Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÊ THỊ HUYỀN TRANG

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN
DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÊ THỊ HUYỀN TRANG

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN
DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn về đề tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại theo quy định của pháp luật Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân tơi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Lê Minh Hùng trong thời gian qua. Các
kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực,
khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng
được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác./.

Tác giả

Lê Thị Huyền Trang


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .............................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài .................................................................... 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ....................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 5

6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên cứu .. 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI ................................................................ 8
1.1. Khái quát về nghĩa vụ tài sản và thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại ................................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm, các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại ......................... 8
1.1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại..................................... 8
1.1.1.2. Các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại ........................................ 8
1.1.2. Khái niệm về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại................... 12
1.1.3. Đặc điểm của việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại .......... 14
1.2. Chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
................................................................................................................................ 18


1.2.1. Người hưởng di sản thừa kế theo di chúc, theo pháp luật ......................... 19
1.2.2. Người hưởng di sản do được di tặng ......................................................... 24
1.2.3. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng ........................................... 25
1.2.4. Người quản lý di sản trong trường hợp di sản chưa được chia ................. 26
1.3. Phạm vi, thứ tự, thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa tài sản do người chết
để lại ....................................................................................................................... 30
1.3.1. Phạm vi thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ........................... 30
1.3.1.1. Trường hợp di sản chưa được chia ......................................................... 31
1.3.1.2. Trường hợp di sản đã được chia ............................................................. 32
1.3.2. Thứ tự thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ............................. 35
1.3.3. Thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ........... 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .... 40
2.1. Các khái niệm chưa được giải thích rõ ...................................................... 40
2.1.1. Về khái niệm nghĩa vụ tài sản do người chết để lại .................................. 40

2.1.2. Về khái niệm tài sản do người chết để lại ................................................. 44
2.2. Nghĩa vụ tài sản của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và
người được di tặng ............................................................................................... 50
2.3. Những vướng mắc khác liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại.................................................................................................... 56
2.3.1. Khi người thừa kế có hành vi che giấu những di sản của người chết để lại
nhằm tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ ................................................................. 56


2.3.2. Thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp di sản khơng có người thừa kế ...... 59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ tăng trưởng,
là giai đoạn mà nền kinh tế phục hồi và phát triển sơi động. Cùng với đó, tài sản của
thành viên trong xã hội cũng được tăng lên đáng kể cả về số lượng và chất lượng.
Từ đó xuất hiện nhiều hơn những quan hệ tài sản, trong đó thừa kế cũng khơng phải
là ngoại lệ.
Trong pháp luật dân sự, vấn đề thừa kế luôn là vấn đề phức tạp do xung đột
quyền lợi của các bên và xuất phát từ đặc trưng là các bên tham gia quan hệ này
thường có quan hệ huyết thống, hơn nhân hoặc nuôi dưỡng. Chế định thừa kế là một
chế định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam từ
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 đến Bộ luật dân sự năm 2005 và mới đây nhất là Bộ
luật dân sự năm 2015.

Đây là vấn đề phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, mặt khác lại ảnh hưởng tới
mối quan hệ giữa những người có huyết thống, gây nhiều khó khăn cho các chủ thể
tham gia vào giao dịch cũng như cho cơ quan tố tụng trong việc giải quyết.
Về cơ bản, chế định thừa kế trả lời và giải quyết hai câu hỏi lớn, đó là: tài
sản thừa kế của người chết để lại thuộc về ai và nghĩa vụ mà họ để lại sẽ đồng thời
chấm dứt hay tiếp tục được thực hiện, cách thức và thủ tục thực hiện hai vấn đề trên
như thế nào. Trên thực tế, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề
lớn thứ nhất trong khi vấn đề thứ hai lại ít được đề cập đến. Mặc dù pháp luật Việt
Nam quy định khá cụ thể về những vấn đề xoay quanh việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản di người chết để lại, tuy nhiên thực tiễn vẫn còn tồn tại một số vướng mắc trong
q trình áp dụng. Việc đi sâu phân tích vấn đề này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số
nội dung cơ bản về mặt lý thuyết cũng như trong thực tiễn.
Do đó, là một người nghiên cứu, là người đang công tác tại cơ quan tiến
hành tố tụng, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại theo quy định của pháp luật Việt Nam” là để đi sâu làm rõ những vấn đề cơ bản


2

về di sản thừa kế cũng như những quy định về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Bên
cạnh đó, tác giả sẽ có một vài bình luận về việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Bình
luận chỉ dựa trên ý kiến cá nhân của tác giả là chính, do đó tác giả rất mong nhận
được sự góp ý (nếu có).
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học
pháp lý nói riêng ở nước ta đã có nhiều sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề thừa kế.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu tác giả thấy rằng vấn đề này đã được đề cập,
trình bày và phân tích trong một số sách chuyên khảo, luận văn thạc sỹ luật học và
bài viết trên các tạp chí, trong đó có thể kể đến một số các tài liệu như sau:
Sách chuyên khảo, giáo trình

+ Lê Minh Hùng (2019), Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế, Nxb.
Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản của
giáo trình là khái quát về quyền tài sản, khái luận về quyền thừa kế, thừa kế theo di
chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán nghĩa vụ và phân chia di sản. Như vậy, giáo
trình cũng có đề cập đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, đưa ra
những khái luận cơ bản liên quan đến nguyên tắc thực hiện, căn cứ thanh toán nghĩa
vụ tài sản, chủ thể và thứ tự ưu tiên thanh tốn. Tuy nhiên giáo trình chỉ mang tính
khái qt, cơ bản để người đọc dễ tiếp cận mà chưa phân tích một cách chuyên sâu.
+ Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự
năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội. Với tài liệu chuyên khảo trên đây, các tác giả đã phân tích, nghiên cứu
những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 với mục đích phổ biến các quy định
mới, cung cấp cho người đọc sự nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn về các
quy định của pháp luật dân sự, đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về ưu, nhược
điểm của các quy định mới trong Bộ luật dân sự năm 2015. Ngoài ra, tác giả cịn
lồng ghép sự bình luận, phân tích về sự thay đổi giữa Bộ luật dân sự năm 2005 và
2015. Vấn đề liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại cũng


3

được tác giả nhắc đến. Tuy nhiên, vấn đề này chưa thực sự được nghiên cứu, phân
tích chun sâu, có hệ thống.
+ Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học – Những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tương tự như tài liệu chuyên khảo trên, tác giả chỉ đánh giá về mặt tổng quan
đối với Bộ luật dân sự năm 2015, chưa nghiên cứu tập trung vào vấn đề cụ thể, nhất
là đối với thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
+ Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Tương tự như

tài liệu chuyên khảo trên, tác giả cũng đã nghiên cứu xoay quanh những vấn đề liên
quan đến thừa kế cũng như thực tiễn xét xử, từ đó đưa ra những bản án và bình luận
bản án; tập hợp, phân tích, bình luận những quyết định, bản án của Tòa án. Tổng thể
các chuyên đề trong cuốn sách tập trung vào 04 mảng lớn của thừa kế trong đó có
chun đề nghiên cứu về thanh tốn và phân chia di sản.
+ Trương Hồng Quang (2016), Điểm mới về thừa kế trong Bộ luật dân sự
năm 2015 và những tình huống thực tế, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
Tài liệu tập trung nghiên cứu những điểm mới về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015
từ đó lồng ghép những tình huống thực tế thường phát sinh trong đời sống thực tế
nhằm đem đến đọc giả những hiểu biết chung và dễ dàng vận dụng trong đời sống
thường ngày. Tuy nhiên để đi sâu phân tích khoa học về vấn đề thực hiện nghĩa vụ
tài sản, và những điểm bất cập có liên quan đến vấn đề này thì vẫn chưa được làm
rõ.
Luận văn thạc sỹ
+ Phạm Tuấn Anh (2008), Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
theo Bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội. Đây là cơng trình nghiên cứu có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp luật
Việt Nam liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và thực
trạng của việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn để từ đó phân tích, nhận


4

định pháp luật, đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên, luận văn nghiên cứu vào thời điểm Bộ luật
dân sự năm 2005 đang có hiệu lực, chưa có Bộ luật dân sự năm 2015 thay thế.
+ Nguyễn Hồng Nam (2008), Điều kiện có hiệu lực của di chúc, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đề cập đến những
điều kiện để di chúc có hiệu lực, trong đó có nhắc đến việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản.

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên chỉ nghiên cứu các vấn đề
xoay quanh thừa kế, nhưng không đi sâu tìm hiểu về thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Mặc dù có một bài
luận liên quan trực tiếp đến vấn đề này, nhưng lại áp dụng đối với Bộ luật dân sự
năm 2005. Hơn thế nữa, cách tác giả đi vào làm rõ những vấn đề lý luận có sự khác
biệt so với luận văn nêu trên. Hầu hết, những nội dung liên quan đến thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại vẫn chưa được quan tâm sâu sắc vì trên thực tế,
vấn đề không xảy ra nhiều cả trong thực tế tranh chấp lẫn trong nghiên cứu. Xuất
phát từ đó, luận văn góp phần làm rõ hơn về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại và một số bất cập khi áp dụng vào thực tiễn, từ đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của tác giả là nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống
các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam liên quan đến vấn đề về thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trong đó chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy
định trong Bộ luật dân sự năm 2015, so sánh với các quy định trong Bộ luật dân sự
năm 2005, các văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản hướng dẫn thi hành. Từ
đó có sự đối chiếu với thực tiễn xét xử tại Tòa án, đặc biệt khai thác sâu thực trạng
giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài sản thừa kế trong
thực tế hiện nay.


5

Tác giả thực hiện việc so sánh pháp luật, nhận định, phân tích những bất cập,
khơng thống nhất giữa các quy định trong văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng,
đưa ra những kiến nghị, đề xuất hướng khắc phục nhằm góp phần hồn thiện quy
định pháp luật dân sự Việt Nam liên quan đến đề tài mà tác giả nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật Việt
Nam và thực tiễn áp dụng khi giải quyết các trường hợp liên quan đến việc thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của pháp luật Việt Nam,
bao gồm: chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản, di sản dùng để thực hiện tài sản, những
chủ thể có nghĩa vụ liên quan và những vấn đề xoay quanh nghĩa vụ tài sản khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thừa kế là một vấn đề lớn và khá phức tạp. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ,
tác giả chỉ đề cập đến một mặt trong một vấn đề rộng lớn đó. Luận văn đi vào phân
tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của thừa kế và việc chuyển giao
nghĩa vụ tài sản của người chết. Kết hợp với việc phân tích các quy định của luật
hiện hành cùng với việc đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp từ đó đưa ra một số
kiến nghị hồn thiện pháp luật. Do luận văn phục vụ cho vấn đề ứng dụng nên ngồi
căn cứ lý thuyết cịn được viện dẫn dựa trên các sự việc, bản án có thực để tạo tính
thuyết phục về nội dung và quan điểm sửa đổi, bổ sung.
Đề tài không nghiên cứu so sánh với pháp luật của các nước. Đề tài giới hạn
nghiên cứu trong lĩnh vực thừa kế theo hệ thống pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn được xuyên suốt đúng với mục đích và phạm vi đã
đặt ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp, cụ thể:
Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ các khái niệm,
cơ sở lý luận, quy định của pháp luật, ý nghĩa, phương pháp thực hiện nghĩa vụ tài


6

sản, những vấn đề về thừa kế, sử dụng phương pháp lịch sử để so sánh giữa BLDS
2005 và BLDS 2015. Mặt khác, tác giả còn sử dụng phương pháp chứng minh, tổng
hợp nhằm chứng minh cho các luận điểm được đưa ra và tổng hợp các luận điểm
đó.
Chương 2, ngồi phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, tác giả sử

dụng thêm phương pháp bình luận bản án để làm nổi bật lên thực tiễn xét xử của
Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại trong thực tế hiện nay. Từ đó đưa ra những bất cập cũng như
kiến nghị hoàn thiện.
Ngoài ra, tại phần kết luận của từng mục và kết luận chương, phương pháp
tổng hợp được vận dụng để khái quát những vấn đề pháp lý tác giả phân tích.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đều dựa trên tình hình hiện tại của xã hội, khi các tranh
chấp về thừa kế ngày càng phức tạp. Vì vậy, đây sẽ là một cơng trình có thể giải
quyết được các vướng mắc như cách xác định phần di sản thừa kế, các trường hợp
buộc phải thực hiện nghĩa vụ tài sản cũng như hậu quả pháp lý của nó, đối tượng
chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả
cịn đi sâu phân tích những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật nên
đề tài cịn có giá trị tham khảo trong quá trình thi hành tại các cơ quan nhà nước và
góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật trong giai đoạn Bộ luật dân sự
mới sửa đổi, bổ sung cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành.
Bố cục của đề cương chi tiết
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có hai chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại


7

Chương 2. Bất cập của pháp luật về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại và kiến nghị hoàn thiện



8

CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN
DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI
1.1. Khái quát về nghĩa vụ tài sản và thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại
1.1.1. Khái niệm, các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại
1.1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại
Trong BLDS năm 2015 có một số điều luật nhắc đến cụm từ “nghĩa vụ tài
sản”1 nhưng đến hiện tại vẫn chưa có một quy định cụ thể đề cập đến khái niệm, đặc
điểm của cụm từ này. Do đó, có thể dựa vào khái niệm nghĩa vụ để giải thích cho
khái niệm nghĩa vụ tài sản.
Theo đó, nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)2. Có
thể thấy, nghĩa vụ người chết để lại là những nghĩa vụ nêu trên do người chết đáng
lẽ phải thực hiện nhưng không thể thực hiện được nữa nên chuyển giao cho người
thừa kế. Như vậy, nhìn chung nghĩa vụ tài sản là những nghĩa vụ liên quan đến tài
sản, gắn liền với tài sản, có thể chuyển giao được và khơng chấm dứt khi người có
nghĩa vụ chết đi.
1.1.1.2. Các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại
Như trình bày ở trên, nghĩa vụ tài sản của người chết là những nghĩa vụ phát
sinh từ những hành vi trước khi chết của người đó để phục vụ cho nhu cầu của họ,
những nghĩa vụ này do chính bản thân người chết phải thực hiện nhưng người này

1

Xem Điều 614, Điều 615, Điều 620, Điều 632 BLDS năm 2015.


2

Xem Điều 274 BLDS năm 2015.


9

chưa thực hiện hoặc đang thực hiện thì chết. Theo đó, nghĩa vụ tài sản phải là một
loại nghĩa vụ gắn liền với tài sản và có thể chuyển giao, đó là một loại nghĩa vụ
chuyển giao một loại tài sản nào đó cho chủ thể có quyền.
Căn cứ vào Điều 658 BLDS năm 2015, các loại nghĩa vụ do người chết để
lại bao gồm:
Thứ nhất, nghĩa vụ với nhà nước. Cụ thể: Thuế và các khoản phải nộp khác
vào ngân sách nhà nước. Theo đó, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân
và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các
văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, khơng mang tính chất đối giá và hồn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế3. Do đó, khoản này cũng được xem là nghĩa vụ
buộc phải thanh tốn nếu người chết chưa thực hiện hồn tất. Ở quy định này của
BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi so với BLDS năm 2005 ở chỗ: sửa đổi nội dung
“các khoản nợ khác đối với Nhà nước” thành “các khoản phải nộp khác vào ngân
sách Nhà nước”. Xét thấy, quy định của BLDS năm 2015 hợp lý hơn bởi “trong
Nhà nước pháp quyền, chỉ có khoản tiền trả cho ngân sách Nhà nước, phục vụ lợi
ích chung của xã hội thì mới được ưu tiên, cịn những khoản nợ khác thì phải xem
Nhà nước cũng là một chủ thể bình đẳng như cá nhân, pháp nhân mới đúng với bản
chất của quan hệ dân sự”.4
Thứ hai, nghĩa vụ đối với cá nhân và tổ chức khác. Đây thường là nghĩa vụ
phát sinh nhiều nhất, phổ biến nhất bởi chúng là những nghĩa vụ xuất phát từ những
giao dịch dân sự khi người để lại di sản còn sống mà chưa được thực hiện hoặc thực
hiện chưa đầy đủ. Nhóm nghĩa vụ này bao gồm:

- Tiền cấp dưỡng cịn thiếu: Theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình
2014, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em

3

Theo truy cập ngày 27/12/2020.

4

Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb.

Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 567.


10

với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và
cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định. Theo đó, tính đến thời điểm người để lại
di sản chết, nghĩa vụ cấp dưỡng chưa được người đó thực hiện hoặc thực hiện chưa
đầy đủ thì phải chuyển giao cho người thừa kế tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, vì cấp
dưỡng là nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân, do đó nghĩa vụ này cũng chấm dứt
khi người có nghĩa vụ chết đi. Như vậy, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phải
thực hiện nốt đến thời điểm người để lại di sản chết đi và đối với khoản cấp dưỡng
cịn thiếu.
- Tiền cơng lao động: Đây là nghĩa vụ của người chết đi trong trường hợp họ
chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với người lao
động (tiền lương, tiền cơng lao động) mà họ đã ký kết hợp đồng lao động khi còn
sống.
- Tiền bồi thường thiệt hại: Số tiền này cũng là số tiền khi còn sống người để
lại thừa kế chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với

người có quyền mà gây thiệt hại cho người đó. Như vậy, những người hưởng thừa
kế phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện việc bồi thường cho những người bị thiệt
hại.
- Tiền phạt: là khoản tiền được trả do hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của
một bên (có thỏa thuận chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng)5. Nghĩa vụ này phát
sinh khi người để lại di sản bị vi phạm theo điều khoản của hợp đồng nhưng chưa
kịp thực hiện thì qua đời. Do đó, nghĩa vụ này sẽ được chuyển giao cho người thừa
kế thực hiện.
- Các khoản nợ đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác: Đây là những
nghĩa vụ tài sản được người để lại di sản xác lập thông qua những giao dịch dân sự
khi cịn sống. Do đó, đối với những trường hợp người để lại di sản chưa thực hiện

5

Xem thêm Điều 418 BLDS năm 2015.


11

hoặc thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ của mình với những người có quyền thì người
hưởng thừa kế buộc phải tiếp tục thực hiện.
Bên cạnh những nghĩa vụ nêu trên, Điều 658 BLDS năm 2015 cũng quy định
thêm một số trường hợp buộc phải sử dụng di sản của người chết để thanh tốn và
khơng được coi là nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Cụ thể:
Thứ nhất, tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ: người sống nương nhờ
không phải là người thừa kế, họ không được thừa kế di sản của người chết. Họ là
người không thể tự nuôi sống bản thân mà phụ thuộc vào trợ cấp từ người khác. Do
đó, để tránh gây ra những khó khăn đột xuất cho người sống nương nhờ, cần trích
một phần khối di sản của người chết để giúp đỡ họ6. Tuy nhiên, việc giúp đỡ người
khác xuất phát từ ý chí, từ sự tương trợ và từ lịng hảo tâm, chứ khơng xuất phát từ

nghĩa vụ của bất kỳ ai. Như vậy, nếu quy định trợ cấp cho người sống nương nhờ là
một nghĩa vụ tài sản thì e rằng chưa hợp lý. Việc trợ cấp hay không và trợ cấp bao
nhiêu sẽ hợp lý hơn nếu được quyết định bởi những người thừa kế.
Thứ hai, chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng: Theo phong tục tập
quán của người Việt Nam thì sau khi một người chết đi, việc mai táng là cần thiết
phải chi và phải hợp lý, phù hợp với tập quán tại nơi người để lại tài sản sinh sống.
Nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người thừa kế cũng như đảm bảo di sản được
bảo toàn tối ưu, việc mai táng phải thỏa mãn đầy đủ hai điều kiện: hợp lý và phù
hợp với tập quán tại nơi người để lại di sản sinh sống.
Thứ ba, chi phí cho việc bảo quản di sản: Nhiều trường hợp sau khi một
người chết đi, việc phân chia tài sản không được thực hiện ngay lập tức mà phải ưu
tiên mai táng để thể hiện sự tôn trọng với người chết. Do đó, nhu cầu bảo quản, giữ
gìn tài sản trong trường hợp này là cần thiết và cũng vì vậy mà phải chi ra một
khoản tiền để thực hiện. Mặc dù những chi phí nêu trên khơng phải là nghĩa vụ do
trực tiếp người chết để lại, tuy nhiên đây là những chi phí liên quan trực tiếp đến

6

Xem thêm khoản 3 mục A phần III của Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981.


12

việc bảo đảm giá trị cho khối di sản cũng như việc mai táng được theo đúng phong
tục tập quán. Do đó chi phí này được trích từ khối tài sản do người chết để lại để
thanh toán cho những người có quyền. Tuy nhiên, cần l BLDS, là vấn đề trung tâm của
mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Do đó, tài sản đồng
thời cũng rất đa dạng phong phú. Dưới góc nhìn của cá nhân tác giả, việc quy định
như trên phần nào định hướng cho những người thực thi pháp luật có thể nắm được
cơ bản tinh thần pháp luật, từ đó đưa ra được những phán quyết chính xác, hợp tình

hợp lý chứ khơng thể bao hàm được tất cả những trường hợp có thể phát sinh trên
thực tế.
2.2. Nghĩa vụ tài sản của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và
người được di tặng
Có thể thấy, việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trước hết là
bởi những người được hưởng thừa kế gồm những người được chỉ định trong di chúc
hoặc những người được thừa kế theo pháp luật, không bao gồm người quản lý di


51

sản vào việc thờ cúng và người được di tặng, trừ trường hợp phần di sản chia cho
người được hưởng thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại.
Đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng, phần di sản này được để lại theo
ý nguyện của người lập di chúc, không chia mà được giao cho một người quản lý.
Đây có thể là một tài sản cụ thể. Nếu là tài sản hoặc cây lâu năm, người quản lý có
thể thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc thờ cúng. Người quản lý khơng
được sử dụng vào mục đích của riêng mình, khơng có quyền định đoạt di sản này.
Trường hợp người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà khơng có điều
kiện để tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa thuận giao cho
người khác quản lý.46 Điều 670 BLDS năm 2015 khơng có quy định về tính chất
của di sản dùng vào việc thờ cúng (khơng định tính), mà chỉ định lượng phần di sản
dùng vào việc thờ cúng. Người lập di chúc có thể định đoạt bất kì tài sản nào trong
khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình dùng vào việc thờ cúng.
Đối với tài sản được di tặng, đây là tài sản mà người lập di chúc dành ra để
tặng cho người khác, có thể có quan hệ huyết thống hoặc khơng. Tài sản di tặng
thường có ý nghĩa đặc biệt với người di tặng cũng như người được di tặng. Bản chất
của di tặng cũng tương tự như tặng cho, tuy nhiên lại là ý chí đơn phương của người
di tặng, có thể là một phần đền bù, một phần quà tặng hoặc một phần giúp đỡ, tương
trợ của người chết để lại cho người được di tặng. Vậy nên nếu có sử dụng để thực

hiện nghĩa vụ thì việc di tặng trở nên vơ nghĩa.
Thế nhưng trên thực tế lại có trường hợp người để lại di sản vừa dành một
phần di sản cho thờ cúng, vừa dành một phần di sản để di tặng. Và cũng trong tình
huống đó, khối di sản sau khi trừ đi di sản thờ cúng và di sản di tặng không đủ để
thực hiện nghĩa vụ. Khi đó, sẽ dùng di sản thờ cúng để thanh tốn nghĩa vụ hay
dùng di sản được di tặng để thanh toán?

46

Xem />
hien-hanh/, truy cập ngày 11/12/2020.


52

Theo quy định của pháp luật, trường hợp toàn bộ di sản của người chết
khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người đó thì khơng được dành một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng47. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định:
“Người được di tặng khơng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di
tặng, trừ trường hợp tồn bộ di sản khơng đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của
người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn
lại của người này”48. Như vậy, có thể thấy trong trường hợp di sản của người chết
để lại cho những người thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ của họ thì buộc phải
sử dụng đến di sản dùng vào việc thờ cúng và di sản di tặng. Thế nhưng vấn đề
được đặt ra là: di sản được di tặng hay di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ được đưa ra
để thực hiện nghĩa vụ tài sản trước? Thứ tự thanh toán sẽ lần lượt được thực hiện
như thế nào? Chủ thể nào sẽ có khả năng được bảo tồn tài sản của mình được
hưởng hơn?
Căn cứ theo quy định của pháp luật, có thể có những phương án sau để giải
quyết vấn đề này, cụ thể:

Có ý kiến cho rằng, do tính chất đặc biệt của phần di sản dùng vào việc thờ
cúng - là sự biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nếu xếp di sản
dùng vào việc thờ cúng ngang với di sản chia thừa kế hay di tặng đồng nghĩa với
việc “hy sinh truyền thống cổ xưa vì lợi ích của quyền tự do cá nhân”49.
Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng, phải dùng di sản dùng vào việc thờ cúng
để thanh tốn nghĩa vụ trước, nếu khơng đủ mới dùng đến di tặng, bởi tài sản dành
cho di tặng thường có ý nghĩa đặc biệt với người di tặng cũng như người được di

47

Khoản 2 Điều 645 BLDS năm 2015.

48

Khoản 3 Điều 646 BLDS năm 2015.

49

Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 243.


53

tặng. Việc để lại di tặng thường nhằm mục đích làm kỷ niệm, lưu dấu một mối quan
hệ tốt đẹp thân thiết giữa người di tặng với người được di tặng50.
Như vậy, việc pháp luật chưa quy định rõ ràng về trường hợp này sẽ khiến
cho những người làm thực tiễn lúng túng, họ đều có những lập luận riêng cho mình
và quan trọng là khơng thống nhất với nhau. Có thể xét đến những trường hợp thực

hiện theo thứ tự như sau:
- Tài sản của người thừa kế, người được di tặng, người quản lý di sản dùng
vào việc thờ cúng.
- Hoặc: tài sản của người thừa kế, người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng, người được di tặng.
- Hoặc: tài sản của người thừa kế, người được di tặng và người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng sẻ chia tỷ lệ.
Hướng xử lý phù hợp nhất theo ý kiến của tác giả là: Trong trường hợp di
sản thừa kế của những người được hưởng thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại thì người được di tặng và người quản lý di sản dùng vào
việc thờ cúng có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện phần cịn lại tương ứng với phần
di sản mà mình được nhận bởi lẽ: hai chủ thể này đều là chủ thể đặc biệt, họ thực
hiện nghĩa vụ tài sản liên quan đến thừa kế khi và chỉ khi số di sản chia cho những
người được hưởng thừa kế không đủ để thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt
khác, theo quy định tại Điều 670 và Điều 671 BLDS năm 2015 thì hai loại di sản
này có địa vị pháp lý tương đối “cân bằng” nhau, bởi cơ sở để dùng hai loại di sản
này để thanh toán nghĩa vụ đều là “tồn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh
tốn nghĩa vụ tài sản của người đó”. Hơn nữa, trong thực tế đời sống, rất khó lý giải
nên dùng loại di sản nào để thanh toán trước trong trường hợp nói trên, vì điều này
cịn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tính đa dạng của quan hệ pháp luật về thừa

50

Vũ Thị Lan Hương (2011), ““Di tặng” theo quy định tại Điều 671 Bộ luật dân sự”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 5, tr. 60.


54


kế, mức chênh lệch về giá trị di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng, yếu tố tâm
lý, sự khác nhau về phong tục tập quán giữa các vùng, miền trên cả nước. Do đó,
việc thực hiện nghĩa vụ tài sản còn thiếu cần phải được đồng thời cả hai chủ thể nêu
trên thực hiện, theo tỷ lệ tương xứng với phần di sản được nhận, được quản lý.
Như vậy, cần phải có một quy định cụ thể để giải quyết vấn đề nêu trên đối
với phần di sản được di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng trong trường hợp
phần di sản dùng để chia thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại. Theo đó, tác giả đề xuất hướng hoàn thiện như sau:
Gộp quy định tại khoản 2 Điều 645 và khoản 3 Điều 646 BLDS năm 2015
thành:
“Trường hợp toàn bộ di sản đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết
nhưng sau khi trừ đi di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng khơng đủ để thực hiện
nghĩa vụ thì phần di sản di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng buộc phải được
đóng góp theo tỷ lệ nhưng khơng vượt quá phần di sản mà các chủ thể này được
nhận”.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 645 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp
toàn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người đó
thì khơng được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Trên thực tế, có thể
hiểu theo nhiều hướng khác nhau, cụ thể như sau:
Lấy một ví dụ sau đây để phân tích: A chết năm 2015, có để lại khối tài sản
là 1 tỷ cùng khoản nợ 800 triệu, A để lại di chúc có nội dung như sau: Chia cho B
và C mỗi người 350 triệu, số còn lại là 300 triệu sẽ được sử dụng vào việc thờ cúng,
việc thờ cúng sẽ do B thực hiện. Căn cứ vào khoản 2 Điều 645 BLDS năm 2015
nêu trên có thể hiểu bằng nhiều cách như sau:
Cách hiểu thứ nhất: Toàn bộ di sản A để lại là 1 tỷ, nhiều hơn khoản nợ 800
triệu, nghĩa là vẫn đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của A để lại nên vẫn có thể sử
dụng vào việc thờ cúng, người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng (B) không
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản.



55

Cách hiểu thứ hai: Phần định đoạt tài sản dùng vào việc thờ cúng của A
khơng có giá trị pháp lý bởi phần di sản đem chia thừa kế sau khi đã trừ đi phần di
sản dùng vào việc thờ cúng (700 triệu) không đủ để thực hiện nghĩa vụ (800 triệu)
nên không được sử dụng di sản vào việc thờ cúng.
Cách hiểu thứ ba: Phần di sản dùng vào việc thờ cúng vẫn có giá trị pháp lý,
nhưng do phần di sản đem chia thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ của người
chết nên phải cắt giảm một phần di sản dùng vào việc thờ cúng để thực hiện nốt
phần nghĩa vụ, phần còn lại sẽ tiếp tục dùng vào việc thờ cúng.
Có thể thấy, di sản dùng vào việc thờ cúng có thể là tiền, đất đai hoặc hiện
vật. Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì chưa đúng bản chất, tinh thần theo quy định của
pháp luật, cách hiểu thứ nhất chỉ mang bản chất lách luật để không phải thực hiện
nghĩa vụ. Cách hiểu thứ hai thể hiện rằng ý chí của người chết sẽ khơng được tơn
trọng vì khi đó sẽ khơng xuất hiện di sản dùng vào việc thờ cúng nữa, phần di sản
người chết định đoạt dùng vào việc thờ cúng cũng được chia cho những người thừa
kế. Như vậy, chỉ có cách hiểu thứ ba là đảm bảo được quyền lợi của chủ nợ và sự
tơn trọng ý chí của người chết.
Mặt khác, trong ví dụ nêu trên cịn xuất hiện thêm một vấn đề, đó là: Di sản
dùng vào việc thờ cúng sau khi được đưa ra để thực hiện nghĩa vụ tài sản còn dư lại
một phần đáng kể, thì pháp luật chưa quy định cụ thể về hướng xử lý đối với tài sản
đó. Sẽ tiếp tục sử dụng vào mục đích thờ cúng như di nguyện của người chết? Hay
sẽ đem ra chia cho những người thừa kế?
Đối với trường hợp phải sử dụng một phần di sản dùng vào việc thờ cúng để
thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại, cần quy định bổ sung khoản 3 Điều 645
như sau:
“Trong trường hợp di sản của những người thừa kế không đủ để thực hiện
nghĩa vụ tài sản và phải dùng đến di sản dùng vào việc thờ cúng, thì phần di sản
cịn lại sẽ được giải quyết như sau:



56

Nếu phần di sản dùng vào việc thờ cúng vẫn có thể tiếp tục sử dụng đúng
mục đích của nó, thì vẫn giao cho người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng thực
hiện.
Nếu phần di sản dùng vào việc thờ cúng cịn lại khơng đủ để sử dụng đúng
mục đích, thì những người thừa kế có thể tự nguyện bổ sung tài sản vào để thực
hiện việc thờ cúng hoặc phân chia bằng nhau cho những người thừa kế theo pháp
luật”.
2.3. Những vướng mắc khác liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại
2.3.1. Khi người thừa kế có hành vi che giấu những di sản của người chết
để lại nhằm tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ
Như chúng ta đã biết, nghĩa vụ là việc mà theo đó chủ thể có nghĩa vụ phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng
việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền51.
Nghĩa vụ được phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương hoặc thực hiện
công việc khơng có uỷ quyền và những việc khác theo quy định của pháp luật52. Khi
còn sống, chắc chắn những chủ thể để lại di sản đã làm phát sinh rất nhiều giao
dịch, trong đó có thể hồn tất hoặc chưa hồn tất những quyền lợi, nghĩa vụ có liên
quan. Đối với những nghĩa vụ chưa thực hiện xong, như phân tích từ chương 1,
những người thừa kế sẽ là chủ thể thay thế thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên trên thực tế, có rất nhiều trường hợp người chết khơng đứng tên
trên tài sản của họ mà được đứng tên bởi người thân thích. Tài sản ở đây có thể là
nhà, bất động sản, xe máy là những tài sản phải đăng ký chủ sở hữu; hoặc kể cả
những tài sản khơng đăng ký. Ví dụ:

51


Xem Điều 274 BLDS năm 2015.

52

Xem Điều 275 BLDS năm 2015.


57

Khi còn sống, A đã đưa cho C số tiền 600 triệu để mua 01 căn nhà, đồng thời
cũng có xác định đây là tài sản của A. Sau khi A chết, A chỉ để lại di sản gồm 100
triệu và một khoản nợ 500 triệu do làm ăn thua lỗ. Những người thừa kế của A gồm
B (vợ), C và D (là 02 con). Mặc dù căn nhà 600 triệu là di sản của A để lại nhưng vì
C là chủ sở hữu về mặt pháp lý nên di sản dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản chỉ
bao gồm 100 triệu. B và D mặc dù biết chuyện này nhưng cả hai đã thống nhất với
nhau coi tài sản trên là của C. Sau thời gian dài kể từ khi thanh toán nghĩa vụ tài sản
cho E (là chủ nợ của số tiền 500 triệu) – nghĩa là đã thực hiện xong nghĩa vụ tài sản,
cả 03 người mới bắt đầu chia giá trị tài sản căn nhà ra làm 03 phần cho mình.
Pháp luật dân sự cũng có quy định về giao dịch giả tạo: hành vi giả tạo là
hành vi cố ý, muốn đạt được mục đích nào đó nhưng mục đích đó bị che giấu có
chủ đích, nhằm để trốn tránh nghĩa vụ nào đó với người khác hoặc cố ý nhằm chiếm
đoạt những lợi ích mà người xác lập giao dịch giả tạo không có quyền hưởng hoặc
có quyền hưởng nhưng ít hơn so với xác lập giao dịch giả tạo53. Tuy nhiên mục đích
của việc để C đứng tên trên tài sản và thực hiện mua căn nhà ban đầu rất khó để xác
định có phải là giao dịch giả tạo hay khơng. Mặc dù thoả thuận sau đó của B, C, D
là trái pháp luật tuy nhiên lại khơng có căn cứ cụ thể, thuyết phục chứng minh điều
đó.
Bên cạnh đó, quyền lợi của chủ nợ là E bị ảnh hưởng nhưng lại khơng có quy
định cụ thể nào để bảo vệ cho chủ thể này. Mặt khác, đối với trường hợp E không
biết về căn nhà tồn tại là của A cho các con, thì rất khó xác định để u cầu thực

hiện nghĩa vụ do ông A để lại đối với mình.
Như vậy, cần phải có một biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra
như trên. Theo ý kiến của tác giả, tại khoản 1 Điều 615 BLDS năm 2015 cần bổ
sung thêm quy định về việc người có quyền lợi được tham gia vào kê khai tài sản do
người chết để lại. Trường hợp sau khi phân chia di sản mới phát sinh yêu cầu thực

53

Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), tlđd (11), tr. 248.


×