ của ông đối với con chữ và việc cho
của Huấn Cao. Tập chữ
trung thảo luận các + “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ ông ít chịu cho
vấn đề sau đây:

chữ”

Thiên lương trong --> Chỉ cho chữ người tri kỉ - Đây là hành động thể hiện
sáng của Huấn Cao sự quý bạn, trọng mình và đặt cái đẹp đúng chỗ, đúng
được thể hiện qua lúc để nó phát huy hết giá trị thiêng liêng của nó.
những chi tiết nào?

+ “Ta nhất sinh ko vì…một tấm lịng trong thiên hạ”


Ca ngợi thiên lương --> Huấn Cao là người trọng nghĩa khinh lợi.
trong sáng của Huấn - Qua thái độ của Huấn Cao với quản ngục
Cao, Nguyễn Tuân + Khi chưa hiểu thì khinh bạc đến điều
có dụng ý nghệ thuật + Khi hiểu ra thì cảm động trước sở nguyện cao q của
gì?

quản ngục, ăn năn về thái độ và hành động trước kia của
mình và sẵn sàng cho chữ. Con người tưởng như được
tạc bằng đá, được đúc bằng thép ấy lại rất tinh tế trong
đối xử với con người. Ông đã nhận ra quản ngục như


một đóa hoa sen trong bùn và coi như tri kỉ, đã đem tấm
lòng tri âm để đáp lại.
"Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn.....thiên hạ"
- Qua lời khuyên chân thành nhằm hướng quản ngục
trở về con đường lương thiện, thanh lọc tâm hồn cho
quản ngục
“Ở đây lẫn lộn…cả đời lương thiện đi”
 Nguyễn Tuân thể hiện thái độ đề cao cái tâm của
người nghệ sĩ, nhấn mạnh đến khả năng “nhân đạo
hố”, khả năng “thanh lọc” kì diệu của nghệ thuật.
Nhân vật Huấn Cao * Tiểu kết:
với những phẩm chất - Nguyên mẫu: Nguyễn Tuân lấy nguyên mẫu từ nhân vật
cao đẹp đó được Cao Bá Quát - một con người vừa có tài, vừa có tâm, vừa
Nguyễn

Tuân

lấy có khí phách hiên ngang, “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”


nguyên mẫu từ nhân (cả đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai), làm quan đến chức
vật nào trong lịch Giáo thụ, tương đương với chức Huấn đạo. (Huấn Cao:
sử? Em biết gì về người làm chức huấn đạo họ Cao).
nhân vật này?
Nhân vật Huấn Cao - Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn: Sử dụng hiệu quả các
được tác giả miêu tả thủ pháp đối lập: đối lập giữa nhân cách cao đẹp với sự
bằng bút pháp nghệ nhơ bẩn của nhà tù, giữa thiên lương với sự độc ác, thô
thuật nào?

bỉ, tàn nhẫn. Sự đối lập càng làm nổi bật phẩm chất cao

đẹp của Huấn Cao.
Theo em, xây dựng => Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân
hình tượng nhân vật bộc lộ quan niệm về cái ĐẸP, cái TÀI: Cái TÀI phải đi
Huấn Cao, Nguyễn đôi với cái TÂM, cái ĐẸP và cái THIỆN không thể tách
Tuân nhằm bộc lộ rời nhau. Đó là một quan niệm nghệ thuật tiến bộ.
quan niệm gì?
Bên cạnh nhân vật 3. Nhân vật viên quản ngục và thầy thơ lại
Huấn Cao, nhân vật a. Viên quản ngục
viên quản ngục được - Ngoại hình: Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu...


khắc họa ở những - Nghề nghiệp, chức vụ: quản ngục. Xét về vị thế xã
phương diện nào?

hội, Quản ngục là cơng cụ của triều đình phong kiến,
sống bằng cái nghề mà ở đó chỉ có sự lừa loc, tàn nhẫn,
sự bất công với những thủ đoạn hèn hạ.


Sở nguyện của ngục - Vẻ đẹp:
quan là có được chữ + Có tâm hồn nghệ sĩ: ham mê thư pháp, say mê chữ
của Huấn Cao treo đẹp, trọng chữ Huấn Cao và có sở nguyện xin chữ Huấn
trong nhà có ý nghĩa Cao treo trong nhà. --> Quản ngục có tâm hồn nghệ sĩ.
gì?

Con người này đã chọn nhầm nghề, giữ tù cho nhà tù
phong kiến.

Để có thể xin được + Là một người có khí phách. Vì say mê, kính trọng
chữ của Huấn Cao, tài hoa, nhân cách anh hùng của Huấn Cao, quản ngục
quản ngục đã phải đã dám làm đảo lộn trật tự nhà tù, dám bất chấp luật
làm những gì? Điều pháp, kỉ cương nhà tù, dám phạm thượng, đã bỏ qua thói
đó chứng tỏ ơng là thường để biệt đãi một tử tù (sai quét dọn buồng giam,
một con người như đón tử tù với một thái độ khác thường, hàng ngày đưa
thế nào?

rượu thịt biệt đãi), tôn một tử tù thành thần tượng, xin
chữ tử tù để tôn thờ. Khi nhân được công văn “QN tái
nhợt người đi..” cho thấy ông thật sự biết trân trọng và
xót xa cho cái đẹp.

Trong buổi tối trước + Là một người có thiên lương.
khi đón Huấn Cao

_ QN còn là người biết quý trọng thiên lương, khát

vào nhà lao, quản khao vươn tới cái đẹp. Trước khi là Quản ngục, ông ta
ngục đã suy nghĩ, cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh
băn khoăn và day hiền”, là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền

dứt về điều gì?

bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp. Giờ đây phải
sống trong hoàn cảnh đen tối, quản nguch ln cố gắng
vượt lên, vì vậy mà ơng ln day dứt vì đã chọn nhầm
nghề.
- Thái độ băn khoăn nghĩ ngợi, ngồi bóp thái dương,


ngồi tư lự trong đêm tối, tìm cách đối đãi với một người
có tài, có nhân cách. Thái độ đó chứng tỏ cái tâm, cái
thiên lương của nhân vật.
Hành động vái lạy và

- Hai lần cúi đầu trước Huấn Cao.

dòng nước mắt của . Lần 1: “Xin lĩnh ý”. Quản ngục thấy mình là một kẻ
ngục quan phản ánh tiểu lại giữ tù trước một người “chọc trời khuấy nước
nét đẹp gì trong tâm bằng đầu”. Đây là cái cúi đầu trước một anh hùng. -->
hồn của quản ngục?

Quản ngục là người biết mình, biết ta, trọng khí phách
của người tử tù.
. Lần 2: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, tư thế khúm
núm, dòng nước mắt ứa ra, rỉ vào kẽ miệng. Đó là cái
cúi đầu của một con người đã được cảm hoá, giác ngộ,
thức tỉnh muộn mằn vì đã chọn nhầm nghề. Cái cúi đầu
khơng làm cho quản ngục trở lên thấp kém, hèn hạ, mà
khiến nhân vật càng trở lên cao cả, toả sáng hơn.. Đó là
cái cúi đầu nâng tầm con người. Cái cúi đầu, thái độ

khúm núm đó lại xếp quản ngục vào hàng tri kỉ với

Huấn Cao.
Tìm câu văn tác giả => “Tính cách dịu dàng.....xô bồ”. Quản ngục là cái
khái quát vẻ đẹp của thuần khiết giữa một đống cặn bã mà ông Trời đã khéo
nhân vật quản ngục? chơi ác sắp đặt. Nếu như bi kịch của Huấn Cao là bi
Đặt nhân vật quản kịch của người anh hùng thất thế nhưng vẫn kiêu hùng,
ngục vào hồn cảnh lẫm liệt thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường.
xã hội mà nhân vật Kẻ lầm đường may thay, vẫn cịn có lương tri, cịn có
sống, tác giả muốn khát vọng giải thoát, biết hướng tới cái đẹp và biết thanh
nói điều gì?

lọc mình trong cái đẹp

Em hãy nhận xét về - Nếu như Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức
vị trí của nhân vật mạnh hướng thiện thì quản ngục được sáng tạo ra là để
ngục quan trong tác hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ
phẩm?
nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được
Bên cạnh quản ngục b. Thầy thơ lại


×