Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

skknvatly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. lý do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Phần 1: Cơ sở lí luận Phần 2: Thực trạng đề tài Phần 3: Giải pháp thực hiện I. Tiến trình tổ chức một giờ dạy học hiệu quả. 1. Chuẩn bị 2. Tiến trình tổ chức giờ học lý thuyết. 3. Tiến trình tổ chức tiết dạy bài tập II. Phương pháp học tập môn Vật Lý có hiệu quả.. Trang 2 3 3 3 3 4 4 5 6 7 7 8 14 15. 1. Trước hết, cần xây dựng cho bản thân lòng yêu thích môn học 15 - có yêu thích mới có hứng thú trong học tập. 2. Rèn luyện cho bản thân một trí nhớ tốt vì có như thế chúng ta mới nắm bắt được bài mới ở lớp cũng như các kiến thức đã học trước đó.. 15. 3. Luôn tìm tòi mở rộng kiến thức. 15. 4. Phần lý thuyết. 16. 5. Phần bài tập. 17. 6. Ôn tập:. 18. Phần 4: Kiểm nghiệm C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT TÀI LIỆU THAM KHẢO. 19 20 21. A. ĐẶT VẤN ĐỀ.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Dạy học là một công việc đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo, phải luôn trau dồi và tiếp thu những kiến thức mới, những phương pháp mới cho phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực mới của xã hội. Dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trung tâm là bản chất của đổi mới phương pháp dạy học, qua đó rèn luyện cho học sinh sự tự tin, phát huy tính độc lập, tự chủ và quan trọng nhất là rèn luyện tư duy sáng tạo, tích cực trong quá trình học. Người học được đặt trước không phải những bài giảng, những kiến thức có sẵn mà là những vấn đề, những tình huống của thực tế cuộc sống. Người học phải được rèn luyện cách tự lực giải quyết vấn đề, tự tìm ra cái chưa biết, tự tìm ra chân lý, còn người dạy chủ yếu dạy cách tìm ra chân lý chứ không phải là chỉ biết truyền đạt chân lý. Vật lý là một môn khoa học thực nghiệm, nghiên cứu những hiện tượng xảy ra trong đời sống có nhiều ứng dụng trong thực tế cuộc sống hằng ngày, hỗ trợ đa số nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt của con người. Hơn nữa, nó còn giúp cho con người hiểu biết thêm về vũ trụ vốn nhiều bí ẩn. Vật lý trong nhà trường THPT là một môn học lý thú, tuy nhiên đối với một số không ít học sinh, nhất là học sinh miền núi, môn Lý đựơc đánh giá là rất khó để học tốt. Vậy làm thế nào để dạy và học Vật Lý có hiệu quả đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay là một câu hỏi thường trực đối với mỗi giáo viên yêu nghề có tâm huyết nghề nghiệp. Với kinh nghiệm giảng dạy của mình trong những năm qua và thông qua các tiết dự giờ dạy nhiều đồng nghiệp, tôi nhận thấy: Việc quan trọng nhất trong quá trình dạy học là làm thế nào để học sinh cảm thấy hứng thú, say mê trong học tập. Cũng như các môn học khác, môn Vật lý hiện nay vẫn thực hiện tốt việc vận dụng phương pháp dạy học hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn bằng nhiều hình thức và nhiều phương pháp khác.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> nhau. Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi đã lựa chọn và phối hợp một số phương pháp góp phần đem lại kết quả cao hơn .Chính vì vậy, tôi đã chọn và triển khai nghiên cứu đề tài : “Lựa chọn va phối hợp một số phương pháp dạy học tạo hứng thú học tập cho học sinh ở một số bai trong chương Động lực học chất điểm”. Hi vọng đề tài này góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng học môn Vật Lý hiện nay. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.. Tạo ra sự hứng thú cho học sinh trong học tập đồng thời giúp các em đạt được kết quả cao trong các kỳ thi. Rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu, giảm bớt áp lực bộ môn cho học sinh. Rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.. Các tiết dạy trên lớp, tiết dự giờ đồng nghiệp, tiết dạy bồi dưỡng, phụ đạo môn Vật Lý. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.. Xác định đối tượng học sinh áp dụng đề tài. Đưa ra các phương pháp dạy và phối hợp hiệu quả giữa các phương pháp giúp học sinh có hứng thú học tập và đạt kết quả tốt. Đánh giá, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.. Nghiên cứu lý thuyết. Áp dụng vào thực tiễn giảng dạy. Thống kê. Tổng kết kinh nghiệm. Kiểm tra sự tiếp thu của học sinh bằng các phiếu bài tập, phiếu thăm dò. Kết quả các bài kiểm tra..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Phần1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Cơ sở lý luận a. Khái niệm hứng thú và hứng thú học tập. Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Từ khái niệm về hứng thú ta có thể suy ra được định nghĩa của hứng thú học tập: hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân. b. Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và hoạt động học: Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông theo luật giáo dục là: Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo ở học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Bốn định hướng này liên quan chặt chẽ, trong đó định hướng đầu tiên là căn bản. Để dạy và học Vật lý có hiệu quả, học sinh lĩnh hội được tri thức một cách tốt nhất cần hướng học sinh vào “hoạt động tích cực”. Trong quá trình dạy học, để phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh thì giáo viên thường quan tâm đến nhân tố “ hứng thú” vì: - Nó có thể hình thành ở học sinh một cách nhanh chóng và bất cứ lúc nào trong quá trình dạy học. - Điều quan trọng hơn cả là nó nằm trong tầm tay của người giáo viên. Giáo viên có thể điều khiển hứng thú học tập của học sinh qua các yếu tố của quá trình dạy học như: Nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức; qua các bước lên lớp: mở bài, giảng bài mới, củng cố bài, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ thầy trò,… - Về phía học sinh vai trò hứng thú đối với kiến thức giữ vị trí quan trọng trong việc làm cho các em tích cực học tập. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học va vấn đề lựa chọn phối hợp các phương pháp dạy học. Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú học tập. Không có phương nào là vạn năng, một nội dung kiến thức hay một bài học không chỉ sử dụng một phương pháp đơn nhất mà ta luôn phải sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp. Một bài giảng đạt kết quả tốt hay không phụ thuộc rất nhiều yếu tố lựa chọn và kết hợp các phương pháp dạy học của giáo viên..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Việc lựa chọn và kết hợp các phương pháp tốt, hài hòa, linh hoạt sẽ tác động trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. Các điều kiện cần khi lựa chọn va kết hợp các phương pháp Phù hợp với mục đích của việc dạy học và nội dung kiến thức bài học cụ thể: dạy kiến thức mới hay rèn luyện kĩ năng, dạy khái niệm hay định luật, … Phù hợp với đối tượng giáo viên và học sinh: trình độ và kinh nghiệm của giáo viên, khả năng riêng của từng giáo viên. Trình độ của học sinh, khả năng làm việc và thái độ làm việc của học sinh,… Phù hợp với phương tiện và thiết bị dạy học với tình hình kinh tế và cơ sở vật chất của trường. Tuân theo nguyên tắc: phát huy tối đa tính tích cực của học sinh và tạo điều kiện cho học sinh làm việc càng nhiều càng tốt. Học sinh không nhàm chán mà được lôi cuốn vào việc tìm ra kiến thức mới. 2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm qua các Thầy, Cô dạy bộ môn Vật lí của trường THPT Bá Thước 3 rất cố gắng, nổ lực giảng dạy để đạt được kết quả cao. Thế nhưng kết quả học tập của học sinh còn thấp. Nhiều giáo viên cảm thấy lúng túng khi sử dụng và phối hợp các phương pháp giảng dạy đặc thù bộ môn Vật lý sao cho linh hoạt, hợp lý có hiệu quả, lôi cuốn học sinh tích cực, tự lực, chủ động tham gia vào quá trình học tập. Đại bộ phận học sinh yếu toán, kiến thức cơ bản ở các lớp dưới bị hỏng, khả năng tiếp thu chậm, hoặc không biết phải học như thế nào,...dẫn đến các em mất dần hứng thú học tập, nên lười học, ngại học, hoặc học một cách thụ động, đối phó, dẫn đến kết quả học tập rất thấp. Vì vậy phải xây dựng “biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh” là rất cần thiết. Phần2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI 1. Thực trạng giáo viên Qua các tiết dạy trên lớp và thông qua dự giờ đồng nghiệp ở trường THPT Bá Thước 3 tôi nhận thấy đại bộ phận các thầy cô còn có những hạn chế sau đây dẫn tới chúng ta không thể thực hiện một giờ lên lớp thành công:.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Thứ 1: Giờ dạy không thành công, giáo viên liền biện hộ là do ý thức học tập của học sinh chưa tốt, các em nói chuyện riêng, không chú ý, mà không suy nghĩ và cần phải tìm hiểu xem mình đã làm như thế nào, đã có những biện pháp hiệu quả nào, để tổ chức giờ dạy có hiệu quả lôi cuốn các em tham gia vào hoạt động học tập. Thứ 2: Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực (có giáo viên còn cho rằng học sinh quá yếu không biết trả lời câu hỏi giáo viên đưa ra, giáo viên đặt câu hỏi rồi lại tự trả lời nên lâu dần không muốn đặt câu hỏi nữa), kết quả là ít có sự tương tác giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu học thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm ở cấp độ cao dẫn đến hậu quả là học sinh học hời hợt, học đối phó. Thứ 3: Dẫn dắt vào bài có thể có cũng được, không có cũng được. Đa số các thầy cô còn coi nhẹ việc đặt vấn đề vào bài mới dẫn đến hậu quả, học sinh không biết qua buổi học này giúp các em giải quyết vấn đề gì thì các em sẽ không bao giờ có thể tập trung, hứng thú học tập. Thứ 4: Một bộ phận thầy cô giáo cho mình luôn đúng, hoàn hảo trước học sinh nên chỉ có mình đúng còn học sinh có thể đúng hoặc có thể sai. Chính vì nhận thức như vậy mà khi các em trả lời chưa đúng các thầy cô kết luận “sai rồi”, thậm chí các em đang trả lời thì chen ngang hoặc lạnh lùng yêu cầu các em ngồi ngay xuống. Điều đó như một gáo nước lạnh dội vào niềm tin bản vào thân các em làm cho các em mất dần hứng thú học tập. Thứ 5: Nội dung kiến thức trình bày phải chính xác. Kết quả dẫn tới những đòi hỏi cứng nhắc. Có rất nhiều thầy cô khi dạy học sinh, đòi hỏi các em nhớ đầy đủ, chính xác nội dung kiến thức trong vở, trong SGK. Như vậy giáo viên sẽ không tự tin, không thể hiện được nhiệt huyết của mình do không thoát ly được giáo án và dẫn tới giờ học diễn ra nặng nề. Thứ 6: Nội dung kiến thức cần phải cung cấp đầy đủ. Cho đến thời điểm bây giờ còn rất nhiều thầy cô có suy nghĩ này. Họ nghĩ trong 45 phút đó cần phải làm sao cung cấp đầy đủ các nội dung kiến thức của bài, trong khi những nội dung đó đã có trong sách, cố gắng hoàn thành bài giảng dưới dạng tròn vai mà.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> không chú tâm đến các biện pháp giúp tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học. Kết quả thầy ở trên cứ nói, cứ đọc, cứ chép những cái đã có trong SGK còn học sinh ở dưới cũng cố gắng làm sao chép cho kịp. Thứ 7: Lấy kiến thức, hiểu biết của mình làm thước đo đánh giá học sinh. Đây chính là một tư duy, hành động mang tính cảm tính, rất dễ mắc phải của người giáo viên. Kết quả là việc chấm điểm, đánh giá, công nhận khả năng của các em chưa được chính xác, khách quan, chưa động viên kịp thời. Thứ 8: Khi dạy chương II “Động Lực Học Chất Điểm” hầu hết các giáo viên sử dụng phương pháp dạy chủ yếu là truyền thụ một chiều, trong đó hình thức chủ yếu vẫn là thông báo, giảng giải nhấn mạnh nội dung quan trọng để học sinh ghi nhớ mà chưa chú ý các hoạt động dạy học đặc trưng bộ môn: ít sử dụng phương tiện trực quan, thí nghiệm, thực hành, chưa có sự phối hợp linh hoạt giữa các phương pháp, ít đặt câu hỏi phát vấn để học sinh tham gia vào xây dựng các khái niệm, định luật, đại lượng mới. 2. Thực trạng của học sinh * Tình hình học tập của học sinh Đối học sinh miền núi nói chung và học sinh trường Bá Thước 3 nói riêng các em rất khó tiếp cận với phương pháp học mới, ý thức tự học, tự tìm tòi nghiên cứu rất hạn chế, cộng với các em yếu toán, hỏng kiến thức cơ bản ở các lớp dưới nên dẫn tới lười học, ngại học và kết quả học tập rất thấp. Học sinh vẫn còn quen với phương pháp truyền thống: “Thầy đọc, trò chép”. Tính nhút nhát, khiêm tốn thái quá đã làm cho đa số học sinh sợ sai, không dám phát biểu ý kiến trước lớp. Phần đa học sinh rất ít phát biểu ý kiến xây dựng bài, hầu như không tham gia vào quá trình nghiên cứu, xây dựng bài mới. Một số học sinh không chịu tư duy, không chịu suy nghĩ khi học trên lớp, về nhà không chịu làm bài tập hay chỉ làm đối phó (sao chép sách giải), và còn ỷ lại vào học sinh khá, giỏi. Học sinh không được hoặc ít được quan sát cũng như tham gia tiến hành các thí nghiệm trong quá trình học trên lớp nên không có hứng thú trong học tập dẫn đến không hiểu bài, hoặc hiểu bài một cách hời hợt, không chắc chắn. * Những khó khăn phổ biến dẫn đến sai lầm trong nhận thức của học sinh khi học chương “ Động Lực Học Chất Điểm” Chương này gồm nhiều kiến thức về các lực cơ học, mà lực là đại lượng véc tơ, có điểm đặt, phương, chiều và độ lớn nên đòi hỏi học sinh phải nắm thật chắc chắn các kiến thức đặc trưng của từng lực cơ học mới có khả năng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> suy luận tổng hợp và giải quyết các vấn đề trong chương đặt ra, hay giải quyết các bài tập tổng hợp. Khi học trong chương này, học sinh hay nhầm lẫn giữa đại lượng véc tơ lực và độ lớn của lực, khó khăn trong việc xác định hay biểu diễn phương chiều của các lực cơ học nên lúng túng khi vẽ hình và chiếu lên các trục tọa độ để xác định độ lớn của các lực. Phần 3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN I. Một số phương pháp giúp học sinh THPT có hứng thú học tập Muốn nâng cao hứng thú trước hết phải hình thành, giáo dục động cơ học tập, nhu cầu học tập đúng đắn. Động cơ học tập tốt không tự dưng có mà cần phải được xây dựng, hình thành trong quá trình học sinh đi sâu chiếm lĩnh tri thức với sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Động cơ học tập là muôn hình muôn vẻ, muốn phát động động cơ học tập đúng đắn, động cơ chiếm lĩnh tri thức thì trước hết cần phải khơi dậy ở các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập vì nhu cầu chính là nơi khơi nguồn của tính tự giác, tính tích cực học tập. Mặt khác, hành vi của con người phụ thuộc vào nhiều khả năng khách quan, nhất là ở những học sinh có nhân cách chưa hình thành ổn định, chưa có mục đích sống chủ đạo, cho nên môi trường khách quan cần có những điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm cho hứng thú phát triển: thư viện phong phú các đầu sách, phòng thí nghiệm, thực hành đầy đủ, những kỳ vọng, sự động viên của thầy cô và gia đình. Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự ảnh hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên cần không ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến thức môn học đối với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ môn, tăng cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi giờ học, nắm vững lý thuyết, luôn có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Cần có những bài giảng nêu vấn đề, những giờ thảo luận trên lớp, những trò chơi mang tính chất giáo dục để kích thích hứng thú học tập cho các em. Quá trình kích thích hứng thú không chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> trong suốt quá trình. Do đó, trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra các hoàn cảnh nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí tuệ. Trong giảng dạy, giáo viên cần chỉ ra được cái mới, cái phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, tính chất sáng tạo và triển vọng trong hoạt động học tập để tạo ra hứng thú vững chắc cho học sinh trong quá trình học tập. Về phía nhà trường, thường xuyên tổ chức các hoạt động học tập, sinh hoạt mang tính tập thể. Điều đó sẽ kích thích sự hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức các buổi ngoại khóa, trò chuyện, giao lưu giữa thầy cô – học sinh, học sinh – học sinh nhằm khắc phục những khó khăn gặp phải trong quá trình học tập. Từ đó, tìm thấy tiếng nói chung, sự đồng thuận giữa các học sinh để các em cùng giúp nhau học tốt hơn. I. Tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học Việc tạo sự hứng thú trong giờ học có vai trò khá quan trọng, nó giúp cho học sinh cảm thấy yêu thích môn học hơn từ đó chủ động lĩnh hội kiến thức sẽ đạt hiệu quả hơn. Thông qua những bài dạy cụ thể của mình, kết hợp với dự giờ dạy của đồng nghiệp và tham khảo một số tài liệu sau đây tôi xin trình bày một số biện pháp tổ chức một giờ dạy học có hiệu quả tạo hứng thú học tập cho học sinh: * Chuẩn bị kiến thức, kĩ năng dạy học Ngoài việc khắc phục các hạn chế của người giáo viên nêu ra ở trên thì chúng ta cần rèn cho mình khả năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng xác định nội dung cần triển khai, khả năng diễn đạt hài hòa giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ cơ thể để cuốn hút học sinh, để mình có một phong thái giảng dạy thật tự tin, thật giàu nhiệt huyết như: - Đặt ra mục tiêu bài học thật rõ ràng: Mục tiêu chính là kết quả sau khi kết thúc bài học, học sinh cần nhớ, cần hiểu và cần vận dụng được những gì. Giáo viên cần thuộc lòng mục tiêu bài dạy trước khi lên lớp. - Luôn chủ động linh hoạt tìm mạch lôgich để làm cho bài giảng được hay, hấp dẫn, lôgich, không quá phụ thuộc vào sách giáo khoa. - Lựa chọn và cung cấp lượng kiến thức phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của học sinh: Trên cơ sở mục tiêu bài soạn, giáo viên nên lựa chọn những vấn đề kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh, không quá nặng nề phức tạp. - Trong mỗi giờ học sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy: Có nhiều phương pháp trong giảng dạy môn Vật lý như thuyết trình, phát vấn, tổ chức.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> thảo luận nhóm, tổ chức làm việc cá nhân, trực quan (Thí nghiệm, khai thác phương tiện dạy học),... Giáo viên cần căn cứ vào nội dung kiến thức và đối tượng học sinh để lựa chọn các phương pháp phù hợp trong giờ dạy. Những nội dung này cần được thể hiện thật cụ thể trong giáo án. Trong mỗi giờ học phải sử dụng từ 2 đến 3 phương pháp trở lên để tránh sự nhàm chán, đồng thời tạo hứng thú, phát huy tốt tính tích cực của học sinh. *Kiểm tra kiến thức cũ – mới: Gọi học sinh lên bảng trả lời lồng ghép kiểm tra vở ghi, vở soạn và vở bài tập, các học sinh bên dưới nhận xét, bổ sung hoặc cũng có thể lồng ghép kiểm tra lượng kiến thức cũ trong quá trình dạy bài mới để tránh sự căng thẳng, nặng nề cho học sinh trong đầu tiết học làm giảm hiệu quả học tập của học sinh trong giờ học. *Đặt vấn đề. Đây là hoạt động thường tiến hành ở đầu bài học hoặc ở đầu mỗi phần trong bài. Hoạt động này có tác dụng tập trung sự chú ý của học sinh vào nội dung mà giáo viên sắp trình bày. Để hoạt động này tiến hành có hiệu quả thì cần phải làm cho học sinh cảm thấy tò mò về vấn đề mà giáo viên sắp trình bày. Muốn vậy vấn đề mà giáo viên dẫn dắt phải mới, lạ và hứng thú đối với học sinh. Dưới đây là một số cách dẫn dắt vào vấn đề mà giáo viên có thể tiến hành: - Nêu một tình huống thực tế có liên quan đến bài học. Khẳng định học sinh sẽ giải thích được hiện tượng nếu như học xong bài học. - Đặt một câu hỏi thực tế liên quan đến bài mà học sinh chưa trả lời được (tình huống mới lạ). - Làm một thí nghiệm mà kết quả có một điểm mới, lạ đối với học sinh. - Kể một câu chuyện có liên quan đến bài học.... *Tổ chức học bai mới: - Đặt câu hỏi gợi mở, điều khiển sự trả lời của học sinh. Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống các câu hỏi sẽ khơi dậy hứng thú, sự tò mò tìm hiểu về bài học, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở thành chủ động nắm kiến thức của bài, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều. Hệ thống câu hỏi phải được giáo viên suy nghĩ, lựa chọn phù hợp với từng bài, từng lớp, từng đối tượng học sinh làm cho bài giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó tạo được hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi,.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> cân chỉnh, rút kinh nghiệm qua soạn bài, qua sự thể hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác. Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết, vừa đủ, có chất lượng, có tác dụng thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, tạo ra cho học sinh hứng thú học tập, kích thích tư duy của học sinh khám phá kiến thức. Khi các em phát biểu cần tuyệt đối tôn trọng các em, không chen ngang, sửa ngang. Sau khi trả lời xong, giáo viên đóng vai trò như trọng tài, gợi mở những chỗ chưa chính xác để các học sinh khác cùng suy nghĩ tìm ra câu trả lời. - Tạo điều kiện cho học sinh được làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm: trong quá trình học sinh tự làm hoặc quan sát, dự đoán, phân tích, lí giải thí nghiệm học sinh sẽ tự xây dựng và chiếm lĩnh kiến thức cho mình đồng thời tăng thêm sự hứng thú đối với môn học - Sử dụng các quá trình mô phỏng bằng hình ảnh, video, phần mềm, trình chiếu. Nếu giáo viên khai thác tốt (kết hợp với kĩ thuật thuyết trình và phát vấn) và sử dụng hợp lí (vừa mức, không sa đà) thì hiệu quả giờ học sẽ rất cao đồng thời học sinh sẽ rất hứng thú. - Trong quá trình giảng dạy sử dụng ngôn từ tự nhiên, sinh động, không khô khan, cứng nhắc, không quá nhiều thuật ngữ phức tạp, khó hiểu (có thể thay thế bằng từ hoặc cụm từ khác dễ hiểu hơn miễn là chính xác). - Khen ngợi học sinh đúng lúc và đúng chỗ (sau khi học sinh trả lời câu hỏi, có thể cho điểm thưởng). Tuyệt đối không mạt sát xúc phạm học sinh. - Kể thêm các câu chuyện bên ngoài có liên quan đến nội dung bài học như chuyện về các danh nhân, lịch sử phát minh, hiện tượng thực tế … - Tổ chức nhiều hoạt động học tập mới lạ dạng học mà chơi như mô phỏng các trò chơi trên truyền hình. - Hài hước và tế nhị trong nhắc nhở học sinh. - Khuyến khích học sinh nêu câu hỏi để hỏi lẫn nhau hoặc hỏi ngược lại giáo viên (có thể thưởng điểm nếu câu hỏi hay). Các hoạt động gây hứng thú cho học sinh có thể tiến hành vào đầu buổi hoặc song song cùng các hoạt động khác trong suốt cả buổi học. Vấn đề quan trọng nhất là tạo được sự hứng thú cao đối với học sinh. Những hoạt động trên cần được kết hợp với nhau một cách khéo léo và hợp lí sao cho hiệu quả giờ dạy đạt tốt nhất. II. Nội dung kiến thức trong chương II: Động Lực học chất điểm 1. Nội dung va phân phối chương trình.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Theo phân phối chương trình Vật lý 10 cơ bản, chương này gồm 11 tiết trong đó: Lý thuyết: 8 tiết, bài tập: 1 tiết; thực hành: 2 tiết. Nội dung các tiết như sau: - Tổng hợp và phân tích lực. Điều kiện cân bằng chất điểm. - Ba định luật Niu Tơn. - Lực hấp dẫn. Định luật vạn vật hấp dẫn. - Lực đàn hồi của lò xo. Định luật Húc. - Lực ma sát. - Lực hướng tâm. - Bài toán về chuyển động ném ngang - Thực hành: Đo hệ số ma sát. 2. Phương án dạy học tạo hứng thú cho học sinh khi học một số bai chương Động Lực Học Chất Điểm. Ví dụ 1. Đối với bai Ba định luật Niutơn 2.1 Mục tiêu dạy học a. Kiến thức - Học sinh phát biểu được: Định luật I, II và III Niu Tơn. - Viết được công thức của: Định luật I, II và III Niu Tơn. - Nắm được ý nghĩa của: Định luật I, II và III Niu Tơn. - Định nghĩa khối lượng và các tính chất của khối lượng. b. Kỹ năng - Vận dụng định luật I và II Niu Tơn, khái niệm quán tính và các định nghĩa khối lượng để giải thích một số hiện tượng vật lý đơn giản. - Phân biệt được khái niệm; Lực và Phản lực, phân biệt được cặp lực này với cặp lực cân bằng. - Chỉ ra được lực và phản lực trong các ví dụ cụ thể. - Vận dụng được định luật I, II và III Niu Tơn để giải các bài toán liên quan. c. Thái độ - Yêu khoa học, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng trong thực tế. 2.2 Phương pháp dạy học Đàm thoại tìm tòi, thí nghiệm biểu diễn, diễn giảng , sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. 2.3 Sơ đồ logic tiến trình xây dựng kiến thức theo hướng sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú học tập để tíc cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. 2.4 Tiến trình hoạt động dạy học cụ thể * Kiểm tra bai cũ : GV(giáo viên) : Đặt ra một tình huống có vấn đề : Đặt một quyển sách trên bàn. Hỏi cả lớp? Tại sao quyển sách không chuyển động ? → Trả Lời: Do quyển sách chịu tác dụng của hai lực cân bằng là lực hút của Trái đất và phản lực của mặt bàn..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> GV :? Lực là gì? Lực gây ảnh hưởng gì đối với vật bị tác dụng? → HS (học sinh): Đưa ra định nghĩa lực. GV : Nhận xét, đánh giá, hoàn thiện, bổ sung câu trả lời của học sinh. * Đặt vấn đề vao bai mới Nhắc lại định nghĩa lực. ? Lực có cần thiết để duy trì chuyển động của một vật hay không ? Để trả lời chính xác được câu hỏi này, hôm nay chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu bài 10 : Ba định luật Niu Tơn. GV : Ghi đề bài : Bài 10 : Ba Định Luật Niu Tơn GV : Trình bày những nội dung cơ bản sẽ nghiên cứu trong bài. I. Định luật I Niu Tơn Phối hợp các phương pháp : Trực quan, đàm thoại tìm tòi, diễn giải, nêu và giải quyết vấn đề. GV : Dẫn dắt, trình bày vấn đề như sách giáo khoa. Thí nghiệm lịch sử Ga-li-lê GV : Trình chiếu thí nghiệm Ga-li-lê → Yêu cầu HS : Quan sát thí nghiệm và đưa ra nhận xét. Câu hỏi 1. Nhận xét quãng đường hòn bi lăn được trên máng nghiêng 2 (độ cao) khi thay đổi độ nghiêng của máng? Xác định các lực tác dụng lên hòn bi khi máng 2 nằm ngang? Giải thích kết quả thí nghiệm: Tại sao viên bi dừng lại? Câu hỏi 2. Trình bày dự đoán của Galilê. Như vậy nếu bỏ qua lực ma sát thì dự đoán hòn bi sẽ chuyển động như thế nào? GV : Làm thí nghiệm thực biểu diễn (tự tạo) : Một máng nghiêng bằng gỗ, dưới máng ngang là những miếng gỗ có độ nhẵn khác nhau và cho viên bi lăn từ máng nghiêng xuống. HS quan sát và thấy được máng ngang càng nhẵn thì quãng đường bi lăn được càng dài. Câu hỏi 3. Trên mặt phẳng nằm ngang, nếu không có lực ma sát thì viên bi chịu tác dụng của những lực nào ? Câu hỏi 4. Vật sẽ ở trạng thái nào nếu chịu tác dụng hai lực cân bằng ? Từ thí nghiệm và các câu hỏi gợi ý của giáo viên học sinh tìm được kiến thức mới đó là: Dưới tác dụng của hai lực cân bằng, một vật đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng yên, đang chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động thẳng đều. GV diễn giảng và thông báo kết quả nghiên cứu của Nuitơn sau đó đưa ra nội dung định luật I Niu Tơn. GV : Lấy ví dụ thực tế minh họa, vận dụng cho học sinh làm bài tập 7 trong sách giáo khoa để khắc sâu kiến thức. GV : Nêu vấn đề : Chuyển động thẳng đều được nói đến trong định luật I Niu Tơn được gọi là chuyển động theo quán tính.GV: ? Vậy quán tính là gì ? Điều gì chứng tỏ mọi vật có quán tính ? HS trả lời và nắm được khái niệm quán tính. GV lấy một số ví dụ: Đặt câu hỏi Vì sao: + Xe đạp vẫn còn lăn được một quãng đường nữa mặc dù ta đã ngừng đạp? + Khi nhảy từ bậc cao xuống, ta phải gập chân lại ?.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> + Một ô tô đang chạy, nếu đột nhiên xe dừng lại thì hành khách bị ngả về phía trước ? (Video mô phỏng). Nếu đột nhiên xe rẽ sang trái thì hành khách bị ngả sang phải ? + Buộc một hòn đá vào đầu một sợ dây rồi quay tròn, khi dây bị đứt, hòn đá văng ra theo phương tiếp tuyến, tức là theo phương và chiều của vận tốc?. HS : Trả lời câu hỏi thực tế GV đưa ra. → Trường hợp câu trả lời chưa chính xác GV gợi ý, nêu thêm câu hỏi gợi mở để học sinh khác tham gia trả lời. GV : Nêu lại câu hỏi đặt vấn đề vào bài? Lực có cần thiết để duy trì chuyển động của một vật hay không ? HS : Trả lời : Lực không phải là nguyên nhân của chuyển động mà chỉ là nguyên nhân của biến đổi chuyển động, do vậy khi một vật đang chuyển động nếu không có lực tác dụng thì vật đó vẫn sẽ tiếp tục chuyển động. II. Định luật II Niu Tơn Phối hợp các phương pháp : Trực quan, đàm thoại tìm tòi, diễn giải, thảo luận nhóm. * Đặt vấn đề: Ví dụ 1 : Có một chiếc xe đẩy chở đầy lúa trên đường. Để chở lúa về nhà, xe chuyển động như thế nào trong trường hợp ít người và nhiều người đẩy ? → HS trả lời : xe chuyển động chậm khi có ít người đẩy và xe chuyển động nhanh khi có nhiều người đẩy. GV : Diễn giải: Cùng một xe lúa, nếu ít người đẩy thì lực tác dụng lên xe nhỏ gây ra cho xe một gia tốc nhỏ nên xe chuyển động chậm, nhưng khi có nhiều người đẩy thì hợp lực tác dụng vào xe sẽ lớn hơn nhiều gây ra cho xe một gia tốc lớn hơn nên xe chuyển động nhanh hơn. GV : Nêu ví dụ thứ 2: Cũng chiếc xe lúa, nếu dùng lực kéo như nhau thì xe không có lúa và xe chở đầy lúa sẽ chuyển động như thế nào? GV : Diễn giải : Phân tích lại ví dụ và kết luận : khối lượng của vật cũng ảnh hưởng đến gia tốc của nó. Cùng chung một lực, vật nào có khối lượng nhỏ hơn sẽ thu được gia tốc lớn hơn và đi nhanh hơn. → HS trả lời : ...chiếc xe không sẽ chuyển động nhanh hơn. GV : Nêu vấn đề : Vậy giữa lực, khối lượng và gia tốc có mối quan hệ với nhau như thế nào ? Chúng ta chuyển sang nghiên cứu phần II. Định luật II Niu Tơn. 1. Định luật II Niu Tơn GV Làm thí nghiệm: Dùng một lực không đổi tác dụng lên 2 vật có khối lượng khác nhau (sử dụng thiết bị để tạo ra lực không đổi)..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> GV: Chiếu thí nghiệm mô phỏng:. Yêu cầu học sinh quan sát trong 2 trường hợp khối lượng của vật nhỏ hơn và trường hợp khối lượng của vật lớn hơn sau đó đặt hệ thống câu hỏi đàm thoại tìm tòi. Câu hỏi 1. So sánh gia tốc vật thu được trong 2 trường hợp? Vì sao? ( câu hỏi tìm tòi cho học sinh khá giỏi). Trường hợp nếu học sinh chưa tìm ra được câu trả lời giáo viên tiếp tục nêu câu hỏi gợi ý: Câu hỏi 2. Khảo sát trong cùng khoảng thời gian, vận tốc của vật trong trường hợp nào biến đổi nhanh hơn? Câu hỏi 3. Vận tốc của vật biến đổi nhanh hơn thì gia tốc vật thu được thế nào? Từ thí nghiệm và các câu hỏi gợi ý của giáo viên học sinh tìm được kiến thức mới đó là: Nếu cùng một lực tác dụng vật nào có khối lượng lớn sẽ thu gia tốc nhỏ hơn và ngược lại. GV tiếp tục làm thí nghiệm với hai vật giống nhau và tác dụng vào 2 lực khác nhau. GV chiếu thí nghiệm mô phỏng:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Câu hỏi 4. Trong 2 trường hợp trường hợp nào vật thu gia tốc lớn hơn? ( học sinh sẽ trả lời được là trường hợp lực tác dụng vào vật lớn hơn vật sẽ thu gia tốc lớn hơn vì ở phần 1 đã có câu hỏi gọi ý về sự thay đổi vận tốc của vật trong 2 trường hợp). Câu hỏi 5. Qua kết quả nghiên cứu các em hãy phát biểu mối liên hệ giữa độ lớn gia tốc mà vật thu được với độ lớn của lực tác dụng vào vật, mối liên hệ giữa độ lớn gia tốc vật thu được và khối lượng của vật? GV diễn giảng và thông báo kết quả nghiên cứu của Nuitơn sau đó đưa ra nội dung định luật II( cả hướng và độ lớn của gia tốc). GV ? Có cách nào kiểm tra tính đúng đắn của định luật này? HS: Thảo luận nhóm và nêu phương án thí nghiệm: Tác dụng một lực như nhau vào 2 vật có khối lượng khác nhau. Đo quãng đường đi được và thời gian đi hết quãng đường đó, tính gia tốc và so sánh hai kết quả. Câu hỏi 6. Nếu nhiều lực cùng gây ra gia tốc cho một vật thì biểu thức định luật II được viết lại thế nào? Sau khi học sinh nắm vững kiến thức GV nêu cho học sinh một bài tập định tính, một bài tập định lượng để học sinh vận dụng. Phần này cho học sinh thảo luận nhóm. III. Định luật III Niu Tơn Phối hợp các phương pháp : Trực quan, đàm thoại tìm tòi, diễn giải. Giáo viên nêu một số thí dụ, chiếu thí nghiệm và hình ảnh mô phỏng : Bắn viên bi A vào viên bi B đang đứng yên :.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hai người trượt băng đang đứng sát nhau:. 5.2 Khi dạy về định luật III Newton: có thể đưa ra một câu đố như sau: Cho học sinh đứng thẳng, không được co chân, đố học sinh nào có thể bật nhảy được.. Phần 4. KIỂM NGHIỆM. Với ý thức vừa nghiên cứu tình hình học tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm. Ngay từ đầu học kỳ 2 tôi đã định hướng cho mình một kế hoạch và để chủ động điều tra tình hình học tập của học sinh do lớp mình phụ trách cùng vơid việc vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã đạt được một số kết quả khả quan: - Số học sinh hứng thú học tập tăng lên, hầu hết cả làm đều tập trung vào bài học và tích cực xây dựng bài. - Nhiều học sinh đã xây dựng được cho bản thân phương pháp học tập hiệu quả. Kết quả cụ thể: Năm học 2012 - 2013 * Kỳ I: Khi chưa áp dụng triễn khai đề tài Lớp Sĩ số Giỏi (%) Khá (%) Trung bình ( %) Yếu (%) 12A1 46 2 4,4 15 32,5 27 58,7 2 4,4 12A2 45 1 2,2 6 13,3 34 75,6 4 8,9 10A3 35 0 0,0 10 28,6 19 54,3 6 17,1 * Kỳ II: Triễn khai áp dụng đề tài.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Lớp 12A1 12A2 10A3. Sĩ số 46 45 35. Giỏi (%) 4 8,7 4 8,9 4 11,4. Khá (%) 28 60,9 26 57,8 15 42,9. Trung bình ( %) 14 30,4 15 33,3 15 42,9. Yếu (%) 0 0,0 0 0,0 1 2,8.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận Để dạy và học Vật lý có hiệu quả, ngoài khả năng truyền thụ kiến thức, người thầy cần phải có kĩ năng, kỹ xảo riêng nhằm kích thích tính hiếu học bộ môn Vật lý ở học sinh. Muốn thế, người thầy phải thực sự là người chủ đạo, học sinh phải thực sự là người chủ động trong tiết học nhằm tăng cường hoạt động tư duy tích cực ở học sinh. Mỗi giáo viên phải biết kết hợp một cách tổng hợp và linh hoạt các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn Vật lý, phân loại và lựa chọn được phương pháp tốt nhất để học sinh dễ hiểu và phù hợp với trình độ của từng học sinh, phù hợp với xu thế kiểm tra, đánh giá, với các kĩ thuật thiết kế tổ chức hoạt động dạy học, có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi và phải mềm dẻo linh hoạt giải quyết các tình huống xảy ra,... Qua giảng dạy tôi thấy đề tài đạt được một số kết quả sau: - Bản thân tôi đã nắm được các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn Vật Lý, biết cách khai thác và sử dụng phương pháp đó sao cho có hiệu quả nhất phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình giảng dạy, kích thích tính tích cực, tự lực học sinh tham gia vào quá trình học tập. - Đã trang bị cho học sinh phương pháp học có hiệu quả nhất phù hợp với đặc thù học sinh miền núi. - Rèn luyện cho học sinh kĩ năng và tiến trình giải các bài tập Vật Lý. - Nội dung đề tài thiết thực đối với giáo viên và học sinh không những môn Vật Lý mà cũng có thể áp dụng cho các môn học khác. Do thời gian có hạn nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong được sự góp ý của quý thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và để được áp dụng thực hiện trong những năm học tới rộng rãi hơn. 2. Đề xuất 2.1. Đối với nhà trường Nhà trường trang bị thêm các sách tài liệu cho thư viện để giáo viên và học sinh tham khảo. Tổ chức các buổi trao đổi, thảo luận về phương pháp dạy học. 2.2. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Tổ chức các chuyên đề, hội thảo để giáo viên có điều kiện trao đổi và học tập chuyên môn - nghiệp vụ. Bá Thước, ngày 6 tháng 5 năm 2013 Người viết Trịnh Thị Vân.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO [ 1 ] . Người dịch Nguyễn Hồng Vân, Các phương pháp dạy học hiệu quả,. NXB Giáo dục Việt Nam. [ 2 ] . Ngô Quang Sơn, Trần Văn Vượng; Đổi mới phương pháp dạy học phù. hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh dân tộc; NXB Giáo dục Việt Nam. [ 3 ] . Nguyễn Đức Thâm, Phương pháp dạy học Vật Lý ở trường Phổ Thông,. NXB Đại Học Sư Phạm. [ 4 ] . Dạy và học ngày nay. Tạp chí trung ương hội khuyến học Việt Nam. [ 5 ] . Phạm Hữu Tòng, Dạy học Vật Lí ở trường phổ thông theo định hướng. phát triển hoạt động tích cực, tự chủ, sáng tạo, tư duy khoa học, NXB Đại Học Sư Phạm..

<span class='text_page_counter'>(22)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×