Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.73 MB, 105 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt chặng đường học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Công Nghệ
TP.HCM, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà
trường, Q Thầy/Cơ, cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ của bạn bè, gia đình, những
người thân thích về cả vật chất và lẫn tinh thần hay bên cạnh đó là những tiền đề lý
luận cần thiết để có thể hồn thành tốt khố luận tốt nghiệp. Đặc biệt, được sự giúp
đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn ThS. Vũ Anh Sao đã giúp tơi hồn thành tốt
khố luận này.
Đến nay, tơi đã hồn thành khố luận tốt nghiệp của mình, với sự trân trọng
tơi xin phép gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Trường Đại học Công Nghệ TP.HCM, khoa Luật và các thầy cô giáo đã cho
tôi những tiền đề lý luận cần thiết và truyền đạt cho tôi những kiến thức pháp lý trong
suốt chặng đường học đại học để thực hiện việc nghiên cứu đề tài và hồn thành tốt
bài khố luận tốt nghiệp này.
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Vũ Anh Sao là người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo, chia sẻ kinh nghiệm và giúp tơi hồn thành tốt bài khố luận tốt nghiệp này.
Gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần luôn sát
cánh bên tơi giúp tơi hồn thành tốt cơng việc của mình.
Trong q trình nghiên cứu và thực hiện khố luận tốt nghiệp do năng lực và
trình độ có hạn chế nên khố luận khơng tránh khỏi những thiếu sót mong q thầy
cơ và bạn đọc có những phản hồi và ý kiến đóng góp để khố luận sẽ hồn thiện hơn,
từ đó để tơi có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn cơng
tác thực tế sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Lê Thị Minh Kiên, MSSV: 1411270183.
Tôi xin cam đoan các thông tin sử dụng trong bài khoá luận tốt nghiệp này
được thu thập từ nguồn thực tế tại địa bàn tỉnh Kiên Giang; trên các sách báo khoa
học chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng quy định) và được thực hiện


dưới sự hướng dẫn của ThS. Vũ Anh Sao đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các
quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Nội dung trong bài khố luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ
q trình nghiên cứu KHƠNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu, báo cáo khác.
Nếu sai sót tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà Trường
và Pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

........................................


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2015

NXB

Nhà xuất bản


TAND

Toà án nhân dân

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

UBND

Uỷ ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

QSD

Quyền sử dụng


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.


Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2.

Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:............................................................ 3

4.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 3

5.

Kết cấu khoá luận ....................................................................................... 3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THỪA KẾ .................................................................................................................. 4
1.1.

Khái niệm và phân loại thừa kế ................................................................ 4

1.1.1.

Khái niệm thừa kế ................................................................................. 4

1.1.2.


Phân loại thừa kế .................................................................................. 4

1.2.

Khái niệm và các loại tranh chấp thừa kế ............................................. 21

1.3.

Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp thừa kế ............................................. 22

1.4.

Phương hướng giải quyết tranh chấp về thừa kế .................................. 23

1.5.

Thẩm quyền và trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp về thừa kế ..... 24

1.6.

Ý nghĩa giải quyết tranh chấp về thừa kế .............................................. 30

1.7.

Những lưu ý khi giải quyết tranh chấp về thừa kế ............................... 31

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ TẠI TỈNH KIÊN

GIANG ..................................................................................................................... 35
2.1.

Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang ...... 35

2.1.1.

Thực trạng của quy định pháp luật về thừa kế ................................... 35

2.1.2.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại tỉnh Kiên Giang ............. 37

2.1.3. Những ưu điểm đạt được trong quá trình xét xử giải quyết các tranh
chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang .................................................................. 45


2.1.4. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong công tác giải quyết tranh
chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang .................................................................. 46
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa
kế tại tỉnh Kiên Giang ......................................................................................... 49
2.2.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh
Kiên Giang ......................................................................................................... 49
2.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại
tỉnh Kiên Giang .................................................................................................. 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 62
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 63



1

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Thừa kế là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp,
bên cạnh đó thừa kế cịn là một chế định pháp luật hết sức quan trong hệ thống pháp
luật dân sự của nước ta cụ thể quy định về thừa kế được ghi nhận trong phần thứ tư
từ chương XXI đến chương XXIV (từ điều 609 đến điều 682) của BLDS 2015. Trong
giai đoạn hiện nay, nước ta đang ngày càng phát triển mạnh kèm theo đó là sự tác
động tiêu cực mặt trái của nền kinh tế thị trường, xã hội quá coi trọng đồng tiền, cộng
thêm bất động sản có giá trị lớn nên các vụ tranh chấp về đất đai, tài sản ngày càng
tăng. Điều đáng nói là những tranh chấp tài sản liên quan đến vấn đề thừa kế, phân
chia tài sản giữa bố mẹ và con cái, anh, em, ruột thịt với nhau có chiều hướng gia
tăng và ngày càng có diễn biến phức tạp hơn.
Hằng năm, có hàng nghìn vụ kiện tranh chấp về thừa kế mà TAND phải giải
quyết đồng thời có rất nhiều vụ tranh chấp thừa kế xét xử rất nhiều lần nhưng lại
khơng mang tính thuyết phục cao cho người dân. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp
về thừa kế tại địa bàn tỉnh Kiên Giang cho thấy các vụ án về thừa kế là loại tranh
chấp phức tạp, u cầu đối với người giải quyết phải có trình độ chuyên môn sâu,
nắm vững các quy định của pháp luật và phải áp dụng pháp luật chính xác. Pháp luật
về thừa kế đang hiện hành của nước ta đã có những sự phát triển nhất định, phù hợp
với thực tiễn xã hội, khơng ngừng hồn thiện để bảo vệ quyền lợi của mỗi công dân
một cách hiệu quả nhất và đồng thời pháp luật về thừa kế cũng được xem là chuẩn
mực pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thừa kế một cách chính xác
nhất. Tuy nhiên quy định về thừa kế khi áp dụng vào thực tiễn xét xử tại Toà án với
sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của nước ta nên không thể tránh khỏi việc

áp dụng pháp luật về thừa kế hiện hành để giải quyết tranh chấp sẽ có những vấn đề
bất cập nảy sinh khơng những thế một số quy định của pháp luật về thừa kế mang
tính chất chung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng dẫn đến lúng túng và chưa có sự thống
nhất trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế đôi khi sẽ gây bất ổn trong đời sống
sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng gây ảnh hưởng khơng nhỏ cho xã hội. Bên
cạnh đó việc giải quyết các vụ án thừa kế trong ngành TAND nói chung và TAND
tại địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng thường kéo dài, có nhiều vụ án bị sửa, một số
thì bị huỷ để giải quyết lại nhiều lần gây tâm lý “ngại xét xử” cho thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Nắm bắt được thực trạng hiện nay tác giả chọn đề tài nghiên cứu mang tên:
“Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại


2

tỉnh Kiên Giang” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình với mong muốn bản
thân sẽ nắm vững các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này để có được nhận thức
chuyên sâu hơn về kiến thức. Và đây cũng là đề tài có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
cấp bách về cả hai phương diện về lý luận và cả thực tiễn trong việc thi hành và áp
dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế tại tỉnh Kiên Giang nói riêng và cả
nước nói chung.
2.

Tình hình nghiên cứu

Thừa kế là vấn đề rất phức tạp và rất rộng, khơng những vậy thừa kế cịn có
vai trị rất quan trọng từ rất lâu trong xã hội lồi người và bên cạnh đó các luật về
thừa kế cũng thường xuyên thay đổi liên tục để phù hợp với đời sống xã hội. Tuy
nhiên, qua quá trình tìm hiểu các cơng trình, bài viết về các vấn đề xung quanh về

thừa kế nói chung thì được nghiên cứu khái quát ở một số sách chuyên khảo như:
“Luật thừa kế Việt Nam” của Phùng Trung Tập, nhà xuất bản Hà Nội, 2008, “Pháp
luật thừa kế của Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh
Tuấn được xuất bản vào năm 2009. Ngoài ra cịn có một số các giáo trình và các sách
bình luận khoa học về Luật dân sự Việt Nam. Nhưng nhìn chung hầu hết các cơng
trình này chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật thừa kế
chứ chưa hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về thừa kế.
Ngồi các sách giáo trình, sách chun khoa cịn có nhóm các cơng trình nghiên cứu
ở bậc đại học và các luận văn thạc sĩ như luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị
Vĩnh về “ Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Hồng Bắc về “ Vấn đề thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam”, luận văn thạc
sĩ của Đinh Thị Duy Thanh về “Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”,
luận văn thạc sĩ Chế Mỹ Phương Đài về “Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân
sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Tuấn về “Những quy định chung
về quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”…
Nhìn chung, những cơng trình trên chủ yếu dừng lại ở phạm vi phân tích các
quy định của pháp luật về thừa kế trong giai đoạn trước hoặc đi sâu vào một khía
cạnh pháp lý cụ thể của chế định này và đưa ra những tình huống giả thiết để bình
luận các quy định của pháp luật. Nhưng hiện nay với sự ra đời của BLDS 2015 đã có
sửa đổi, bổ sung và có những quy định khác mà các cơng trình nêu trên chưa cập nhật
được đồng thời cũng chưa có cơng trình nào nghiên cứu về thừa kế gắn với thực tiễn
giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang. Do vậy việc chọn đề tài “Thực
trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên
Giang” để tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề thừa kế để kịp thời có hướng đề xuất các
giải pháp để nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp cho phù hợp với thực tiễn
là điều hết sức cần thiết.


3


3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận chủ yếu nghiên cứu các vấn đề sau:

-

Luận giải một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp thừa kế;
Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế;
Nêu một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế.

Phạm vi nghiên cứu: Do mức độ phức tạp trong lĩnh vực thừa kế nói chung và
vấn đề thực tiễn nói riêng nên khố luận khơng đi sâu vào phân tích tất cả các quy
định của pháp luật về thừa kế mà chỉ đi vào phân tích các quy định pháp luật trong
phạm vi có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về thừa kế trong BLDS 2015 và
BLTTDS 2015. Trên cơ sở đó khố luận cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh
chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang qua đó nhận xét ưu điểm và hạn chế còn tồn tại,
đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tỉnh
Kiên Giang.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học MácLênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bên cạnh đó cịn
có tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta trong lĩnh vực thừa kế.
Ngồi ra, khố luận này còn vận dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu
khác như phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử dụng
trong chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp thừa kế.
Ở chương 2 các phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, đồng thời là các

phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp cũng được sử dụng trong chương 2
để tìm hiểu và làm rõ thực trạng giải quyết tranh chấp bên cạnh đó cũng nêu giải pháp
để nhằm nâng cao giải quyết tranh chấp về thừa kế thông qua thực tiễn giải quyết
tranh chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang. Bên cạnh đó một số vụ án giải quyết tranh
chấp về thừa kế cũng được sử dụng có chọn lọc để bình luận nhằm cho việc nghiên
cứu đề tài này sẽ được tồn diện hố và sâu sắc hơn.
5.

Kết cấu khố luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, khoá luận được
kết cấu gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về giải quyết tranh chấp thừa kế;
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp về thừa kế tại tỉnh Kiên Giang.


4

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THỪA KẾ
1.1.

Khái niệm và phân loại thừa kế

1.1.1. Khái niệm thừa kế
Bất kì một chủ thể nào trong xã hội nếu muốn tồn tại và phát triển đều phải
dựa trên cơ sở vật chất nhất định. Có thể nói con người tạo ra của cải một cách hợp
pháp thì sẽ thuộc sở hữu của họ, họ sẽ có quyền chiếm hữu, sử dụng chúng để thoả
mãn nhu cầu cùa mình trong đời sống hằng ngày và cịn có quyền định đoạt chúng

khi cần thiết. Khi họ chết đi những tài sản thuộc sở hữu còn lại của họ sẽ được chuyển
giao cho người khác và quá trình dịch chuyển tài sản này được gọi là thừa kế. Nói
một cách dễ hiểu hơn thì thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản từ người đã chết cho
những người còn sống khác. Nơi nào có sở hữu, nơi đó có thừa kế. Nếu nói sở hữu là
sự phản ánh tài sản nào trong xã hội thuộc về ai thì thừa kế chính là sự phản ánh tài
sản của ai đó sẽ dịch chuyển cho ai khi họ chết.
Thừa kế và sở hữu luôn tồn tại song song với nhau. Sở hữu là cơ sở để làm
xuất hiện vấn đề thừa kế thì thừa kế lại chính là phương tiện để duy trì và củng cố
vấn đề sở hữu.
1.1.2. Phân loại thừa kế
Có hai loại thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
❖ Thừa kế theo di chúc
- Khái niệm và đặc điểm của di chúc
“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết”1. Di chúc do cá nhân còn sống dựa vào ý chí và tình cảm
của mình, định đoạt tài sản của mình cho người khác được hưởng di sản đó sau khi
qua đời. Di chúc có thể được thể hiện thơng qua hình thức viết hoặc miệng. Di chúc
là căn cứ để ta dựa vào đó mà thực hiện quá trình dịch chuyển di sản của người chết
cho người khác ln ln có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, di chúc là ý chí đơn phương của cá nhân lập di chúc: Nhìn chung,
di chúc là giao dịch dân sự một bên. Theo đó thì cá nhân này sẽ quyết định chuyển
giao một phần hoặc tồn bộ tài sản của mình cho người đã được họ xác định trong di
chúc mà khơng cần biết người đó có nhận di sản của mình hay khơng. Nếu trong giao

1

Xem Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015


5


dịch dân sự (hợp đồng) được hình thành bởi sự thoả thuận ý chí của nhiều bên chủ
thể thì đối với di chúc chỉ là sự quyết định đơn phương của người lập ra nó.
Thứ hai, di chúc nhằm chuyển dịch di sản của người chết cho người khác đã
được xác định trong di chúc: Đây là đặc điểm vô cùng quan trọng không thể thiếu đối
với di chúc. Di chúc chỉ đem lại ý nghĩa về mặt vật chất cho những người thừa kế
theo di chúc đồng thời chỉ thật sự là một phương tiện để lại thừa kế thực hiện quyền
định đoạt đối với tài sản của mình khi nào di chúc chứa đựng nội dung dịch chuyển
di sản của mình cho người khác.
Thứ ba, di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người xác lập ra nó chết: Đặc điểm này
cho ta thấy rằng dù di chúc đã được lập nhưng khi người lập di chúc còn sống thì
người thừa kế theo di chúc khơng có bất cứ quyền nào đối với tài sản của người lập
di chúc và họ cũng chưa chắc được hưởng di sản đó.
-

Điều kiện có hiệu lực của di chúc

Với tư cách là một giao dịch dân sự nên di chúc muốn được coi là hợp pháp
phải đáp ứng đủ các điều kiện đã được quy định tại Điều 117 của BLDS 20152. Để di
chúc hợp pháp thì di chúc cần phải đủ các điều kiện mang tính bắt buộc được quy
định tại Điều 630 BLDS 20153 và các chủ thể phải tuân theo nhằm ngăn chặn những
hành vi pháp luật xâm hại tới lợi ích của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Một di chúc muốn được coi là hợp pháp phải đáp ứng được các yếu tố như sau:
Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự

Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể
có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể
tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

2

Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Di chúc hợp pháp phải có đủ điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh
mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. b) Nội dung của di chúc không vi
phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định pháp luật. 2. Di chúc
của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ
hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc
bằng văn bản không có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm
quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
3


6

Một người được coi là đủ năng lực hành vi trong việc lập di chúc nếu người
đó đáp ứng được hai yêu cầu sau:
Thứ nhất, yêu cầu về độ tuổi: Những người đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
lập di chúc. Đối với những người chưa đủ mười tám tuổi nhưng đã tròn mười lăm
tuổi, dù chưa thành niên nhưng ở độ tuổi này cũng đã có sự nhận thức nhất định, tuy
nhiên ở độ tuổi này nhận thức của họ chưa hoàn hảo nên họ chỉ được lập di chúc nếu
có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Thứ hai, yếu tố về nhận thức: Trong lúc lập di chúc mà người lập di chúc
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì di chúc đó sẽ bị coi là khơng
hợp pháp.
Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện

Muốn xác định di chúc có phải là ý chí tự nguyện của người lập di chúc hay
không cần phải thống nhất giữa ý chí của người lập di chúc và sự thể hiện ý chí đó
trong nội dung của bản di chúc. Khi nào di chúc phản ánh khách quan trung thực
những mong muốn bên trong của người lập di chúc thì sự định đoạt đó mới được coi
là tự nguyện. Di chúc sẽ bị coi là khơng có tính tự nguyện khi di chúc được lập ra
trong nhưng trường hợp sau:
+ Người lập di chúc bị lừa dối: Lừa dối là thủ đoạn có tính tốn trước của
người này đối với người khác và làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề mà quyết
định một việc gì đó theo mục đích của người lừa dối. Có thể nói sự im lặng đôi khi
bị coi là lừa dối nếu một người biết được sự thật nhưng lại im lặng, khơng nói sự thật
đó nhằm mục đích để người lập di chúc định đoạt theo hướng có lợi cho mình hoặc
cho người khác theo ý của mình. Việc xác định sự im lặng của một người có phải là
lừa dối hay khơng là căn cứ để xem xét hiệu lực của di chúc và đồng thời cũng là căn
cứ để xác định có tước quyền hưởng di sản hay khơng.
+ Người lập di chúc bị đe doạ: Đe doạ là hành vi cố ý của một người làm cho
người khác lo sợ mà phải thực hiện một việc nào đó theo mục đích của người đã đe
doạ. Về mặt hậu quả, sự đe doạ phải nghiêm trọng đến mức người bị đe doạ bị tê liệt
ý chí, trở nên sợ hãi và buộc phải lập di chúc đúng theo yêu cầu của người đe doạ. Sự
đe doạ thường hướng tới tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh dự,
tài sản của người bị đe doạ hoặc người thân của người đó.
+ Người lập di chúc bị cưỡng ép: Cưỡng ép rất gần với đe doạ. Đe doạ là tác
động làm cho người bị đe doạ sợ hãi thì hành vi cưỡng ép thường là việc dựa vào
hoàn cảnh đặc biệt của người để lại di sản để dồn ép người đó phải miễn cưỡng lập
di chúc theo mục đích của người cưỡng ép.


7

Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Di chúc sẽ được coi là hợp pháp nếu nội dung thể hiện trong di chúc không vi

phạm những điều pháp luật cấm, không trái với những điều pháp luật đã quy định. Di
chúc muốn được coi là hợp pháp thì nội dung của nó phải phù hợp với đạo đức xã
hội. Đạo đức xã hội không mang tính cố định. Đạo đức là cơ sở xã hội của pháp luật.
Một nền pháp luật được hình thành nếu khơng phù hợp với đạo đức xã hội thì tính
khả thi của pháp luật sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật
Căn cứ theo Điều 627 BLDS 2015 thì “Di chúc phải được lập thành văn bản;
nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Như vậy ta
hiểu rằng việc lập di chúc có thể tiến hành theo một trong hai hình thức là di chúc
viết (chúc thư) hoặc là thông qua lời nói hay cịn gọi là di chúc miệng (chúc ngơn).
+ Di chúc viết: Người để lại di sản có quyền chọn lựa để lập di chúc bằng văn
bản bằng các hình thức như: khơng có người làm chứng; có người làm chứng; có
cơng chứng hoặc có chứng thực. Quyền lựa chọn việc lập di chúc theo loại nào không
đồng nghĩa với việc tuỳ tiện hay cẩu thả mà phải tuân theo đúng trình tự mà pháp luật
đã quy định.
Đối với di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng: Tính xác thực của
loại di chúc này do chính tay người lập di chúc viết và ký. Nếu di chúc là một bản
đánh máy thì di chúc đó sẽ khơng được thừa nhận dù có chữ ký của người lập di chúc.
Tương tự nếu di chúc đó khơng có chữ ký của người lập di chúc thì cũng sẽ khơng
được thừa nhận dù di chúc đó do chính tay họ viết ra.
Đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Cá nhân khơng thể tự mình
viết được vẫn có thể lập di chúc bằng văn bản để định đoạt tài sản của mình cho người
khác sau khi mình chết. Khi lập loại di chúc này phải có ít nhất hai người làm chứng
và người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người
làm chứng, đồng thời trong bản di chúc đó phải có chữ ký của những người làm chứng
và xác nhận của họ về chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc.
Đối với di chúc có cơng chứng nhà nước hoặc chứng thực: Người lập di chúc
tự viết bản di chúc và có u cầu cơng chứng nhà nước chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân
dân xã phường, thị trấn chứng thực thì người lập di chúc phải ký vào bản di chúc
trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng thực.



8

+ Di chúc miệng: BLDS 2015 nêu rõ “Trường hợp tính mạng một người bị cái
chết đe doạ và khơng thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng”4. Di
chúc miệng được coi là hợp pháp phải tuân thủ các điều kiện để được coi là hợp pháp
của một di chúc nói chung và đáp ứng ba điều kiện như sau: Người có di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt hai người làm chứng; ý chí cuối cùng
của người để lại di chúc miệng phải được người làm chứng ghi lại thành văn bản và
cùng ký tên hoặc điểm chỉ ngay sau đó; cuối cùng là văn bản ghi lại ý chí cuối cùng
của người để lại di chúc miệng phải được công chứng hoặc chứng thực chậm nhất là
năm ngày, kể từ ngày người để lại di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng. Bên cạnh
đó “Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc cịn sống, minh
mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”5.
-

Hiệu lực của di chúc

Thời điểm có hiệu lực của di chúc: Là thời điểm người lập di chúc chết. Tức
là khi nào người lập di chúc chết thì khi đó di chúc được coi là có hiệu lực pháp luật.
Di chúc sẽ có hiệu lực vào các thời điểm sau:
+ Nếu người để lại di chúc chết một cách thực tế thì thời điểm có hiệu lực của
di chúc mà họ để lại được xác định theo Giấy chứng tử.
+ Nếu người để lại di chúc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì di chúc của họ
được xác định có hiệu lực vào ngày mà Toà án xác định họ đã chết.
Nhưng trên thực tế nếu khi người lập di chúc có đưa ra điều kiện và trong di
chúc ghi rõ chỉ khi nào điều kiện đó xảy ra thì di chúc mới có hiệu lực thì sẽ như thế
nào? Ta sẽ xác định theo ý chí của người đó hay vẫn theo căn cứ mà pháp luật đã quy
định. Di chúc là một loại giao dịch dân sự cho nên nếu di chúc đặt ra có điều kiện thì

phải coi di chúc đó là một giao dịch có điều kiện. Quyền của người lập di chúc bao
hàm cả quyền ra điều kiện cho người thừa kế hoặc quy định điều kiện để hưởng di
sản thừa kế. Cho nên tác giả thiết nghĩ trong trường hợp trên cần xác định thời điểm
có hiệu lực của di chúc theo ý chí của người lập ra nó. Như vậy sẽ phù hợp với nguyên
tắc “tự do, tự nguyện cam kết” đã quy định trong BLDS và đồng thời cũng phù hợp
với nguyên tắc và thông lệ quốc tế (BLDS Nhật Bản quy định: “Trong trường hợp di
chúc bị phụ thuộc vào một điều kiện treo và nếu điều kiện này xảy ra sau khi người
lập di chúc chết thì di chúc có hiệu lực từ khi điều kiện xảy ra”6).

4

Xem khoản 1 Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015

5

Xem khoản 2 Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015

Xem Điều 983 Bộ luật Dân sự Nhật Bản được trích dẫn từ Phạm Văn Tuyết – Lê Kim Giang (2015), Pháp
luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, trang 207
6


9

Mức độ có hiệu lực của di chúc:
+ Di chúc khơng có hiệu lực do bất hợp pháp: Nếu di chúc vi phạm một trong
các điều kiện đã được quy định trong Điều 630 BLDS 20157 sẽ bị coi là khơng có
hiệu lực. Bên cạnh đó cũng có những trường hợp vi phạm làm cho di chúc bị vơ hiệu
tồn bộ (người lập di chúc khơng có năng lực hành vi dân sự) nhưng cũng có trường
hợp vi phạm các điều kiện mà pháp luật đã quy định chỉ làm cho di chúc khơng có

hiệu lực một phần.
+ Di chúc hợp pháp nhưng khơng có hiệu lực do các ngun nhân khác:
Nguyên nhân chủ quan (tức là người lập di chúc thay đổi ý chí): Sự thay đổi ý
chí của một người đối với di chúc đã được lập thực hiện thông qua việc sửa đổi, thay
thế hoặc huỷ bỏ di chúc. Phần di chúc bị sửa đổi, bản di chúc bị huỷ bỏ, những di
chúc đã thay thế sẽ khơng có hiệu lực pháp luật.
Ngun nhân khách quan: Di chúc hợp pháp nhưng vẫn có thể khơng có hiệu
lực pháp luật vì những ngun nhân ngồi ý chí của người lập di chúc làm cho di
chúc không thể thực hiện được do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc.
Thứ hai, người thừa kế khước từ quyền hưởng di sản.
Thứ ba, người thừa kế theo di chúc không được quyền hưởng di sản căn cứ
theo khoản 1 Điều 621 BLDS 20158.

Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật. 2. Di
chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc
bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm
quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
7

Khoản 1 Điều 621 BLDS 2015 “Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) Người bị kết án

về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại
di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi
8


10

Thứ tư, di sản được xác định trong di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa
kế.
-

Quyền định đoạt của người lập di chúc

Thứ nhất, chỉ định người thừa kế: Người lập di chúc có quyền chỉ định bất kỳ
người nào kể cả cơ quan, tổ chức làm người thừa kế để hưởng di sản theo di chúc của
mình.
Thứ hai, truất quyền hưởng di sản:
+ Người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản: Đây là trường hợp người thừa
kế theo pháp luật bị người để lại thừa kế nói rõ trong di chúc về việc truất quyền
hưởng di sản của họ. Trong trường hợp di chúc bị vô hiệu toàn bộ (tức là việc truất
quyền hưởng di sản cũng vơ hiệu) thì tư cách người thừa kế theo luật của những người
được nói trên khơng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên trong trường hợp di chúc có hiệu lực
tồn bộ hoặc một phần vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc truất
quyền hưởng di sản thì tư cách người thừa kế theo luật của họ đương nhiên bị mất.
+ Người thừa kế không được hưởng di sản theo di chúc: Là người có quyền
hưởng di sản của người chết để lại theo quy định của pháp luật nhưng thực tế họ
không được hưởng bởi di sản không cịn vì người lập di chúc đã định đoạt hết cho
người khác. Nếu có một phần di sản nào đó được chia theo pháp luật thì họ sẽ được

hưởng bởi vì họ vẫn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Thứ ba, quyền phân định di sản cho từng người thừa kế: Quyền phân định di
sản được xem xét dưới ba góc độ: Phân định tổng quát (trường hợp người lập di chúc
không xác định rõ phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng); phân định theo
tỉ lệ (trong di chúc đã nói rõ mỗi người thừa kế được hưởng một phần di sản theo một
tỉ lệ nhất định so với tổng giá trị di sản); phân định cụ thể (trong trường hợp người để
lại di sản đã xác định rõ ràng trong di chúc người thừa kế nào được hưởng di sản là
hiện vật gì).
Thứ tư, quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế: Việc phân định nghĩa vụ được
hiểu theo ba góc độ.
+ Người để lại di sản để lại nghĩa vụ về tài sản nhưng trong di chúc khơng nói
rõ người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ đó thì theo quy định của pháp luật, ai
hưởng thừa kế thì người đó phải thực hiện. Trước khi chia di sản phải dùng di sản đó

lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc,
hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”


11

thực hiện các nghĩa vụ mà người chết để lại. Trường hợp di sản đã chia thì mỗi người
thừa kế phải thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận.
+ Người để lại thừa kế đã xác định rõ tỉ lệ nghĩa vụ mà từng người thừa kế
phải thực hiện thì mỗi người phải thực hiện phần đó trong phạm vi di sản mà mình
được hưởng. Phần nghĩa vụ vượt quá số di sản người này được hưởng sẽ chia đều
cho những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ đã nhận.
+ Nếu người lập di chúc đã giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế thì riêng
người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Tất nhiên, nếu phần nghĩa vụ
vượt quá số di sản mà người đó được hưởng thì người thừa kế khác phải thực hiện
tương ứng với phần di sản mà họ được hưởng.

Thứ năm, người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để di tặng: Di tặng
là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng
phải được ghi rõ trong di chúc. Việc di tặng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người lập
di chúc chết và người được di tặng phải còn sống vào thời điểm đó. Mặt khác, người
nhận tài sản di tặng được coi là một bên trong hợp đồng tặng cho (dù cho hợp đồng
này được thực hiện sau khi người tặng cho đã chết) nên họ được hưởng di sản mà
không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Thứ sáu, quyền được để lại di sản dùng vào việc thờ cúng: Nước ta đã ghi nhận
quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng của người lập di chúc ghi rõ tại Điều 645
của BLDS 20159.
Thứ bảy, quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ di chúc:
+ Sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình
thay đổi một phần di chúc đã lập. Phần di chúc không bị sửa đổi (phần giữ nguyên)
vẫn có hiệu lực pháp luật, phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ khơng cịn hiệu lực mà thay
vào đó pháp luật sẽ căn cứ vào ý chí thể hiện trong sửa đổi sau cùng.
+ Bổ sung di chúc là việc người lập di chúc quy định thêm một số vấn đề mà
trong di chúc đã lập chưa nói đến nhằm làm cho di chúc cụ thể, chi tiết hơn, rõ hơn.
Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng, thì di sản đó khơng được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để
thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận
của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.Trường hợp tất cả người thừa kế theo di chúc đều đã
chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật. 2. Trường hợp tồn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
9


12


Vì vậy, khi người lập di chúc bổ sung di chúc thì cả di chúc đã lập và cả phần bổ sung
đều có hiệu lực như nhau. Trường hợp di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn với
nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật vì lúc này việc bổ sung di chúc đã
chuyển hố thành sửa đổi di chúc.
+ Huỷ bỏ di chúc là người đã lập di chúc lại bằng ý nguyện của mình truất/bãi
bỏ di chúc đã lập. Pháp luật chỉ xác định một trường hợp được coi là huỷ bỏ di chúc
“khi người lập di chúc thay thế di chúc đã lập”10.
Thứ tám, quyền thay thế di chúc: Một người tuy đã lập di chúc định đoạt tài
sản của mình cho người khác nhưng sau đó nếu thấy việc định đoạt của mình chưa
phù hợp hoặc khơng cịn phù hợp thì có quyền lập di chúc khác thay thế di chúc đã
lập trước đó. Khi người lập di chúc đã thay thế bằng di chúc mới thì những di chúc
trước hồn tồn khơng cịn hiệu lực pháp luật căn cứ theo khoản 3 Điều 640 thì
“Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước
bị huỷ bỏ”.
Thứ chín, quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân
chia di sản:
+ Quyền chỉ định người giữ di chúc: Phải được thực hiện đúng theo quy định
tại Điều 641 BLDS 201511.
+ Quyền chỉ định người quản lý di sản: Quyền này của người lập di chúc sẽ
không bị giới hạn về diện những người được chỉ định. Bên cạnh đó thì người quản lý
di sản có những quyền đã được quy định rõ tại khoản 1 Điều 618 BLDS 201512. Ngoài
ra thì người quản lý di sản cịn có nghĩa vụ đã được quy định tại khoản 1 Điều 617
BLDS 201513.
10

Xem khoản 3 Điều 640 Bộ luật Dân sự 2015

Điều 641 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Người lập di chúc có thể u cầu tổ chức hành nghề cơng chứng lưu giữ
hoặc gửi người khác giữ bản di chúc. 2. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì

phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về công chứng. 3. Người giữ bản di chúc có
nghĩa vụ sau đây: a) Giữ bí mật nội dung di chúc; b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất
lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc; c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có
thẩm quyền cơng bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản,
có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.”
11

Khoản 1 Điều 618 Bộ luật Dân sự 2015 “Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616
của Bộ luật này có quyền sau đây: a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên
quan đến di sản thừa kế; b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế; c) Được thanh tốn
chi phí bảo quản di sản.”
12

Khoản 1 Điều 617 Bộ luật Dân sự 2015 “Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616
của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây: a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà
người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; b) Bảo quản di sản; không được bán,
13


13

+ Quyền chỉ định người phân chia di sản: Người phân chia di sản là người
đứng ra phân chia di sản khi người để lại di chúc chết. Việc phân chia phải tuân theo
di chúc. Trong trường hợp di chúc khơng xác định cách phân chia di sản thì chia theo
sự thoả thuận của người thừa kế. Người phân chia di sản chỉ được hưởng thù lao đối
với công việc chia di sản và theo mức mà người để lại di sản xác định, nếu trong di
chúc cho phép hưởng thù lao. Nếu trong di chúc không xác định điều này thì nếu có
sự thoả thuận của người thừa kế thì người phân chia di sản vẫn được hưởng thù lao
theo sự thoả thuận đó. Người được xác định phân chia tài sản có thể từ chối cơng việc
đó nếu muốn và trong trường hợp này những người thừa kế tự thoả thuận đề cử ra

người phân chia.
-

Quyền định đoạt của người lập di chúc sẽ bị hạn chế trong các trường hợp sau:

+ Phải dành một phần di sản cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
di chúc: Căn cứ theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 của nước ta thì con chưa thành
niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con thành niên mà khơng có khả năng lao động vẫn được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu
di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc
cho hưởng di sản hoặc chỉ cho người hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.
+ Hạn chế trong việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng: Pháp luật nước ta
hạn chế quyền dành di sản vào việc thờ cúng của người lập di chúc như sau“Trường
hợp toàn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người
đó thì khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”14. Theo quy định này dù người lập di chúc
đã thể hiện ý chí dành một phần di sản của mình vào việc thờ cúng nhưng khơng được
pháp luật thừa nhận nếu phần tài sản cịn lại khơng đủ thanh tốn nghĩa vụ tài sản. Vì
vậy mà phần di sản để thờ cúng phải dùng để thanh toán các khoản còn lại của người
lập di chúc. Nếu việc để lại phần di sản vào việc thờ cúng của người lập di chúc ảnh
hưởng đến quyền lợi chính đáng của người thừa kế theo Điều 644 BLDS 201515 thì

trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu khơng được những người
thừa kế đồng ý bằng văn bản; c) Thơng báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế; d) Bồi thường thiệt
hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại; đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.”
14

Xem khoản 2 Điều 645 BLDS 2015

Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất

của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa
thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động. 2. Quy định tại khoản 1
Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người
khơng có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
15


14

quyền định đoạt đó bị hạn chế để đảm bảo những người thừa kế nói trên được hưởng
phần di sản ít nhất là bằng hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật.
+ Hạn chế trong việc để lại di sản tặng: Mặc dù dành cho người để lại di sản
quyền để lại di sản tặng nhưng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ của
người để lại di sản, pháp luật nước ta quy định “…trường hợp tồn bộ di sản khơng
đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được
dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”16. Quy định này là một sự
hạn chế của pháp luật đối với quyền dùng di sản để di tặng.
❖ Thừa kế theo pháp luật
- Các trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Theo quy định tại Điều 650 của BLDS 201517 thì thừa kế theo pháp luật sẽ
được áp dụng trong những trường hợp như sau:
Thứ nhất, áp dụng trong trường hợp khơng có di chúc hoặc được coi là khơng
có di chúc: Trường hợp người để lại di sản không lập di chúc hoặc có lập những đã
huỷ di chúc hoặc tuyên bố huỷ bỏ di chúc đã lập. Bên cạnh đó trường hợp người chết
có để lại di chúc nhưng khi tranh chấp thừa kế xảy ra di chúc đó bị thất lạc hoặc hư
hại đến mức không thể hiện được nội dung và ý chí của người lập di chúc và bên cạnh
đó cũng khơng thể nào chứng minh được ý nguyện đó có phải là ý nguyện thực sự
của người lập di chúc được coi là khơng có di chúc. Đối với bản di chúc được viết
bằng ký hiệu hoặc bằng từ ngữ khó hiểu làm tất cả các người thừa kế hiểu khác nhau

và không thống nhất được nội dung của bản di chúc thì cũng là trường hợp khơng có
di chúc. Vậy nên trong các trường hợp trên thì toàn bộ phần di sản mà người chết để
lại sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, áp dụng trong trường hợp có di chúc nhưng di chúc khơng hợp pháp:
Di chúc bị coi là không hợp pháp khi không đáp ứng các điều kiện của một giao dịch
có hiệu lực và các điều kiện để di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 630 của

16

Xem khoản 3 Điều 646 Bộ luật Dân sự 2015

Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015 “Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Khơng
có di chúc; b) Di chúc không hợp pháp c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế; d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng có quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản. 2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây: a) Phần
di sản không được định đoạt trong di chúc; b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực
pháp luật; c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng
di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan,
tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng khơ”ng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
17


15

BLDS 201518 thì khi ấy di sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết theo pháp
luật. Di chúc bất hợp pháp có thể bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó do người
khơng cịn minh mẫn, sáng suốt lập ra hoặc di chúc đó khơng phải là ý chí tự nguyện
của người lập di chúc, do bị người khác cưỡng ép, ngăn cản hoặc lừa dối. Bên cạnh
đó đối với trường hợp người dưới mười lăm tuổi lập ra hoặc do người đủ mười lăm

tuổi lập ra nhưng khơng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ thì cũng bị coi
là vơ hiệu hố tồn bộ. Ngồi ra với trường hợp toàn bộ nội dung di chúc trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội cũng bị xem là vơ hiệu hố tồn bộ dù cho khơng vi phạm
các điều kiện nêu trên. Khi di chúc bị vơ hiệu hố tồn bộ thì tức là tồn bộ di sản mà
người lập di chúc để lại sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp luật của họ.
Đối với di chúc dù đã đáp ứng được các điều kiện về năng lực hành vi, tính tự
nguyện, độ minh mẫn sáng suốt của người lập di chúc nhưng nội dung của bản di
chúc lại có một phần khơng hợp pháp hoặc trái với đạo đức xã hội và phần không
hợp pháp ấy không ảnh hưởng đến hiệu lực đối với phần còn lại của di chúc thì di
chúc đó bị coi là vơ hiệu một phần. Vậy nên đối với trường hợp này thì phần di sản
có liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật sẽ áp dụng thừa kế theo
pháp luật để chia cho những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản,
phần di sản liên quan đến phần di chúc có hiệu lực pháp luật sẽ được chia cho những
người thừa kế xác định trong di chúc
Thứ ba, áp dụng trong trường hợp người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với nguời lập di chúc, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo
di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế: Nếu tất cả các cá nhân được thừa kế
theo di chúc đều đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, các
cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc cũng khơng cịn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế thì tồn bộ di sản để lại được chia cho những người thừa kế theo
pháp luật của người đó. Khi chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc đều
đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, một hoặc một số cơ
Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật. 2. Di
chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. 3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người
không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực. 4. Di chúc
bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy
định tại khoản 1 Điều này. 5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối

cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm
quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
18


16

quan, tổ chức khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế. Những người còn sống, các cơ
quan, tổ chức còn tồn tại vẫn được hưởng phần di sản đã được người để lại di sản
định đoạt trong di chúc.
Thứ tư, áp dụng đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc: Trong
trường hợp này người lập di chúc chỉ mới định đoạt một phần di sản thì phần di sản
này được chia theo di chúc. Phần di sản chưa được đinh đoạt sẽ áp dụng thừa kế theo
pháp luật để dịch chuyển cho người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Những người trong cùng một hàng thừa kế sẽ được hưởng ngang nhau đối với phần
di sản đó.
Thứ năm, áp dụng trong trường hợp người thừa kế theo di chúc khơng có quyền
hưởng di sản: Người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản là những
người được người để lại di sản chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng chính
họ lại có một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 621 của BLDS 201519
quy định các trường hợp về người không được hưởng di sản cho nên bị pháp luật tước
bỏ quyền hưởng di sản. Nếu toàn bộ những người thừa kế theo di chúc đều khơng có
quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ di sản mà
người lập di chúc đã để lại. Nếu chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc
khơng có quyền hưởng di sản thì ta chỉ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với phần
di sản liên quan đến người đó mà thơi.
Thứ sáu, áp dụng trong trường hợp người thừa kế theo di chúc từ chối quyền
hưởng di sản: Người thừa kế theo di chúc thực hiện từ chối nhận di sản đúng với quy

định theo Điều 620 BLDS 201520 thì phần di sản liên quan đến người đó sẽ được áp
dụng thừa kế theo pháp luật để giải quyết. Nếu người thừa kế theo di chúc không
đồng thời là người thừa kế theo pháp luật thì việc họ từ chối nhận di sản chỉ là từ chối
hưởng di sản theo di chúc cho nên nếu người thừa kế theo di chúc đồng thời là người
thừa kế theo pháp luật thì cần phải xác định họ từ chối nhận di sản theo di chúc hay
Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) Người bị kết
án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để
lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc,
hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi
của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”
19

Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015 “1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2. Việc từ chối nhận di sản phải
được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ
phân chia di sản để biết. 3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”
20


17

là từ chối cả di chúc và pháp luật. Nếu họ từ chối quyền nhận di sản theo di chúc thì
họ vẫn là người thừa kế theo pháp luật nên phần di sản vẫn được giải quyết theo pháp
luật và chia cho họ. Nếu họ từ chối toàn bộ quyền hưởng di sản (cả theo di chúc và
cả theo pháp luật) thì phần di sản đó sẽ được chia cho những người thừa kế theo pháp
luật khác. Bên cạnh đó nếu toàn bộ những người thừa kế theo di chúc từ chối quyền

hưởng di sản thì ta sẽ áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ di sản mà người
lập di chúc để lại thì lúc này toàn bộ di sản thừa kế được chia cho người thừa kế theo
pháp luật. Nếu chỉ có một hoặc một số người thừa kế theo di chúc từ chối quyền
hưởng di sản thì ta chỉ áp dụng chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản liên
quan đến họ mà thôi.
-

Diện thừa kế theo pháp luật:

Khi giải quyết tình huống về thừa kế theo pháp luật ta cần phải xác định diện
thừa kế theo quy định của pháp luật, bên cạnh đó loại trừ những trường hợp khơng
thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc thuộc nhưng không có quyền hưởng di sản
thừa kế theo pháp luật. Nhìn chung phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được
xác định dựa trên ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và ni dưỡng. Ba mối quan
hệ này có tính độc lập tương đối, vì quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên,
từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản với
người thừa kế. Cụ thể như sau:
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo khoản 1
Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 thi“Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng
sau khi kết hôn”. Như vậy, thì chỉ coi quan hệ hơn nhân giữa người nam và người nữ
khi họ kết hôn hợp pháp. Bên cạnh đó sau khi kết hơn thì vợ và chồng có nghĩa vụ
với nhau và một trong những quyền của vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa vào quan hệ huyết thống: Quan hệ huyết
thống là quan hệ giữa những người có cùng dịng máu về trực hệ (cha, mẹ đối với
con; ông, bà đối với cháu nội, cháu ngoại; cụ đối với chắt nội và chắt ngoại) hoặc
bằng hệ (anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, cậu, cháu của người chết). Quyền thừa kế của
con khơng phụ thuộc vào hình thức hơn nhân của cha đẻ, mẹ đẻ.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ nuôi dưỡng: Quan hệ nuôi dưỡng
là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng với người được ni dưỡng, là sự thể hiện

nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của
pháp luật. Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa cha và mẹ nuôi với con nuôi và ngược
lại. Việc nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện do Luật Hơn nhân và Gia
đình quy định.


18

-

Hàng thừa kế theo pháp luật:

Không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật
đều được thừa kế cùng một lúc mà những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
hưởng di sản theo trình tự trước và sau đó căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với
người chết mà pháp luật thừa kế sẽ xếp họ vào từng nhóm khác nhau. Mỗi nhóm đó
được gọi là một hàng thừa kế theo pháp luật. Ở mỗi một quốc gia dựa vào từng thời
kỳ từng giai đoạn khác nhau mà có những quan niệm khác nhau, bên cạnh đó pháp
luật về thừa kế cịn phụ thuộc vào truyền thống văn hố, hồn cảnh xã hội, phong tục
tập quán và tôn giáo của mỗi dân tộc.
Nếu ở Việt Nam, những người thừa kế cùng hàng được chia phần như nhau
thì ở Pháp lại quy định di sản phải chia làm hai phần cho bên nội và ngoại của người
mất rồi mới chia cho những người thừa kế tuỳ theo bên nội căn cứ tại Điều 733 BLDS
Cộng hồ Pháp. Ví dụ nếu bên nội cịn một người thừa kế, bên ngoại ba người thì
người thừa kế bên nội sẽ nhận phần di sản bằng ba người bên ngoại. Con cái được
hưởng phần thừa kế của cả hai bên nội ngoại. Đối với con cái cùng mẹ khác cha hoặc
cùng cha khác mẹ thì được hưởng phần tuỳ theo họ của mình. Qua đó chứng tỏ quyền
thừa kế của vợ chồng ở Pháp không được coi trọng khác hẳn với ở nước ta. Sự khác
biệt về luật pháp này có lẽ do sự khác nhau giữa quan niệm đạo đức, giữa lối sống
đạo đức của người phương đơng với lối sống phóng khống của người phương tây.

BLDS của Cộng hoà Pháp dựa trên quan hệ huyết thống giữa người thừa kế
với người để lại di sản. Đầu tiên, “di sản được truyền cho những người có quan hệ
huyết thống ty thuộc không phân biệt độ tuổi, giới tính và khơng phụ thuộc vào hình
thức hơn nhân của cha, mẹ”21. Theo đó thì vợ chồng của người chết không nằm trong
hàng thừa kế nào. “Vợ, chồng chỉ được hưởng di sản của nhau khi một bên chết trước
trong trường hợp khơng có thân thuộc của người chết trước”22.
Pháp luật thừa kế của Thái Lan cũng không quy định vợ chồng của người để
lại di sản trong bất kỳ một hàng thừa kế nào, phần di sản mà vợ chồng của người để
lại di sản được hưởng phụ thuộc vào hàng và các bậc thừa kế theo quan hệ huyết
thống nội tộc của người để lại di sản23.

Xem Điều 754 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp được trích dẫn từ Phạm Văn Tuyết – Lê Kim Giang (2015),
Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, trang 289
21

Xem Điều 765 Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp được trích dẫn từ Phạm Văn Tuyết – Lê Kim Giang (2015),
Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, trang 289
22

Xem Điều 1635 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan được trích dẫn từ Phạm Văn Tuyết – Lê Kim Giang
(2015), Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, trang 289
23


19

Pháp luật về thừa kế của nước ta thì quy định dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết
thống và nuôi dưỡng để xác định ba hàng thừa kế. Theo các quy định tại khoản 1
Điều 65124 của BLDS 2015 thì quan hệ thừa kế giữa những người trong cùng một
hàng thừa kế được xác định như sau:

Hàng thừa kế thứ nhất:
+ Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và
chồng thì phải căn cứ vào quan hệ hôn nhân. “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng
sau khi đã kết hơn”25. Bên cạnh đó thì “Kết hơn là việc nam và nữ xác lập quan hệ
vợ chồng với nhau theo quy định của luật hơn nhân và gia đình về điều kiện kết hơn
và đăng ký kết hơn”26. Chính vì vậy mà khi một bên chết đi thì vợ, chồng được thừa
kế di sản của nhau nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan hệ hôn nhân của họ về mặt
pháp lý vẫn còn tồn tại.
+ Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Căn cứ vào quan hệ huyết thống thì
những người này có cùng dịng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Căn
cứ vào quan hệ ni dưỡng thì đó là quan hệ giữa người nuôi dưỡng lẫn nhau. Cha
mẹ nuôi cũng là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con ni khi người
con ni đó chết và ngược lại.
Hàng thừa kế thứ hai
+ Quan hệ giữa ông bà với cháu: Quan hệ này chỉ dựa vào quan hệ huyết thống
mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Ông bà nội của một người là người đã sinh
ra cha đẻ của người đó, ơng bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của
người đó. Trường hợp ơng bà nội, ơng bà ngoại cịn sống vào thời điểm người cháu
của mình chết thì sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người
đó, và bên cạnh đó chỉ có cháu ruột mới được thừa kế di sản của ông bà ở hàng thừa
kế thứ hai.
+ Quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chị ruột với em ruột: Đây là quan hệ thừa kế
được hình thành theo căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống. Trong quan hệ này nếu
anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột sẽ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ
Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; Hàng thừa kế
thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.”

24

25

Xem khoản 1 Điều 3 Luật hơn nhân và Gia đình 2014

26

Xem khoản 5 Điều 3 Luật hơn nhân và Gia đình 2014


20

hai để hưởng di sản của anh, chị đã chết. Ngược lại nếu em chết thì anh, chị sẽ là
người ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của người em đã chết.
Hàng thừa kế thứ ba
+ Quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt: Các cụ của một người là những người đã
sinh ra ông nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại của người đó, người đó là chắt của các
cụ. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt cũng giống căn cứ để xác
định quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu.
+ Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột với cháu
ruột: Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của một người là anh ruột, chị ruột,
em ruột của cha đẻ hoặc của mẹ đẻ người đó. Đây là những người có quyền hưởng di
sản của chú, bác, cơ, dì, cậu ruột nếu còn sống là những người thừa kế ở hàng thứ ba
của cháu và ngược lại nếu cô, dì, chú, bác, cậu ruột chết thì cháu là người thừa kế ở
hàng thứ ba của người chết.
-

Thừa kế thế vị


Khái niệm: Thừa kế thế vị là trường hợp thừa kế đặc biệt. Do vậy những người
thừa kế thế vị cũng rất đặc biệt. Khi xét về hàng thừa kế thì họ khơng được hưởng di
sản nhưng họ được nhận thay cho cha, mẹ của họ (là những người đáng ra được hưởng
thừa kế nếu còn sống). Thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà
không phát sinh từ thừa kế theo di chúc. Nếu người chết có để lại di chúc định đoạt
khối tài sản thì nếu như cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ơng bà hoặc
cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha mẹ sẽ vô hiệu và phần tài sản được định
đoạt đó sẽ được chia theo pháp luật và lúc này (cháu) chắt mới được hưởng thừa kế
thế vị. Ngoài ra những người thừa kế thế vị sẽ không được hưởng di sản nếu họ từ
chối nhận di sản hoặc bị truất quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
Thừa kế thế vị chỉ đặt ra khi thoả mãn những điều kiện sau:
+ Những người thừa kế phải có quan hệ thừa kế thứ hai trong hàng thừa kế thứ
nhất (quan hệ thừa kế giữa cha mẹ, con), trong đó người thế vị phải là người ở đời
sau. Nghĩa là chỉ có con được thế vị cha mẹ mà không bao giờ có trường hợp cha, mẹ
thế vị cho con. Người được hưởng thừa kế thế vị có thể là con đẻ hoặc con nuôi.
+ Thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người thừa kế chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người để lại di sản.
+ Người thế vị phải còn sống vào thời điểm người được thế vị chết hoặc nếu
sinh ra và còn sống sau thời điểm người được thế vị chết thì phải thành thai trước thời
điểm người được thế vị chết.


×