Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Giáo trình Mỹ thuật học (Ngành: Hội họa) - Trường Cao đẳng Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 39 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRỪỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI

GIÁO TRÌNH NỘI BỘ
MƠN HỌC: MĨ THUẬT HỌC
NGÀNH/CHUN NGÀNH: HỘI HỌA

Lưu hành nội bộ
Năm 2019

1


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình trên các nguồn thơng tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

2


LỜI NĨI ĐẦU
Mơn Mỹ thuật học bao gồm hầu hết mọi lĩnh vực tri thức mỹ thuật. Nó cung cấp
những hiểu biết tối thiểu về toàn bộ mỹ thuật từ các bộ môn (hội hoạ, đồ hoạ, điêu
khắc...), các loại hình mỹ thuật và các chất liệu mỹ thuật.
Thời Cổ đại, người ta chia nghệ thuật ra làm bảy loại hình nghệ thuật tự do (artes
liberales) là: trivium (3 con đường) bao gồm: Văn phạm, Logic, Hùng biện; và
quadrivium (4 con đường) bao gồm: Số học (lý thuyết về các con số), Hình học (các con
số trong khơng gian), Âm nhạc (các con số trong thời gian), và Thiên văn học (các con
số trong không gian và thời gian). Mẹ của cả 7 nghệ thuật đó là Triết học. Các nghệ


thuật mang tính kỹ thuật như kiến trúc, nơng nghiệp, hội họa, điêu khắc, và các nghề thủ
công khác được xếp ở hàng thấp hơn.
Cái Đẹp thường được đưa ra như một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nghệ
thuật. Tuy nhiên, định nghĩa được cái Đẹp cịn khó hơn định nghĩa được Nghệ thuật, vì
cái Đẹp phụ thuộc vào văn hóa và thời gian nhiều hơn.
Một phần vơ cùng quan trọng và phong phú của văn minh nhân loại nói chung
và mỗi dân tộc nói riêng chính là mỹ thuật, sản phẩm đẹp được tạo nên bởi con người
Các nhà kinh điển (Các Mác) cho rằng do tiến hóa xã hội, muốn thưởng thức nghệ thuật
phải được giáo dục về nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải biết cách dùng con mắt mình
để nhìn cái đẹp trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống, đó chính là mục đích của Mỹ
thuật học
Lào cai, năm 2019
Người biên soạn
Hà Thị Minh Chính

3


MỤC LỤC

Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật ......................... 6
1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc ................... 12
1.4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa ........................... 15
Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa ........................... 16
2. Thể loại và chất liệu hội họa ............................... 16
2.1. Thể loại hội họa.................................... 16
2.1.1. Khái niệm .................................... 16
2.1.2. Các thể loại hội họa .............................. 16
2.2. Chất liệu hội họa ................................... 23
Chương 3: Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa ..................... 29

3. Thể loại và chất liệu điêu khắc, đồ họa......................... 29
3.1. Thể loại điêu khắc .................................. 29
3.2. Chất liệu điêu khắc .................................. 29
3.3. Thể loại đồ họa .................................... 30
3.4. Chất liệu đồ họa ................................... 32
Chương 4: Phân tích tác phẩm ................................. 35
4. Phân tích tác phẩm .................................... 35
4.1. Khái niệm ....................................... 35
4.2. Những kiến thức liên quan tới phân tích tác phẩm ............... 35
4.2.1. Kiến thức về nội dung và hình thức nghệ thuật .............. 35
4.2.2. Kiến thức về đặc trưng ngơn ngữ mĩ thuật ................. 36
4.3. Quy trình viết phân tích tác phẩm ......................... 36
4.3.1. Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm định phân tích .......... 36
4.3.2. Phân tích tác phẩm ............................... 37

4


GIÁO TRÌNH MƠN HỌC
Tên mơn học: Mỹ thuật học
Vị trí, tính chất của mơn học:
- Vị trí: Thực hiện trước hoặc song song với các mơn chun ngành.
- Tính chất: Môn học cơ sở ngành.
Mục tiêu môn học:
- Về kiến thức:
+ Học sinh trình bày được những kiến thức về ngôn ngữ mỹ thuật, thể loại, chất liệu hội họa,
điêu khắc...
+ Phân tích được tác phẩm mỹ thuật.
- Về kỹ năng:
+ Có khả năng nghiên cứu tài liệu, giáo trình tự học.

+ Biết đọc, phân tích tác phẩm hội họa.
+ Sử dụng ngôn ngữ của mỹ thuật để sáng tác tác phẩm.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Tham gia tích cực vào các giờ giảng
+ Thể hiện năng lực tự học

5


Chương 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật
Giới thiệu:
Các kiến thức về ngơn ngữ mĩ thuật có thể áp dụng hàng ngày, giúp ta hiểu sâu
thêm các giai đoạn, các trường phái, các trào lưu, các tác giả trong lịch sử mỹ thuật. Khi
thưởng thức một tác phẩm chúng ta có thể phân tích, bình luận theo cảm nhận cá nhân.
Một số kiến thức có thể được ứng dụng cụ thể khi sáng tác, cân nhắc về cách chọn bố
cục, chọn gam màu, xử lý nét, mảng, nhịp điệu…
Mục tiêu:
+ Trình bày được đặc trưng ngơn ngữ hội họa.
+ Phân biệt được sự đồng nhất và khác biệt giữa ngôn ngữ Hội họa, Điêu khắc và Đồ
họa.
+ Biết được sự biểu hiện của ngôn ngữ mỹ thuật thông qua việc phân tích một số tác
phẩm Hội họa, Điêu khắc và Đồ họa.
Nội dung chương:
1. Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật
1.1. Kênh thơng tin thị giác
Có 5 loại giác quan:
Thị giác

: mắt


Thính giác : tai
Khứu giác : mũi
Xúc giác : da
Vị giác

: lưỡi

Cảm giác sinh ra do thông tin được truyền qua các giác quan này về não bộ để
nhận biết, xử lý và lưu giữ
Trong ngũ quan, con mắt là ngũ quan số một, nó ưu việt về nhiều mặt, 90% thông
tin ta thu nhận được là nhờ thị giác. Thị giác là mảnh đất ưu việt cho bộ môn mỹ thuật
đồng thời là cơ sở của tất cả những bộ mơn nghệ thuật khác, của tư duy hình tượng.
1.2. Các yếu tố ngơn ngữ tạo hình
Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân
tách vai trị quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm
Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên
đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không
bắt buộc phải liên tục.
Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp
thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác
nhau.
Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó
có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh khơng có đường

6


nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vơ hình là đường nét chính) cho
người xem.
Đưịng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp

điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên
và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày khơng thay đổi từ ngàn
xưa.
Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với
đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn,
là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự
sống động và hỗn loạn.
Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét
và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng khơng có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục
bằng hai cách:
Bố cục cân đối
Bố cục không cân đối
Bố cục cân đối
Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai
bên một điểm hoặc một cái trục nhất định.
Nghệ Thuật : Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước,
về tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy
với tồn cục. Kết quả là một tổng hợp điều hịa tẻ nhạt về hình thức mà những tương
xứng phối hợp lại một cách đều đặn.
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để
khai diễn những đề tài tơn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng.
Người ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách
bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì
nó sẽ có sự linh động phần nào trong tồn thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy
nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển.
Bố cục không cân đối
Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khống của nghệ sĩ. Nó khơng
có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả.

Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép
phối cảnh.
Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó
làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh.
Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không
cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì

7


những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà
mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì
dùng đường nét chỉ là đường nét mà khơng là nghệ thuật.
Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái.
Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng
hay là trong khơng gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác.
Nhưng phần nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự khơng cân
đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v...
Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng
nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ
đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở
giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.)
Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn
đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì
để chân trời ở 1/3 dưới, cịn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất
thì để đường chân trời ở 1/3 trên.
Sự gợi cảm bằng đường nét
Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn:
Ta phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp

dụng những quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục :
Đường ngang
Đường dọc
Đường chéo
Đường cong
Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy
theo chủ đề của ảnh.
Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung
cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của
những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Khơng phải
chỉ có hội họa mà cịn cái gì do người tạo ra đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hàhọc vì nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vơ tình chúng
ta đã tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng ta
bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là
ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chuông
cao vút với vẻ uy nghi.

8


Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của ảnh với sự truyền
cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.
Ngôn ngữ rung cảm của đường nét :
Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ
ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đơi khi cái cảm tưởng đó vượt
khỏi tầm phân tách của ta.
Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên cứu kỹ
càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta cũng
có thể áp dụng nó được.

Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với
nghị lực và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong khơng có được , vì nó chỉ có
thể gợi cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra
đều đặn, quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc khơng thể có được. Đường gẫy khúc
khi cứ kéo dài mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động.
Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó
và cách xếp đặt. Ai lại khơng biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu
lộ sự lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng
trang nghiêm, cao quý.
Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển trải rộng
mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao vút của
ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây.
Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và
giảm bới đi khi có những đường nghịch với nó.
Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những
cảm giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh.
Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều và giống như cảm tưởng phát
sinh bởi cái ngắn của đường dọc.
Góc cạnh càng mở rộng cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của
đường ngang.
Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài,,
bền bỉ, vững vàng. Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp
với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh
sẽ thoảng thấy như đường dọc. Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy như đường
ngang.
Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào đó những
đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng.
Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thốt ra, sự vơ tận. Tùy theo vị trí của
điểm tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu.


9


Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn,
sự khơng thăng bằng, sự hằng hà sa số. Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng ra,
là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành. Nếu nó được phân chia đều đặn, nó cho ta cảm
giác vững vàng.
Đường cong cũng khơng có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng
thấy những đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới
động vật lúc cịn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong
đậm tính chất uy nghi gần nghĩa điều hịa khi nó mơ tả đạn đạo vịng cầu.
Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần
trong bố cục. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều trường hợp nếu thiếu nó thì bố
cục khơng thành.

Hình: 1.1

Hình 1.2.

Hình: 1.5

Hình 1.3

Hình 1.6

10

Hình 1.4

Hình 1.7



Hình 1.8

Hình 1.9

11


1.3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc
Ngôn ngữ điêu khắc
Khái niệm:
Nói tới Điêu khắc là nói tới đục dẽo, khắc, chạm trên bề mặt của các vật cứng
hay tạc, đổ, đắp, nặn bằng các vật liệu khác nhau để tạo ra hình khối. Các bề mặt vật
liệu như: đá gỗ, kim loại, thạch cao, chất dẻo… nhằm khắc họa cuộc sống, mang đến
cho người thưởng thức những tư tưởng, tình cảm, những cảm xúc nhất định.
Nghệ thuật điêu khắc tạo hình bằng cách phối hợp các hình khối trong khơng
gian, qua đó nhà điêu khắc biểu hiện những ý tưởng nghệ thuật của mình. Tác phẩm
điêu khắc mang những đặc trưng khác với các loại hình nghệ thuật khác. Nó tồn tại như
một vật thể có trọng lượng, khối, có thể tích và chiếm lĩnh khơng gian. Ngơn ngữ của
điêu khắc chính là hình khối, màu sắc, đường nét.
Khối:
Khái niệm về khối bao gồm ba tương quan chủ yếu:
Sự chiếm chỗ trong khơng gian
Cảm giác về tính chất vật lý của chất liệu
Cảm giác về hình – như là một sự trừu tượng hóa khối lên một bề mặt
Nếu ngơn ngữ của hội họa là hình khối, màu sắc, đường nét, là biểu hiện không
gian thực trên mặt phẳng hai chiều thì ngơn ngữ của điêu khắc là mảng khối, là quan hệ
của tác phẩm điêu khắc với không gian đa chiều xung quanh
Ngôn ngữ khối của điêu khắc được khai thác rất đa dạng ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Các nhà điêu khắc hiện đại không chỉ sử dụng trịn, chắc, đóng kín mà đi vào khai
thác những khối tương phản đối lập như khối lồi, lõm, đặc, thủng, khối đóng, khối mở…
việc kết hợp khối tương phản này đã tạo ra nhiều hiệu quả mới lạ và đầy biểu hiện đối
với thị giác
Khi ánh sáng chiếu vào một vật nào đó trong khơng gian sẽ giúp ta cảm nhận
được hình khối của vật đó. Khối lồi và khối lõm, sự tương phản về khối sẽ gợi ra những
cảm xúc thẩm mỹ khác nhau hoặc ngược chiều
Đường nét:
Trong điêu khắc, đường nét đôi khi được tạo nên chính bởi sự xử lý các khối.
Và một phần khác, chính các nghệ sĩ sử dụng nét để xử lý cùng đồng thời phối hợp hiệu
quả cùng với khối, hòa nhập ăn ý với nhau để tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm
Bề mặt tượng:
Bề mặt tượng cũng là một yếu tố ngôn ngữ. Khối không chỉ được cảm thụ ở sự
chiếm chỗ của nó trong khơng gian mà cịn cảm thụ cả tính vật chất của khối đó nữa.
Do con mắt làm được một phần chức năng của xúc giác nên tuy không sờ vào mặt tượng,
mắt ta vẫn có cảm giác về các tính chất của vật chất này.Bề mặt tượng và kết cấu tượng
cho một cảm giác cụ thể.

12


Bề mặt tượng có hai khía cạnh, một là nó đại diện mặt cắt trừu tượng của một
khối nào đó và hai là bề mặt tự nhiên do chất liệu sinh ra. Q trình gia cơng chất liệu
là biểu hiện vật chất cụ thể của quá trình sáng tác điêu khắc. Do vậy kết cấu bề mặt, tính
chất của chất liệu thể hiện qua bề mặt là một phần của ngôn ngữ khối, quan hệ của khối
với bề mặt của nó là khơng thể tách rời
Vẻ đẹp chuẩn mực, thánh thần của tượng “Người ném đĩa” hay “Vệ nữ Milô”
hay phù điêu Pác-tê-nông… của điêu khắc Hy Lạp cổ điển có được một phần nhờ chất
nhẵn của đã cẩm thạch.
Chất đá xanh rắn với khối vuông vức, bề mặt nhẵn đanh lại là một phẩm chất của

điêu khắc Ai Cập.
Điêu khắc Ấn Độ, Chàm… ưa thích cái nóng ấm da thịt, ưa cái xốp, bắt nắng, bắt
sáng ấm áp của các loại đá cát.
Bề mặt tượng còn liên quan tới yếu tố đường nét trên tượng, như ta thường thấy
trong nhiều chùa, tượng Phật thường nhẵn láng kết hợp với đường nét mềm mại, thể
hiện sự nhu hòa, còn các vị La Hán thường thô nhám và khúc khuỷu, thể hiện sự khắc
khổ.
Không gian:
Điêu khắc là nghệ thuật chiếm chỗ trong không gian và kiến trúc là nghệ thuật
phân chia khơng gian trong các khối. Vậy nên cũng có thể coi khối và không gian là
một. Bản chất của khối là tạo không gian và bản chất của không gian là tạo khối. Khối
rỗng chứa trong lịng nó một phần khơng gian, khối đặc thì vật chất của khối chiếm phần
khơng gian ấy
Có ba loại khơng gian khối:
Khơng gian bao bọc lấy khối xung quanh bề mặt của tác phẩm, khối gây cảm
giác chiếm chỗ mạnh mẽ, chắc chắn.
Khối có sự len lỏi của khơng gian bên ngồi vào bên trong lịng nó. Sự chiếm chỗ
ít khẳng định hơn, giao lưu giữa khối và khơng gian vây quanh tích cực hơn.
Khối chính là khơng gian bên ngồi vào bên trong lịng nó.
Tác phẩm điêu khắc được gắn với khơng gian thực. Khơng gian đặt tượng cũng
góp một phần làm tăng giá trị cho tác phẩm điêu khắc. Nếu đặt đúng chỗ, đúng điều kiện
ánh sáng, đúng môi trường sẽ làm cho tác phẩm đẹp thêm lên, và ngược lại.
Trước khi làm một tác phẩm điêu khắc, ngoài việc suy nghĩ tìm ra cho tác phẩm
một cách thể hiện, thì việc tìm hiểu về mơi trường, nơi sẽ đặt tác phẩm cũng vơ cùng
quan trọng.
Tác phẩm điêu khắc có liên quan mật thiết với cảnh quan, mơi trường, kiến trúc.
Đó là mơi trường “sống” của một tác phẩm điêu khắc. Có được như vậy, nó mới phát
huy hết chức năng của mình.

13



Tính đa chiều của sự xử lý khối cũng tạo nên hiệu quả khi không gian và khối
tượng sẽ tạo những đường hướng phong phú, nhà điêu khắc phải nghĩ tới ánh sáng, mơi
trường xung quanh.
Tuy nhiên có những vị trí đặt tượng mà khơng cần phải xử lý ở nhiều đầy đủ các
hướng mà tập trung giải quyết ở hướng chính, hướng quan trọng nhất, tuy nhiên vẫn
ln phải đảm bảo sự phụ trợ xử lý khối thành công ở các hướng phụ.
→ KL: Việc giải quyết không gian tượng đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Các
hướng đi của người xem được xem xét như một yếu tố biểu đạt. Những khối tượng được
tính tốn các hướng nhìn, tầm nhìn chính phụ khác nhau. Mặt chính, hướng chính, khơng
gian tiếp cận chính được ưu tiên và nhấn mạnh. Chủ đề tượng cũng như nghệ thuật thể
hiện ở hướng chính cũng là trọng tâm về nội dung và hình thức tác phẩm.
Thưởng thức:
Khi thưởng thức một tác phẩm điêu khắc, người xem không chỉ được thỏa mãn
một giác quan thị giác mà cịn có thể cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan khác. Người
thưởng thức có thể cảm nhận được sự mềm, lạnh, trơn nhẵn của đá; sự thô ráp, rắn chắc
của xi măng, sự ấm áp, sự thô mộc của gỗ… Như vậy, với tác phẩm điêu khắc, nhất là
tượng trịn, ta có thể đi xung quanh ngắm nhìn, thưởng thức vẻ đẹp của pho tượng, có
thể sờ mó để cảm nhận xúc cảm thẩm mỹ đưa lại từ chất liệu.

Hình: 1.10

14


Hình: 1.11
1.4. Đặc trưng ngơn ngữ đồ họa
Đường nét, chấm, vạch
Trong hội họa, đường và nét luôn đi song hành với nhau, đường chỉ ra một hướng,

đường làm nên nét, tập hợp của nhiều đường đơn lẻ tạo ra nét vẽ và ngược lại, sự tập
hợp củ nhiều né vẽ cũng tạo ra đường hướng nhất định trong tranh. Cũng tương tự như
vậy, đồ họa sử dụng đường nét, chấm, vạch là ngơn ngữ chính, chủ yếu và cơ bản để thể
hiện. Trong một số tác phẩm yếu tố mảng à màu trở thành thứ yếu, đường và nét trở
thành cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tạo nên đường viên, tạo hình cho tác phẩm.
Mảng, màu
Song song với các đường nét, chấm vạch đồ họa còn dùng mảng màu. Các mảng trong
đồ họa có khi do đường nét bao quanh mà thành, có khi do tập hợp củ nhiều chấm, nhiều
nét tạo nên. Mảng tạo cho hình vững chãi, tạo độ đậm nhạt, khả năng diễn tả nông sâu,
khả năng tạo khối. Màu và mảng góp phần tạo nên tiếng nói của tác phẩm với người
xem.

15


Chương 2: Thể loại và chất liệu hội họa
Giới thiệu:
Hội họa có những thể loại nào? Hội họa dùng những chất liệu gì để vẽ tranh? Lịch sử phát
triển của cá thể loại và chất liệu vẽ tranh như thế nào? Tất cả các yếu tố đó là nội dung của chương
2. Có những kiến thức về thể loại và chất liệu vẽ tranh sẽ giúp ta phân biệt rõ ràng các loại tranh,
hiểu sâu hơn về hội họa. Mặt khác, trong q trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm hộ họa, đây
cũng là những yếu tố quan trọng.
Mục tiêu:
+ Người học trình bày được khái niệm, phân biệt được các thể loại và chất liệu vẽ tranh.
+ Phân biệt được đặc điểm của từng thể loại hội họa.
Nội dung bài:
2. Thể loại và chất liệu hội họa
2.1. Thể loại hội họa
2.1.1. Khái niệm
Hội hoạ là loại hình nghệ thuật tạo hình, dựa vào nội dung, đề tài, tác phẩm thể

hiện mà phân chia thành những thể loại nhỏ hơn.
Bức tranh vẽ về con người và bộc lộ cá tính, tính cách, đặc điểm riêng về ngoại
hình, nội tâm… được gọi là tranh chân dung.
Tác phẩm vẽ về con người, nhưng những con người chung chung đặt trong các
sinh hoạt, hoạt động, công việc… lại được gọi là tranh sinh hoạt.
Ngồi ra, người ta cịn dựa vào đặc điểm, tính chất, hình thức thể loại hay khn
khổ của bức tranh mà Hội hoạ có thể phân chia thành các thể loại: Hội hoạ giá vẽ và
tranh tường (bích hoạ).
Ngồi hai cách phân chia trên, còn cách phân chia thể loại dựa vào đặc điểm địa lý
của từng quốc gia, từng khu vực (phương Đông, phương Tây…)
Ở đây xin tập trung tìm hiểu cách phân thể loại theo kiểu châu Âu (thể loại tranh
sinh hoạt, tranh chân dung, tranh lịch sử, tranh phong cảnh, tranh tĩnh vật).
2.1.2. Các thể loại hội họa
Tranh sinh hoạt
Khái niệm:
Tranh sinh hoạt là thể loại tranh diễn tả về những hoạt động trong cuộc sống của
con người diễn ra hàng ngày. Đề tài rất phong phú và đa dạng, tất cả mọi khía cạnh, mọi
hoạt động của của con người đều được khai thác và xây dựng thành tác phẩm.
Lịch sử và sự phân loại

16


Là thể loại tranh ra đời sớm nhất, ngay từ thời Ngun thuỷ, đã có rất nhiều bức
họa mơ tả các hoạt động trong đời sống hàng ngày của người nguyên thuỷ (săn thú, đánh
cá…)
Ở thời Cổ đại, tranh tường về đề tài sinh hoạt xuất hiện nhiều trong các lăng mộ,
đền thờ làm nhiệm vụ minh hoạ, tả, kể về cuộc sống lao động, các hoạt động tơn
giáo…(bích hoạ Ai Cập)
Lúc đầu tranh sinh hoạt chủ yếu tập trung vào đề tài cung đình và cuộc sống trong

cung đình.
Đến thế kỷ XVII, tại Hà Lan xuất hiện những tranh sinh hoạt của thị dân.
Nhưng đến thế kỷ XIX mới có những cảnh sinh hoạt giản dị đề cập đến mọi mặt
của đời sống thị dân (Cuốc-bê, Vec-me)
Bên cạnh những cảnh sinh hoạt của thị dân cịn có thể loại tranh mô tả những cảnh
sinh hoạt của thần thánh theo kiểu “thần nhân đồng hình”, đề tài được lấy từ nguồn
“Thần thoại Hy Lạp”… và xuất hiện nhiều nhất ở thời Phục Hưng (tranh minh hoạ).
Tranh sinh hoạt được chia thành các loại:
+ Tranh sinh hoạt hiên thực
+ Tranh sinh hoạt thần thánh
+ Tranh sinh hoạt tôn giáo
+ Tranh sinh hoạt lịch sử
Trong đó có thể thấy 3 mảng đề tài: Cung đình, thị dân và hiện thực.
Đặc điểm của tranh sinh hoạt
Tranh sinh hoạt thường mang tính chất mơ tả, diễn tả hiện thực thẩm mỹ đã làm
rung động cảm xúc của người hoạ sĩ
Tranh sinh hoạt mang đậm tính chân thực và sống động.

Hình: 2.1.

17


Những người thợ đập đá – Cuốc bê
Hình: 2.2
Thể loại tranh chân dung
Tranh chân dung có vị thế quan trọng và lâu đời trong lịch sử hội họa, trải qua thời
gian dài của lịch sử sáng tạo, tranh chân dung ln được các họa sĩ tìm tịi, thể nghiệm
và đã có nhiều kiệt tác nghệ thuật.
Tranh chân dung tự bản thân nó mang một cái nhìn về một con người cụ thể, sống

động. Tái hiện chân thực hình tượng nhân vật về diện mạo, về thần khí, về tính cách và
gắn kết nhân vật với cuộc sống hiện tại.
Khái niệm
Tranh chân dung là một thể loại căn bản của hội hoạ. Tranh thường vẽ một người
hay một nhóm người. Đối tượng của tranh chân dung là các nhân vật quan trọng, các
anh hùng, vĩ nhân, các nhà văn hoá, các nhà khoa học… mà hình ảnh của họ được giữ
gìn và lưu truyền cho đời sau..
Ngoài tranh chân dung về một con người hay một nhóm người cụ thể mà cịn có
loại tranh mang tính tiêu biểu cho một tầng lớp người nào đó trong xã hội, lý tưởng hoặc
bắt nguồn từ trí tưởng tượng nào đó của hoạ sĩ. Cũng có khi hoạ sĩ tự lấy hình ảnh của
mình để gửi gắm và bộc lộ những tâm tư tình cảm và những quan điểm sống – chân
dung tự hoạ.
Lịch sử phát triển và sự phân chia thể loại của tranh chân dung

18


Hình: 2.3
Thể loại tranh chân dung xuất hiện sớm, từ thời Cổ đại, trong các hầm mộ với
những bức chân dung sống động cực thực (quan niệm linh hồn người chết cần có ngơi
nhà để đi về).
Đến thế kỷ XV, giá trị của con người được đề cao (tư tưởng chủ đạo của nghệ
thuật PH-Lê, Mi, Ra…) tranh chân dung phát triển rực rỡ. Với những bức chân dung
Giáo hoàng, chân dung phụ nữ đến ngày nay vẫn nguyên giá trị.
Thế kỷ 17, xuất hiện những trường hoạ chân dung nổi tiếng ở Hà Lan và đại diện
tiêu biểu là Phờ-răng-xơ Han (Frans Hals), Rem-bờ-răng (Rembrandt), Giắc-cơ Lui Đavít (Jacques Louis David), Đơ-mi-níc-cơ Anh-grơ (Dominique Ingres).
Và có nhiều hoạ sĩ nổi tiếng với những bức chân dung tự hoạ như: Vangogh,
Gauguin, Rembrandt..
Ở Việt Nam
Tranh chân dung phát triển cùng các thể loại khác với các hoạ sĩ TNV, TVC,

Huỳnh Văn Gấm… tuy nhiên thì số lượng và chất lượng cịn hạn chế so với thế giới.
Phân chia
Có nhiều tiêu chí phân chia thể loại tranh chân dung. Ở đây, chúng ta sẽ chia các
thể loại tranh chân dung theo tiêu chí hiện thực, lý tưởng và chân dung tự hoạ.
Tranh chân dung hiện thực
Đặc tả về tâm lý, ngoại hình, tính cách, nội tâm sâu kín của nhân vật, người xem
có thể cảm nhận được tâm trạng, toan tính, suy tư… và những dấu ấn của từng chặng
đường trong cuộc đời một nhân vật có thật.

19


Với mục đích diễn tả cái đẹp, cái chân thực cụ thể của từng người, từng khuôn
mặt. Đồng thời qua vẻ đẹp ngoại hình bộc lộ được bản chất bên trong và lưu giữ được
hình ảnh một con người với đầy đủ dáng vẻ, diện mạo và tính cách của họ.
Bên cạnh đó cịn có loại tranh chân dung tập thể. Là tập hợp nhiều người được
sắp xếp bố cục rõ ràng nhưng phải mang đặc điểm riêng về chân dung và đặc điểm cụ
thể của từng cá nhân riêng biệt. (Tuần đếm, cịn có thể có những tác phẩm nào nữa?).
Tranh chân dung tự hoạ
Hầu hết các hoạ sĩ vẽ tranh chân dung đều có tranh tự hoạ. Tự họa là đối thoại,
là thơng qua hình ảnh của bản thân mình để bộc lộ những tình cảm, tâm trạng, là biểu
hiện thế giới quan của mình đối với thực tế, biểu hiện quan điểm sống… tất cả như một
bản tự sự của tác gải đối với người thưởng thức để khẳng định mình và như để được
chia sẻ và cảm thông.
Các họa sĩ vẽ chân dung tiêu biểu: Rembrandt, Vangogh, Picasso. Ở Việt Nam
có Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Phan Chánh...
Tranh chân dung lý tưởng
Là thể loại được xây dựng dựa trên những đặc điểm tiêu biểu, tượng trưng, mẫu
mực cho một kiểu, mẫu người nào đó trong xã hội.
Những hình thức biểu đạt của tranh chân dung

Chân dung chỉ diễn tả gương mặt
Chân dung bán thân: chú ý đến những đặc điểm chi tiết và những nét biểu hiện
tình cảm, cảm xúc, diễn bếin tâm lý của nhân vật.
Chân dung bán thân: biểu hiện nửa người, thêm phần tay – đơi bàn tay góp phần
quan trọng bộc lộ tính cách, cuộc sống và thần thái của nhân vật.
Chân dung toàn thân: cho người xem biết đặc điểm gương mặt, tình cảm, cá tính
và cịn biểu hiện dáng vẻ, hình ảnh hồn thiện của một con người, một nhóm người trong
những dáng động phong phú. Thường thì những chân dung loại này cịn kết hợp với
khơng gian thực, một số tuỳ thân, hoa hay các con thú nuôi như chó, mèo, chân dung
các q tộc, hồng thân thường được vẽ đang cưỡi ngựa với trang phục uy nghiêm.
Thể loại tranh lịch sử
Khái niệm
Là loại tranh phản ánh về lịch sử xã hội lồi người, có thể để cập đến một sự kiện
lịch sử, một nhân vật trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử nhân
loại, một giai đoạn cách mạng…
Đề tài lịch sử được quan tâm và đặc biệt coi trọng ở châu Âu trong nhiều thế kỷ,
từ Phục Hưng đến tận thế kỷ XIX và đề tài ưa thích là khơng khí hào hùng thời La Mã
cổ đại. Ngày nay thì dịng tranh này ít được ưa chuộng và kém phát triển so với các dòng
tranh khác.
Lịch sử phát triển của tranh lịch sử

20


- Thế kỷ XIII-XV có những tranh mang tính chất thần bí, tơn giáo, mà thời bấy giờ
người ta coi những nhân vật trong thần thoại hay tôn giáo là những nhân vật có thật, qua
những tác phẩm đó hướng con người thêm lòng tin vào Chúa và sự hiện diện của Chúa
cho nên có thể nói rằng thể loại tranh lịch sử xuất hiện tại thời điểm này.
- Thế kỷ XVII ở châu Âu xuất hiện những tầng lớp thị dân mới đang vươn lên thay
thế giai cấp phong kiến, nên hội hoạ cũng xuất hiện những tác phẩm ghi lại những nhân

vật, những sự kiện lịch sử đã và đang xảy ra.
- Các hoạ sĩ tiêu biểu của thế giới: Louis David, Rivera…
- Ở Việt Nam, những hoạ sĩ với những tác phẩm: Phạm Ngũ Lão – Thang Trần
Phềnh, Trận Tầm Vu - Nguyễn Hiêm, Xô viết Nghệ Tĩnh - Phạm Văn Đôn, Nguyễn Đức
Nùng, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận…
- Tranh lịch sử có thể phân chia thành 3 loại: Tranh lịch sử tôn giáo, thần thoại
Tranh lịch sử cách mạng, chiến trận
Tranh vẽ một nhân vật lịch sử
Đặc điểm, tính chất của tranh lịch sử
- Tác phẩm phản ánh một cách trung thành các sự kiện lịch sử, hoạ sĩ phải nghiên
cứu kỹ lịch sử, nghiên cứu kỹ các hình tượng nhân vật cụ thể cùng với thế giới quan của
giai cấp mình để phân tích, xây dựng hình tượng nhân vật.
- Hoạ sĩ phải chọn lọc những sự kiện điển hình, nổi bật, nêu lên được tầm khái quát
của lịch sử (bức tranh “Trao chìa khố thành Brêđa”).
- Tranh lịch sử có tác dụng nhắc nhở mọi người nhớ về truyền thống, trên cơ sở đó
khơi dậy niềm tin, lịng u nước, ni dưỡng nhiệt tình cách mạng, hiểu biết sâu hơn
về lịch sử dân tộc cũng như thế giới.
- Thể loại tranh này ln có mặt và đóng góp xứng đáng vào kho tàng chung của
hội họa những tác phẩm tồn tại vĩnh cửu cũng giống như sự tồn tại của lịch sử. Tranh
lịch sử là một thể loại cơ bản của Hội hoạ.
Thể loại tranh phong cảnh
Khái niệm
Phong cảnh là những cảnh tượng tự nhiên. Tranh phong cảnh là thể loại tranh lấy
thiên nhiên là đối tượng miêu tả chính.
Là thể loại tranh góp tiểng nói ca ngợi vẻ đẹp của quê hương xứ sở. Qua những
bức họa đó người nghệ sĩ gửi gắm lịng mjnhf, bộc lộ tình cảm, tình u của mình đói
với thiên nhiên đất nước.
Lịch sử phát triển
Thời kỳ Phục Hưng, tranh phong cảnh đã manh nha xuất hiện như những phông
nền cho những bức tranh sinh hoạt, tôn giáo hay chân dung.


21


Đến thế kỷ XVII, tranh phong cảnh thực sự trở thành một thể loại hội họa ở Hà
Lan. Các họa sĩ Hà Lan say mê vẽ phong cảnh như vẽ chân dung – đây chính là chân
dung của đất nước Hà Lan xinh đẹp. Các tên tuổi như: Vermeer, Jacob Van Ruidael.
Thế kỷ XVIII ở Pháp xuất hiện trường hoạ cảnh Bác-bi-dông với đề tài là những
phong cảnh lãng mạn.
Thế kỷ XIX, các hoạ sĩ đối diện với thiên nhiên, ghi lại những cảm xúc mãnh liệt
của mình trước tự nhiên bằng những nét bút ào ạt, mạnh mẽ.
Các tên tuổi: Poussin, Claude Lorrain, Jean-Baptiste-Cami Cozot, Jonh Constable,
Vangogh, Cezanne…
Các hoạ sĩ phương Đông lại diễn tả phong cảnh theo lối “gợi”, không gian ước lệ,
không bị ràng buộc bởi thực tế, cốt sao nêu được cái tinh thần của phong cảnh.
Trung Quốc và Nhật Bản thấm nhuần đạo lý, tính tượng trưng cao và có ý nghĩa
sâu sa. Thể loại tranh phong cảnh của Trung Quốc còn đề thơ, tranh và thơ hoà quyện
vào nhau thành một bố cục chặt chẽ. Trung quốc nổi tiếng với thể loại “sơn thuỷ’.
Ở Việt Nam, tranh phong cảnh cũng khá phát triển với các chất liệu Sơn dầu, Sơn
mài, Lụa…
Đặc điểm và sự phân loại
Đặc điểm
Diễn tả xuyên suốt, biểu hiện thiên nhiên ở mọi nơi, mọi lúc. Để diễn tả được
thiên nhiên địi hỏi người hoạ sĩ phải có con mắt quan sát tinh tường và một tâm hồn
nhạy cảm và một tình yêu thiên nhiên.
Tranh phong cảnh phản ánh chân thực các hiện tượng, cảnh tự nhiên, qua đó
chúng ta có thể cảm nhận được những địa điểm, địa danh của quê hương đất nước. Với
thể loại này, hoạ sĩ có thể tạo nên những kiến trúc cổ đại, những con người và những
con người và sự tích cổ… bên cạnh đó cịn kèm thêm yếu tố lịch sử vào tranh.
Hoạ sĩ tiêu biểu: Pút-sanh, lo-ranh, Lê-vi-tan, Vangogh. Ở Việt Nam với những

tên tuổi: Phan Kế An, Trần Đình Thọ, Lương Xuân Nhị…
Phân loại
Dựa vào nội dung diễn tả hoặc hình thức biểu đạt để phân loại tranh: phong cảnh
điểm người, phong cảnh nơng thơn, phong cảnh đơ thị…
Dựa vào hình thức có các thể loại: phong cảnh lịch sử, phong cảnh lãng mạn,
phong cảnh ấn tượng, phong cảnh lập thể…
Thể loại tranh Tĩnh vật
Khái niệm
Tranh tĩnh vật là tranh thể hiện những đồ vật: trái cây, bình, lọ…, các con vật đã
chết hoặc đã được nhồi bông… được ý thức sắp xếp trong một bố cục nhất định với
trạng thái tĩnh.

22


Tranh Tĩnh vật không đơn thuần là một thể loại tranh giải trí vơ hồn, thiếu sức sống
vì thơng qua tác phẩm, người nghệ sĩ đã gửi gắm tình cảm, tư tưởng và thái độ của mình
với cuộc sống, với quê hương, đât nước.
Lịch sử phát triển
Đến thế kỷ XVII, ở Hà Lan thể loại này mới thực sự trở thành một thể loại tranh
độc lập. Với tên tuổi: Ca-ra-va-giô, Empoli
Thế kỷ XVIII, với các tên tuổi như: Cezanne, Vanghogh, Gauguin…
Thế kỷ XIX với tên tuổi: Picasso,
Ở Việt Nam, nhiều thế hệ hoạ sĩ vẽ Tĩnh vật với những chất liệu phong phú: Phan
Kế An, Lương Xuân Nhị, Lê Huy Hoà, Nguyễn Tư Nghiêm…
Đặc điểm
Tranh Tĩnh vật cũng được coi là một thể loại nghệ thuật Salon, vì thể loại tranh
Tĩnh vật cùng với tranh Phong cảnh có ưu thế trang trí cao, nên được sử dụng nhiều
trong trang trí nội thất.
Là thể loại dễ xem, dễ cảm nhận nên được đơng đảo cơng chúng đón nhận nên

cơ hội phát triển cao cả về số lượng và chất lượng.
2.2. Chất liệu hội họa
Sơn dầu

Hình 2.4
Là một loại họa phẩm được làm từ sắc tố (pigment), thường dưới dạng bột khô
được nghiền kỹ với dầu lanh (cây gai), dầu cù túc hay dầu óc chó. Tuy nhiên, việc chế
màu địi hỏi phải có kiến thức chun mơn để tránh pha trộn, gây những phản ứng hóa
họcgiữa các chất màu bởi sắc tố có thể là ngun liệu khống, ngun liệu hữu cơ hoặc
nguyên liệu hóa học.

23


Sơn dầu khơng thấm nước, có độ dẻo và độ che phủ mạnh (dễ dàng phủ kín lớp
sơn khác ở dưới, trừ các màu có tính đặc biệt) và rất lâu khơ
Cũng có lúc người ta dùng từ "màu dầu" thay cho từ "sơn dầu" với ý định chỉ chất liệu
dùng trong tác phẩm.
Quá trình tìm ra sơn dầu
Từ xa xưa, khi bắt đầu biết vẽ, con người đã chủ ý tìm kiếm những chất liệu tốt
để vẽ và mong tranh có màu sắc đẹp bền vững. Ngay từ thời cổ đại, con người đã biết
dùng màu trộn với dầu để vẽ, nhưng chất liệu lúc này vẫn rất thô sơ, còn nhiều nhược
điểm và hạn chế. Trải qua thời gian, nhiều thế hệ họa sĩ đã dày cơng tìm tòi nguyên liệu,
mày mò tự chế ra sơn vẽ.
Nhưng phải đến thời anh em họa sĩ Jan van Ecyk (khoảng 1390-1441) họ mới có
thành cơng lớn trong việc hồn thiện và phát triển kỹ thuật vẽ chất liệu sơn dầu. Màu
sắc sơn dầu đến thời kỳ này đã trong trẻo tươi sáng hơn, có độ bóng đẹp, khơng thấm
nước, bền vững và chịu được thử thách của thời gian.
Từ đó, sơn dầu được sử dụng rộng rãi, được dùng phổ biến ở hầu hết các nước
trên thế giới. Có thể nói, việc hồn thiện chất liệu sơn dầu là một cuộc cách mạng kỹ

thuật lớn, làm chuyển biến và nâng cao nghệ thuật vẽ tranh.
Kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu
Có nhiều loại sơn dầu chất lượng màu cũng khác nhau: mỗi thứ đều có ưu điểm
và nhược điểm riêng. Các màu sơn được chế tạo bởi nguyên liệu khoáng chất thường
cho ta chất sơn tốt hơn cả.
Người vẽ cần có kiến thức về chất liệu sơn dầu thì tranh mới bảo tồn được lâu.
Ví dụ: nếu dùng sơn pha ít dầu quá thì dễ gây nứt rạn tranh,nếu pha nhiều dầu lanh thì
lâu khơ gây bất tiện khi chờ vẽ nhiều lớp, nếu dùng dầu lanh pha với màu sáng sẽ làm
màu ấy mau ngả vàng,...
Người sản xuất sơn dầu thường lập ra bảng phân loại hoặc dùng ký hiệu in trực
tiếp lên ống sơn để giới thiệu màu tốt hoặc màu kém cho người vẽ tiện dùng.
Sơn mài

Hình 2.5

24


Được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự tìm tịi và phát
triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ
thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài (tiếng Anh: lacquer) thường được hiểu
sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Kỹ thuật mài là điểm khác biệt
lớn giữa đồ thủ công sơn mỹ nghệ và tranh sơn mài Việt Nam.
Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn
then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ trai,
v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Đầu thập niên 1930, những họa sĩ Việt Nam đầu tiên học
tạit rường Mỹ thuật Đơng Dương đã tìm tòi phát hiện thêm các vật liệu màu khác như
vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo nên kỹ thuật sơn mài độc
đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài
cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa

sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng tranh.
Người ta thường lưu ý rằng sơn mài có những điểm "ngược đời": muốn lớp sơn
vừa vẽ khơ, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại
phải mài mịn đi mới thấy hình.
Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng: kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên
nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt được sau
khi mài tranh.
Các nguyên liệu sử dụng trang trí
Một sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu: đó là sơn, màu và các
nguyên liệu khác. Có thể kể ra đây một vài nguyên liệu phổ biến như:
Sơn: khai thác từ cây sơn ta, ngồi ra cịn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa thơng và nhựa
dó...
Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế
từ khống chất vơ cơ (ví dụ: son) nên khơng bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian.
Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm...
Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp...
Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp...
Ngày nay, người ta đã chế tạo thành cơng các loại sơn cơng nghiệp có thể thay
thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh
và màu sắc thì vơ cùng phong phú.
Các cơng đoạn chính của cơng nghệ sơn mài
Có thể nói cơng nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt trong kinh
nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình cũng như nó được biến đổi kỹ thuật
làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hồng kim... Có thể
chia làm một số cơng đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.

25



×