ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI
GIÁO TRÌNH NỘI BỘ
MƠN HỌC/MƠ ĐUN: BỐ CỤC CƠ BẢN
NGÀNH: HỘI HỌA
Lưu hành nội bộ
Năm 2017
1
1
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được phép dùng
ngun bản hoặc trích dùng cho các đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
2
1
LỜI GIỚI THIỆU
Trong các ngành nghệ thuật tạo hình như hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc… các nghệ
sĩ thường áp dụng những nguyên tắc bố cục để sắp xếp chủ thể vào đúng vị trí “hợp
nhãn” với người xem . Đây có thể gọi là nghệ thuật của thị giác.
Vậy nên đấy chính là lý do tơi quyết định viết cuốn giáo trình này để mọi người có
thể học và tham khảo. Trong quá trình viết giáo trình dưới sự chỉ đạo và quan tâm của ban
giám hiệu cũng như sự góp ý giúp đỡ và cung cấp tư liệu của các đồng nghiệp để tơi hồn
thành nhiệm vụ của mình. Xin chân thành cảm ơn!
Lào Cai, tháng năm 2017
Người biên soạn
Nguyễn Huy Hiệp
3
1
MỤC LỤC
Bố cục cơ bản ..................................................................................................................... 5
Bài 1: Những kiến thức chung về bố cục cơ bản .............................................................. 5
I. Lý thuyết về bố cục cơ bản ..................................................................................... 5
1. Bố cục trong hội họa ................................................................................................. 6
Bài 2: Bố cục các khối cơ bản và biến dạng ................................................................... 30
I. Lý thuyết về bố cục các khối cơ bản và biến dạng ............................................. 30
1. Khái niệm về khối cơ bản ....................................................................................... 30
2. Khái niệm khối biến dạng ....................................................................................... 31
3. Bố cục khối cơ bản và biến dạng ............................................................................ 31
II. Thực hành vẽ bố cục khối cơ bản và biến dạng ................................................... 31
III. Các lỗi thường gặp, nguyên nhân, cách khắc phục ............................................ 32
Bài 3: Bố cục tranh tĩnh vật đơn giản. ............................................................................ 33
I. Lý thuyết về bố cục trong tranh tĩnh vật đơn giản ................................................ 33
II. Thực hành vẽ bố cục tranh tĩnh vật đơn giản (CL Bột màu) ............................... 34
III. Các lỗi thường gặp, nguyên nhân, cách khắc phục ............................................ 35
Bài 4: Vẽ bố cục tranh phong cảnh góc hẹp ................................................................... 36
I. Lý thuyết về bố cục tranh phong cảnh góc hẹp ..................................................... 36
II. Thực hành vẽ bố cục tranh phong cảnh góc hẹp (CL Bột màu) .......................... 36
III. Các lỗi thường gặp, nguyên nhân, cách khắc phục ............................................ 37
Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 37
4
1
Tên môn học: Bố cục cơ bản
(Chất liệu Bột màu, KT 40x60cm)
Mã mơn học: MHT17
I. Vị trí, tính chất của mơn học
- Vị trí: Thực hiện tại kì I
- Tính chất: là môn học chuyên ngành
II. Mục tiêu môn học
Kết thúc môn học người học đạt được
- Về kiến thức
+ Người học trình bày được một số khái niệm chung về bố cục
+ Nêu được các bước xây dựng một bài bố cục khối cơ bản và khối biến dạng.
- Về kỹ năng
+ Vẽ được bố cục các khối cơ bản khối và biến dạng.
+ Vẽ được bố cục tranh tĩnh vật đơn giãn
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm
+ Tham gia tích cực vào các giờ giảng
+ Thể hiện năng lực tự học thông qua các bài học có nội dung tương tự
+ Trân trọng những kiến thức của bộ môn bố cục.
III. Nội dung môn học
Bố cục cơ bản
Bài 1: Những kiến thức chung về bố cục cơ bản
(Chất liệu Bột màu, KT 40x60cm)
A. Mục tiêu
Kết thúc bài học người học đạt được
- Về kiến thức
+ Người học trình bày được một số khái niệm cơ bản về bố cục
+ Trình bày được các bước xây dựng một bài bố cục
- Về kỹ năng
+ Vẽ được các dạng bố cục khối cơ bản, khối biến dạng và tĩnh vật đơn giãn
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm
+ Tham gia tích cực vào các giờ giảng
+ Thể hiện năng lực tự học thông qua sách báo, internet…
+ Thêm yêu quý các vật dụng xung quanh mình
B. Nội dung bài
I. Lý thuyết về bố cục cơ bản
Chữ bố cục mô tả việc sắp xếp các đối tượng và thành phần liên quan trong một không
gian, thời gian cụ thể, một đối tượng cụ thể để tạo nên sự thống nhất của chủ thể.
5
1
Như vậy, bố cục là một khái niệm rất rộng nó bào trùm tồn bộ tổng thể đời sống tự nhiên
và xã hội.
Trong hội họa nói chung, bố cục được xem như là tổng thiết kế cấu tứ và sắp xếp các yếu
tố thị giác. Bố cục bao hàm nhiều nhân tố đối lập cùng với những tác dụng tương hỗ, hình
và nền, sáng và tối, mặt phẳng và hình khối, góc nhìn và dẫn hướng, động thái và tĩnh
thái… Để có được một bố cục hợp lý, việc tổ chức sắp xếp các mảng chính phụ, mảng
trống,… có ý nghĩa hết sức quan trọng
1. Bố cục trong hội họa
Bố cục tạo hình là nghệ thuật sắp xếp các đường nét, hình, khối, màu sắc dưới sự
tác động của ánh sáng tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn và gây cảm xúc cho người
xem.
Những yếu tố quan trọng tạo nên tác phẩm có bố cục đẹp và hấp dẫn:
- Đáp ứng yêu cầu của việc sử dụng.
- Tính thẩm mỹ cao
- Sự tương quan tỷ lệ giữa các thành phần và bố cục.
- Sự tương quan và hòa hợp kể cả màu sắc.
- Nhịp điệu và sự cân bằng thị giác.
- Nhấn mạnh trọng tâm của tác phẩm.
Yêu cầu của bố cục tạo hình
Trong các trường đại học kiến trúc mỹ thuật, mơn bố cục tạo hình rất quan trọng, là
một môn nghệ thuật cơ sở giúp cho các sinh viên thiết kế nhà cửa, sáng tác các sản phẩm
mỹ thuật cơng nghiệp.
Bố cục tạo hình là mơn nghệ thuật có cơ sở rất quan trọng, giúp các sinh viên kiến
trúc căn bản vẽ, bố cục thiết kế cơng trình kiến trúc, quy hoạch đơ thị, trang trí nội ốc, tạo
dáng các sản phẩm mỹ thuật công nghiệp, vẽ kiểu thời trang, đồ họa…
- Thể hiện chính xác các nguyên tắc bố cục chặt chẽ giữa các bộ phận, gây được ấn tượng
mạnh theo dự định từ trước.
- Sự quan hệ hỗ tương hình học giữa các phần tử đảm bảo tạo dáng tồn hệ thống có hiệu
quả cao.
- Các thành tố của toàn hệ thống đủ bền vững (cả độ lớn hình học cũng xác định được)
- Tính kinh tế khi chế tạo và sử dụng tốt.
- Phù hợp với các tiêu chí phong cách của mỗi thời đại được thừa nhận.
1.1 Các dạng bố cục
Tùy từng ý đồ khác nhau mà người họa sĩ sẽ lựa chọn cách sắp xếp bố cục cho phù hợp.
a. Bố cục cân đối
6
1
Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai bên
một điểm hoặc một cái trục nhất định.
Nghệ Thuật : Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước, về tương
xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với tồn cục.
Kết quả là một tổng hợp điều hịa tẻ nhạt về hình thức mà những tương xứng phối hợp lại
một cách đều đặn.
( H1.1)
H1.1
Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để khai
diễn những đề tài tơn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người
ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v...
Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách bố cục
đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự
linh động phần nào trong tồn thể.
Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy nhiên
có khi người ta muốn tạo sự phá cách, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển.
b. Bố cục không cân đối
Bố cục khơng cân đối là nguồn cảm hứng phóng khống của nghệ sĩ. Nó khơng có
luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả. (H1.2)
7
1
H1.2
Với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép
phối cảnh. Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó
làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh. (H1.3)
H1.3
Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không
cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì
những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà
8
1
mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót. Đường nét là yếu tố sáng
tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét
mà khơng là nghệ thuật.
Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái.
Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng hay là trong
khơng gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác. Nhưng phần
nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự khơng cân đối của nó : G, Z,
J, C, S, U, L, I, v.v...( H1.4, H1.5, H1.6)
Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng
nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ
đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở giữa
tùy theo sự suy diễn của tác giả.)
Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn đặt
phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì để chân
trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường
chân trời ở 1/3 trên.
H1.4
H1.5
9
1
H1.6
1.2. Yếu tố cấu tạo bố cục
1.2.1. Ý tưởng
Nếu không có ý tưởng cho một bức tranh, tất cả những kỹ năng vẽ tranh sẽ trở nên
vơ dụng. Vậy thì phải tìm những ý tưởng đó ở đâu để bạn có thể sáng tạo và phát triển các
tác phẩm đặc trưng của riêng bạn đây là một số lựa chọn và cách thức mà người vẽ có thể
sử dụng.
Điều cốt lõi ở đây là cần phải có thời gian để trải nghiệm. Hãy là chính mình và chấp nhận
những sai sót của bản thân, phải đi đến tận cùng để biết được bạn có thể phát triển được
những gì sử dụng mỗi ý tưởng như là những điểm khởi đầu chứ không phải là điểm kết
thúc.
a. Liệt kê những lựa chọn, những điều thích hoặc khơng thích
Chúng ta khơng thể tìm ra ý tưởng cho một bức tranh nếu khơng có ý tưởng về
phong cách hay thể loại của bức tranh mà bạn hướng tới. Vì vậy, việc trước tiên để tìm ra
ý tưởng phác họa là bạn phải liệt kê ra một loạt các lựa chọn cân nhắc.
Ví như chủ đề, phong cách… từ đó hãy thu hẹp phạm vi lựa chọn của bạn. Ví dụ, bạn có
muốn vẽ người, phong cảnh hay vẽ trừu tượng không? Bạn muốn vẽ theo phong cách nào?
Chủ nghĩa hiện thực? Chủ nghĩa biểu hiện hay? Chủ nghĩa trừu tượng ? Bạn sẽ dung một
số màu nào đó hay dùng một màu chi phối?...Càng nhiều lựa chọn sẽ chỉ khiến ý tưởng bị
tê liệt vì vậy hãy thu hẹp danh sách lựa chọn của bạn về một hoặc hai phong cách tiêu biểu
nào đó và bắt đầu sáng tác.
b.Viết những ý tưởng lên giấy, một bản vẽ nháp hay sổ ghi chép
Không được nhầm lẫn hay rối loạn giữa những trang nháp được mô phỏng lại từ bản
vẽ nháp nơi thường được ghi chép chỉn chu với một bức phác họa hoàn hảo nhé. Bản vẽ
nháp là một công cụ chỉ để ghi chép và lưu giữ các ý tưởng chứ không phải là một trang
trình bày. Những gì bạn ghi vào đó và bằng cách nào bạn thực hiện nó hồn tồn là những
ghi chú hoàn toàn cá nhân giống như một quyển nhật ký vậy.
Dùng bản vẽ nháp như là một sổ ghi chép hằng ngày về những sáng tạo của mình
với thật nhiều ngơn từ cũng như hình ảnh. Ln mang theo bên bạn một sổ nháp bỏ túi và
10
1
một cây bút, và có thể là bản vẽ nháp to hơn phòng hờ khi bạn muốn vẽ ngoại cảnh. Không
cần phải gọn gàng ngăn nắp, bạn chỉ cần ghi lại những suy nghĩ và ý tưởng có thể sau này
sẽ dùng đến.
c. Thu thập ý tưởng từ chính cuộc sống
Khơng cần thiết phải đi đây đi đó tìm đến những nơi vẽ ngoại cảnh mới hay những
nơi mà bạn yêu thích, nơi để thu thập ý tưởng lại chính là nơi mà bạn đang sống. Phòng
khách và phòng ngủ của bạn là minh chứng những tiêu chí về chính cuộc sống của bạn.
Mảnh vườn là minh chứng cho những sự thay đổi theo mùa của cỏ hoa và cây cối. Một cái
nhìn bao quát cảnh vật sẽ cho ta thấy được sự thay đổi liên tục trong ngày của một phong
cảnh hay hình ảnh của một đơ thị nào đó. Hãy thuyết phục các thành viên trong gia đình
bạn ngồi làm mẫu cho bạn vẽ hay vẽ người qua lại từ một góc nhìn trong một qn càfê
chẳng hạn. Hãy phác họa những vật ni trong nhà như chó, mèo, … lúc chúng đang ngủ.
Chụp ảnh tất cả những gì có thể và dùng chúng để tham khảo nếu bạn khơng có nhiều thời
gian để lưu lại nơi đó lâu hơn.
d. Sử dụng một ý tưởng nhiều hơn một lần
Khơng có một quy định nào buộc bạn chỉ sử dụng một ý tưởng cho chỉ một lần.
Ngược lại, một ý tưởng hội họa có thể sử dụng để tạo ra một chuổi ý tưởng. Lấy ý tưởng
từ một bức họa cũ mà bạn thích và vẽ lại theo ý của bạn, nhấn mạnh và đi xa hơn những ý
tưởng vốn có, ví dụ như: dung màu sắc khác, góc nhìn khác và độ sáng khác biệt. Hãy nhìn
những gì mà Monet đã làm với bức tranh cỏ khô của ông ấy bạn sẽ hiểu nên làm gì.
e. Hỏi ý tưởng từ người khác
Hãy hỏi ý tưởng của mọi người xung quanh, bạn sẽ khơng bao giờ biết họ có thể có
những ý tưởng gì hay họ nhìn nhận các tác phẩm nghệ thuật của các tác giả khác ra sao (cả
những người đương thời hay quá cố). Hãy ghi chú lại tất cả các tác phẩm đã tạo cho bạn
cảm hứng hay gây sự chú ý đối với bạn. Tự vẽ ra tranh của mình từ tranh của các họa sĩ
khác (nhưng phải thừa nhận tranh đó được lấy từ nguồn nào) như là điểm khởi đầu và sau
đó là đưa những ý tưởng mới vào.
f. Mở rộng sự hiểu biết về lịch sử hội họa
Đừng phớt lờ các di sản hội họa dồi dào cũng như kho tàng ý tưởng mà hội họa từ
các thế kỷ trước để lại. Nếu bạn lãng tránh lịch sử hội họa chỉ vì một giáo trình giảng dạy
chán ngắt, hay chỉ có lý thuyết sng vậy thì hãy tiếp cận lịch sử hội họa bằng cách tìm
hiểu tiểu sử của các họa sĩ hay các tài liệu, phim ảnh chiếu trên truyền hình. Thú vị hay
khơng khơng phải do chủ đề mà là do cách khắc họa hay tiếp cận chủ đề làm cho nó sinh
động (hay nhàm chán).
g. Khơng sáng tác theo kiểu máy móc rập khn và thử những ý tưởng trên một chất liệu
khác
11
1
Thay vì thay đổi các ý tưởng bạn hãy thay đổi cách bạn phác họa chúng. Thử dùng
một chất liệu mới hoặc kết hợp các chất liệu khác nhau (chất liệu hỗn hợp) để giải phóng
cách làm việc máy móc của bộ não và phong cách hội họa đã phát chán ngấy của bạn.
Chấm dứt tình trạng tìm kiếm loại cọ ưa dung của bạn hay vẽ lên giấy chính xác như kiểu
bạn vẫn thường vẽ. Ngừng dùng ngay những sắc màu bạn ưa thích mà hãy thử sáng tạo ra
một sự phối màu mới nào đó.
Tạo một sự bứt phá lớn bằng cách thử dùng chì vẽ màu nước, bút lông nước hay thử
vẽ bằng sáp màu chẳng hạn. Nếu bạn thích vẽ với màu ẩm thì hãy thử làm việc với màu
khơ. Hoặc là thêm vào đó một loại chất liệu nhằm tăng tốc hay trì hỗn tốc độ khơ cứng
của sơn dầu và axit acrilic
1.2.2. Hình mảng đậm nhạt
a. Quan niệm về mảng đậm nhạt
Trên mặt phẳng của một bức tranh, nếu để nguyên vẹn một màu trắng của giấy hay
vải toan để vẽ thì ta có thể gọi đó là mảng trống. Nếu ta chấm lên đó một chấm thì có thể
gọi đó là điểm. Nếu tiếp tục chấm nhiều điểm vào đó thì ta có thể gọi đó là một mảng được
tập hợp bởi nhiều điểm. Tương tự như vậy, ta có một tập hợp là nét gồm một mảng được
cấu thành bởi các nét.
Theo từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, một lượng màu nào đó chiếm diện tích
nhất định trên mặt tranh, tạo thành một mảng riêng, phân biệt rõ rệt với các mảng màu
xung quanh nó… thì đó được gọi là mảng màu. Sự phân biệt này có thể do độ đậm nhạt,
nóng lạnh của màu sắc hoặc về nội dung hình thể trong tranh. Khi nói đến mảng màu, người
ta thường chỉ các mảng màu lớn. Tuy nhiên, trong các mảng màu lớn, có chứa đựng các
mảng màu nhỏ hơn. Trong tranh đen trắng thì đó là những mảng màu mang các sắc độ khác
nhau của đen và trắng.
Các nét, hình và điểm, khi được tổ chức, sắp xếp một cách có ý thức, sẽ tạo nên một
hình hoặc một khối. Như vậy, trong một mảng có thể có một hoặc nhiều hình, tập hợp của
các nét và điểm và ngược lại, hình hoặc khối có thể là tập hợp của một hoặc nhiều mảng.
Qua các lập luận trên, có thể đưa ra một quan điểm riêng của tôi về mảng như sau: Mảng
là sự cấu thành của một hoặc nhiều hình, khối, cùng sự tham gia của các tập hợp của điểm,
đường nét tạo nên.
Một bức tranh được hình thành trên cơ sở của nhiều mảng tập hợp lại. Sự sắp xếp,
tổ chức của các mảng, qua sự sáng tạo của họa sĩ, đã để lại cho nhân loại những kiệt tác
với rất nhiều trường phái và phong cách khác nhau.
b. Quan hệ giữa mảng hình và nền
Trong tự nhiên, khơng tồn tại mối quan hệ giữa hình tượng và bối cảnh, giữa hình
và nền. Khi thị giác con người tập trung vào một điểm, họ dễ dàng coi mọi thứ xung quanh
là bối cảnh và mơi trường. Chính vì vậy, các họa sĩ lợi dụng sự giới hạn của thị giác, làm
12
1
điểm nổi rõ lên thành hình, những cái cịn lại thì xử lý thành nền. Để khống chế phạm vi
hoạt động của thị giác, bối cảnh của hội họa, về cơ bản, đều bị khoanh lại trong giới hạn.
Một số nhà tâm lý học đã phân định hình và nền như sau:“Hình có tính nhơ nổi, mật độ
cao, có cảm giác đầy chặt, có hình dạng rõ ràng, có đường bao hoặc đường ranh giới…
Nền có tính lùi lại sau, mật độ thấp, khơng có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối rời
rạc, khơng có đường ranh giới cố định”(1).
Khi độ đậm nhạt của hình và nền gần như nhau thì sự phân biệt là đường chu vi, nếu
đường chu vi cũng khơng rõ lắm thì phải dựa vào tác dụng của tính ngưng tụ của hình (tâm
lý học thị giác gọi hình có tính ngưng tụ là hình đóng kín). Do kinh nghiệm và tri thức thị
giác của mỗi người ít, nhiều khác nhau, cho nên thời gian để nhận biết hình vẽ và kết quả
khơng thể giống nhau, tính ngưng tụ sẽ là mấu chốt trong việc thức tỉnh tín hiệu được lưu
trữ của người đó.
Tính ngưng tụ của hình thơng thường có hai loại tình huống: dẫn dắt thị giác liên
kết các hình rời rạc, phân tán thành đường chu vi, thành chỉnh thể của hình; dẫn dắt thị giác
liên hệ những phần chủ chốt thành mảng để bổ sung thêm hình thể.
Nhìn chung, từ góc độ nghệ thuật, tính ngưng tụ chỉ là tính năng tất yếu có của hình
tượng nghệ thuật bên cạnh tính thuyết minh và giá trị thẩm mỹ. Nhiều tác giả khơng theo
đuổi việc diễn tả thực hình thể, nhưng nhấn mạnh được đặc trưng điển hình của nó, ngơn
ngữ hội họa biểu đạt được tinh thần của hình thể thơng qua việc sắp xếp, cấu thành tác
phẩm nghệ thuật.
Tính ngưng tụ của hình trong hội họa cịn thể hiện thơng qua màu sắc, đường nét,
độ đậm nhạt, diện tích mảng hình, chất liệu, mật độ của hình,… từ đó tạo nên tỷ trọng, sự
nặng nhẹ của hình thể trong tranh. Nếu xử lý đúng lúc, đúng chỗ các yếu tố trên thì các
mảng hình sẽ ăn nhập hài hịa với phần nền và mang lại tính thẩm mỹ cao cho tác phẩm.
c. Cấu trúc mảng đậm nhạt
Bất kỳ một tác phẩm nào muốn được làm rõ nội dung, chủ đề mà tác giả cần diễn
đạt thì việc cần thể hiện là phần chính và phần phụ. Phần chính cần phải là phần trọng tâm
và điển hình, phần phụ là phần hỗ trợ để phần chính thêm phong phú hơn và nổi bật trọng
tâm hơn. Vì vậy, phần chính khơng thể quá lấn át phần phụ, và ngược lại, phần phụ cũng
không được quá nổi bật mà làm mất đi trọng tâm (tức là lấn át phần chính). Các mảng
chính, mảng phụ cần phải được phân biệt rõ ràng và có sự liên kết có tổ chức rõ rệt từ các
mảng lớn, các mảng nhỏ, phần hình và khoảng trống, kết hợp với các mảng màu, các sắc
độ, sự phân bố sáng tối, đặc biệt là hệ thống các mảng cho phù hợp với nội dung và cảm
xúc của tác giả. Muốn để phần chính và phần phụ ăn nhập với nhau và mang lại hiệu quả
thẩm mỹ, việc cân bằng thị giác là yếu tố quyết định.
Cân bằng thị giác
13
1
Sự cân bằng thị giác được tạo ra nhờ việc sắp xếp các hình thể mà mắt thường nhìn
thấy được trên bề mặt của diện tích bố cục một cách hài hòa, hợp lý và ổn định; phải khái
quát được diện tích đó, dù to hay nhỏ, như một tổng thể. Cũng vì thế, sự cân bằng thị giác
cịn được nhìn nhận như là sự cân bằng về trọng lượng. Một bố cục chỉ làm ta thỏa mãn
khi các lực của nó được sắp xếp hợp lý. Bởi vì khi quan sát một hình thể, bao giờ chúng ta
cũng phải xác định hình đó với khơng gian xung quanh, nói cách khác, đó là sự so sánh,
liên hệ với khơng gian ấy để đo được các khối hình hai phía. Để cân bằng thị giác trong
tranh, cần các yếu tố sau: thứ nhất, hình thể có trọng lượng lớn có thể cân bằng một hình
nhỏ nhưng có địn bẩy dài hơn, hay một hình có diện tích lớn hơn nhưng sắc độ mờ nhạt
hơn so với nền thì cũng bằng một diện tích nhỏ hơn nhưng có độ đậm nhạt nổi hơn nó
(tương quan hình – nền). Thứ hai, độ tương phản mạnh so với nền và xung quanh, tạo ra
cảm giác nặng, nhẹ .
Sau khi đã đạt được sự cân bằng về thị giác thì sức căng của bố cục cũng là vấn đề
cần phải chú ý. Số lượng và chất lượng của hình và nền, với tỷ lệ to nhỏ, tương quan sáng
tối, có ảnh hưởng rất lớn với vùng trống xung quanh và tạo sức căng cho tồn bộ kích thước
bức tranh. Sắp đặt hình thể trong khơng gian sao cho bản thân chúng có mối tương quan
mật thiết và hài hòa từ trung tâm đến các khu vực xung quanh. Đặc biệt lưu ý đến độ nhấn
và khoảng trống đó là đối trọng giữa đầy và vơi, có ý nghĩa quyết định của một bố cục
Tổ chức sắp xếp mảng
Việc sắp xếp, tổ chức các mảng, hình, khối, độ đậm nhạt, đường nét,… có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng để nhấn mạnh trọng tâm và ý đồ thể hiện của tác giả với nội dung
cần truyền đạt. Sắp xếp các mảng chính phụ hài hịa là việc làm đầu tiên của họa sĩ.
Nói đến mảng chính (mảng trọng tâm) tức là nói đến mảng lớn chứa đựng các mảng nhỏ
hơn, trong đó có thể có các hình thể, hình khối. Các mảng, khối … được hình thành trên tổ
hợp của các nét và của các điểm khác nhau. Tuy nhiên, các mảng đó phải tạo nên sự thống
nhất, đồng bộ trong tổng thể bức tranh.
Sự thống nhất thể hiện ở các hình ở mảng chính rất cần tạo nên sự chặt chẽ về bố
cục, sự sáng tạo trong cách tổ chức sắp xếp trong toàn mảng. Sự tổ chức sắp xếp bao gồm
các mảng hình, các mảng đậm nhạt, sáng tối, các mảng đặc, khoảng trống, sự vận động của
các hình, khối trong khơng gian, mật độ của các hệ thống nét và điểm, đặc biệt là chất của
các mảng trong tổ chức của toàn hệ thống đó.
Trước khi sắp xếp, tổ chức các mảng lên mặt phẳng tranh, thông thường họa sĩ phải xác
định mình vẽ trên khung hình loại gì, hình chữ nhật đứng hay nằm ngang, hình vng hay
hình trịn… Bên cạnh đó, anh ta cũng cần phải xác định mình sẽ vẽ tranh theo thể loại thấu
thị gì để có phương án bố cục mảng cho hợp lý. Khi tổ chức sắp xếp mảng, rất cần chú ý
đến các yếu tố sau:
14
1
- Trước tiên là yếu tố cân đối. Tính cân đối được thể hiện bởi sự cân đối trong các mảng,
hình khối, cân đối về đậm nhạt, về đường nét, về chất. Sự cân đối ở đây là sự tổ chức sắp
xếp hợp lý về tỷ lệ giữa mảng chính với mảng phụ, giữa các khoảng trống, giữa các hình
trong các mảng, giữa hình với hình, về tỷ lệ và cấu trúc của mảng sao cho thuận mắt. Phân
bố độ đậm nhạt, màu sắc trong tranh cho nổi bật được nội dung cần diễn tả, đặc biệt là phải
có sự liên kết hài hòa trong hệ thống sáng tối của bức tranh. Tổ chức hệ thống nét, hệ thống
các điểm trong mảng cho phù hợp với tổng thể.
Tính cân đối về mảng được tổ chức sắp xếp bởi tỷ lệ các mảng chính với mảng phụ, với
khoảng trống. Mảng chính cần có tỷ lệ vừa đủ để diễn tả về nội dung, không được to hay
nhỏ quá và đặc biệt là phải đặt đúng vị trí sao cho hợp lý, hài hòa về bố cục.
- Thứ hai là yếu tố tương phản, nói cách khác là sự đối lập. Trong hội họa, sự đối lập thường
được thể hiện ở tỷ lệ giữa mảng chính và mảng phụ, giữa mảng với mảng, mảng với hình,
giữa hình với hình, hình với nền, ở độ đậm nhạt, giữa mảng chính và phụ, với khoảng trống.
Bên cạnh đó có thể cịn có sự thay đổi, đối lập về phong cách tạo hình, tính cách nhân vật,
về hình dáng các mảng, hình với nhau. Mảng hình cứng với mảng hình mềm, mảng chuyển
động, mảng tĩnh,… Các mảng màu, độ nóng lạnh, về chất trong các mảng sẽ tạo nên tính
tương phản trong tranh.
Sự đối lập để tạo nên sự chú ý hay nhấn mạnh trọng tâm sẽ là yếu tố rất quan trọng
trong việc sắp xếp cấu trúc cho các mảng, tạo nên sự hài hòa trong tác phẩm. Tất cả sự đối
lập trên khi được tổ chức sắp xếp hợp lý trong hệ thống của bức tranh sẽ tạo nên sự cân đối
trong tranh và đặc biệt sẽ tạo nên bản sắc cũng như sự sáng tạo của người họa sĩ.
Thứ ba là yếu tố liên tục. Sự liên tục trong tranh là cần thiết, đây là cầu nối cho các mảng,
các độ đậm nhạt, về đường nét, điểm trong tranh tạo nên sự liên kết vững chắc cho cấu trúc
của mảng, tạo nên nhịp điệu của các mảng, sự vận động của khí trong tranh.
Thứ tư là yếu tố nhịp điệu. Sự thay đổi về tỷ lệ giữa các mảng, về hướng, về nét cứng,
mềm, về tính chất tĩnh, động của các mảng sẽ tạo nên nhịp điệu. Sự phân bố về đậm nhạt,
về tổ chức sắp xếp đường nét, điểm trong các mảng một cách hợp lý sẽ tạo nên cấu trúc
mảng vững chắc và có những nhịp điệu trong hệ thống các mảng trong mặt phẳng
tranh.Quan hệ giữa hình với hình, giữa hình với nền, quan hệ của hình với mảng, giữa
mảng với mảng, giữa phần chính và phần phụ, quan hệ về tương quan, về sáng tối, về đậm
nhạt,… được dựa trên các tính năng của từng loại khối và sự vận động của các hình, khối.
Tiếp đó là sự liên kết giữa các khối và khoảng trống, sự kết hợp giữa các hình (vng, trịn,
tam giác) với nền. Cho nên việc sắp xếp, tổ chức các mảng nhỏ trong mảng chính cùng với
bố trí đậm nhạt trong mảng chính và các mảng phụ cùng khoảng trống sẽ tạo nên tính nhịp
điệu cho bức tranh.
Trong bố cục, yếu tố chính phụ ln song hành với nhau. Mảng chính là phần trọng
tâm để nhấn mạnh nội dung và chủ đề của tác phẩm nhưng mảng chính khơng hồn chỉnh,
15
1
có khi cịn khơ cứng, nếu khơng có sự bổ trợ của mảng phụ. Mảng phụ có thể là những
mảng hình nhỏ hơn về diện tích đồng thời lực ngưng tụ ít hơn mảng chính, sắc độ cũng
khơng rõ nét và ít sự biểu hiện hơn. Mảng phụ cũng có thể là các khoảng trống. Những
khoảng trống này thực sự có tiếng nói trong tổng thể của một bức tranh. Một mảng phụ
đẹp phải là một mảng phụ có tính liên kết và hỗ trợ với các mảng khác, đặc biệt là mảng
chính. Sự cân đối của bức tranh khi và chỉ khi các mảng chính phụ cân đối với nhau về
diện tích, về sắc độ, về đường nét, về chất, đặc biệt cần phải cân đối về sự ngưng tụ của
hình thể được diễn tả trong tranh. Sự hỗ trợ của mảng phụ sẽ làm cho bức tranh rõ hơn về
phần nội dung và làm cho tác phẩm hài hòa và ấn tượng.
Trong tác phẩm hội họa, những khoảng trống và cấu trúc của khoảng trống hết sức đa dạng.
Những khoảng trống, hay gọi cách khác là không gian bao quanh chủ thể chính, là tập hợp
các yếu tố phụ hoặc yếu tố giai thoại – có thể có một giá trị biểu cảm lớn hơn cả khoảng
đặc (những yếu tố nhìn thấy, những hình thể hiện hữu). Thậm chí, những khoảng trống này
cho ta một ý nghĩa sâu thẳm của bức tranh. Tuy nhiên, tất cả phụ thuộc vào vị trí mà những
khoảng trống chiếm lĩnh trong khn hình và việc kết hợp khéo léo với các mảng hình
trong tác phẩm.
Cấu trúc của các mảng cùng các hình tượng được đưa vào trong tác phẩm cần đơn
giản và tinh luyện. Sự tổ chức, sắp xếp đó khơng những từng nét phải tinh tế, cẩn thận mà
còn rất cần đến tạo hình biểu đạt chuẩn xác, sinh động. Sự sắp xếp, bố trí mảng rất cần đến
sự phong phú song không rườm rà mà tinh giản, biểu đạt được nội dung thiết thực, thơng
qua các hình tượng điển hình. Khả năng thể hiện của nghệ thuật đối với thế giới mênh
mơng này là có hạn. Các nhà mỹ học cho rằng lấy một làm mười, chọn dùng những hình
tượng hữu hạn để biểu hiện nội dung vô hạn, lời nói có tận cùng mà ý khơng tận cùng mới
là cái đẹp nghệ thuật.
1.2.3. Hình tượng
Hình tượng nghệ thuật (tiếng Anh: image) là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh,
thể hỉện và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật.
Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và
tình cảm của mình, giúp con người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ
có ý nghĩa mn màu mn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh. Nhưng khác với các
nhà khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình cảm bằng khái niệm trừu
tượng, bằng định lí, cơng thức mà bằng hình tượng, nghĩa là bằng cách làm sống lại một
cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách
và số phận, về tình đời, tình người qua một chất liệu cụ thể.
Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng
tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc
16
1
điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có
thể ngấm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên
nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Hình tượng có thể tồn tại qua chất liệu vật
chất nhưng giá trị của nó là ở phương diện tinh thần. Nhưng nói tới hình tượng nghệ thuật
người ta thường nghĩ tới hình tượng con người, bao gồm cả hình tượng một tập thể người
(như hình tượng nhân dân hoặc hình tượng Tổ quốc) với những chi tiết biểu hiện cảm tính
phong phú.
Đến với nghệ thuật, ta như được chứng kiến, được sống cuộc sống trong tác phẩm,
ta ghi nhớ Chí Phèo vì cái mặt lằn dọc lằn ngang đầy những sẹo của hán, vì “bao giờ cũng
thế, cứ rượu xong là hắn chửi“, vì cách uống của hắn, vì những cuộc rạch mặt ăn vạ, vì
“mối tình” của hắn với Thị Nở, vì nỗi buồn khi tỉnh rượu và cuộc trả thù đẫm máu.
Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép y nguyên những hiện
tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thơng qua trí tưởng tượng và tài năng
của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ
sĩ day dứt. trăn trở cho người khác. Hình tượng nghệ thuật vừa có giá trị thể hiện những
nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc lộ được bản chất
của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của nghệ sĩ. Hình tượng
nghệ thuật khơng phải phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà thể hiện toàn bộ quan
niệm và cảm thụ sống động của chủ thế đối với thực tại. Người đọc khơng chỉ thưởng thức
“bức tranh” hiện thực, mà cịn thưởng thức cả nét vẽ, sắc màu, cả nụ cười, sự suy tư ẩn
trong bức tranh ấy. Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm
mỹ của nghệ thuật.
Vì những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất
cao dộ giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, cá biệt và khái
qt, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vơ hình. Và cũng chính vì
những lẽ trên, hình tượng cịn là một quan hệ xã hội – thẩm mỹ vô cùng phức tạp. Trước
hết là quan hệ giữa các yếu tố và chỉnh thể của bức tranh đời sống được tái hiện qua hình
tượng. Thứ đến là quan hệ giữa thế giới nghệ thuật với thực tại mà nó phản ánh. Về phương
diện này, hình tượng khơng chỉ tái hiện đời sống mà cịn cải biến nó để tạo ra một thế giới
mới, chưa từng có trong hiện thực. Đó cịn là quan hệ giữa tác giả với hình tượng, với cuộc
sống trong tác phẩm. Một mặt, hình tượng là hình thức, là kí hiệu của một tư tưởng, tình
cảm, một nội dung nhất định, là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Mặt khác, hình tượng lại
là một khách thể tinh thần có cuộc sống riêng, không phụ thuộc vào ý muốn. Và cuối cùng
là quan hệ giữa tác giả, tác phẩm với công chúng của nghệ thuật, giữa hình tượng với ngơn
ngữ của một nền văn hố.
Mỗi một loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất liệu riêng biệt đi xây dựng hình
tượng. Chất liệu của hội họa là đường nét, màu sắc, của kiến trúc là mảng khối, của âm
17
1
nhạc là giai điệu, âm thanh. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu. Hình tượng nghệ thuật là
hình tượng ngôn từ.
1.2.4. Đường nét và nhịp điệu
a. Bố cục đường nét
Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân tách
vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm. Như chúng ta đã thấy,
ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là
đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và khơng bắt buộc phải liên tục.
Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp thành
nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau.
Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có
thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh khơng có đường nét
lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vơ hình là đường nét chính) cho người
xem. Đưịng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp
điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và
nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa.
Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc (H1.7), phẳng lặng với đường
ngang (H1.8), sống động với đường chéo (H1.9). Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng
rắn, là nghiêm khắc (H1.10), đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn (H1.11),
đường gấp diễn tả sự sống động và hỗn loạn (H1.12).
18
1
H1.7
H1.8
H1.9
H1.10
H1.11
H1.12
Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và
những mảng đậm lợt. Vì cân xứng khơng có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục bằng
hai cách:
- Sự phù hợp giữa đường nét và tâm hồn
phải tập nhìn ra đường nét ngay lúc đóng khung cho ảnh để chụp để có thể áp dụng những
quy tắc bố cục. Có bốn loại đường nét thường dùng trong bố cục :
+ Đường ngang
+ Đường dọc
+ Đường chéo
+ Đường cong
Những loại đường này có thể dùng riêng biệt hoặc phối hợp tùy theo loại và tùy theo chủ
đề của đã chọn.
Làm sao những đường nét chỉ có hình thức trừu tượng mà lại có mãnh lực rung
cảm?
Nếu chúng ta nghiên cứu một số những tác phẩm hội họa thì ta thấy bố cục của
những họa sĩ danh tiếng thường đặt căn bản trên vài hình thức kỷ-hà-học. Khơng phải chỉ
có hội họa mà cịn cái gì do người tạo ra đều tìm đến hình thức sắp xếp của Kỷ-hà-học vì
19
1
nhãn quan của người ta đã bị giáo dục theo cái cân xứng sắp xếp đó, vơ tình chúng ta đã
tìm những đường mạnh của bố cục để căn cứ vào đó mà suy tưởng và cảm xúc.
Bố cục của vũ trụ đặt căn bản trên hình thức kỷ-hà-học nên làm cho cảm giác chúng
ta bị những hình thức kỷ hà ăn sâu và chi phối. Thí dụ khi nói đến kim-tự-tháp Ai-Cập là
ta nghĩ ngay đến hình chóp bốn góc, khi nói đến nhà thờ ta nghĩ ngay đến tháp chng cao
vút với vẻ uy nghi.
Như vậy là có sự liên quan chặt chẽ giữa sự xây dựng đường nét của tác phẩm với sự truyền
cảm của tâm hồn. Nếu ta chú ý đến sự phù hợp đó ta sẽ kiểm điểm được bố cục của ta.
- Ngôn ngữ rung cảm của đường nét
Ta nhận thấy những loại đường nét gợi cho trí óc chúng ta cái cảm tưởng khá rõ
ràng để nhận định cái ý nghĩa riêng biệt của nó. Cũng đơi khi cái cảm tưởng đó vượt khỏi
tầm phân tách của ta. Những sự phù hợp sẵn có giữa đường nét và cảm giác đã được nghiên
cứu kỹ càng và được dùng cho bộ môn kiến trúc và trang trí, thì người nhiếp ảnh chúng ta
cũng có thể áp dụng nó được.
Như vậy ta có thể khái niệm rằng: đường thẳng có nghĩa riêng là phù hợp với nghị
lực và bền bỉ biểu lộ sự cương quyết mà đường cong khơng có được , vì nó chỉ có thể gợi
cho ta ý mềm dẻo, yếu đuối và kết tụ. Đường cong cũng thuận cho cách gợi ra đều đặn,
quý phái mà khi ngắm đường gẫy khúc không thể có được. Đường gẫy khúc khi cứ kéo dài
mãi thì với sự chập chờn và run rẩy của nó cho ta cảm tưởng linh động.
Nhưng đường nét lại còn cho ta nhiều cảm tưởng đặc biệt tùy theo vị trí của nó và
cách xếp đặt. Ai lại khơng biết là đường ngang gợi cảm giác bình thản, buồn bã biểu lộ sự
lâu dài. Trái lại đường dọc gợi cho cảm giác sôi nổi và phát sinh ra cảm tưởng trang
nghiêm, cao quý. Chúng ta chợt có những cảm giác lạ khi ta ngắm đường ngang mặt biển
trải rộng mênh mông hầu như vô tận trước tầm mắt chúng ta, hay khi ngắm cây tháp cao
vút của ngôi giáo đường, ta thấy lân lâng lên mãi như dễ đụng tới từng mây.
Những cảm giác đó tăng độ lực và phát hiện với những đường lập đi lập lại và giảm
bới đi khi có những đường nghịch với nó.
Góc cạnh là do sự gặp nhau của hai đường hội tụ mà thành và gợi cho những cảm
giác do đường nghiêng nghiêng của cạnh. Góc cạnh càng thu hẹp thì cảm tưởng càng nhiều
và giống như cảm tưởng phát sinh bởi cái ngắn của đường dọc. Góc cạnh càng mở rộng
cảm giác có thể gần gũi đến lẫn lộn với cái ngắn của đường ngang.
Như thế những đường của hình chóp và hình tam giác cho ta ý niệm lạ, lâu dài, bền
bỉ, vững vàng (H1.13). Tùy theo hình dáng cân xứng của hình tam giác mà ta sẽ thấy hợp
với đường ngang hay với đường dọc: hình tam giác cạnh dưới (đáy) hẹp và mỏng mảnh sẽ
thoảng thấy như đường dọc (H1.14, H1.15). Hình tam giác cạnh dưới (đáy) rộng sẽ thấy
như đường ngang. Hình tam giác gợi cảm giác vững chắc và sống động mà khi thêm vào
đó những đường chéo sẽ cho cảm tưởng hoạt động và nhịp nhàng (H1.16).
20
1
Đường hội tụ cũng có thể gợi cho ta sự thốt ra, sự vơ tận. Tùy theo vị trí của điểm
tụ mà những đường đó cho ta cảm tưởng đi lên hay cảm tưởng về chiều sâu (H1.17).
Đường chéo gợi sự hoạt động, tốc độ. Nếu bắt chéo nhau, nó biểu lộ sự lẫn lộn, sự
không thăng bằng, sự hằng hà sa số (H1.18). Nếu nó vượt khỏi một điểm thì đó là phóng
ra, là tia ra, là đụng chạm và là bạo hành (H1.23). Nếu nó được phân chia đều đặn, nó cho
ta cảm giác vững vàng.
Đường cong cũng khơng có được tính chất rõ ràng như đường thẳng. Ta cũng thấy
những đường cong rất mỹ miều hấp dẫn như trong thế giới thảo mộc, trong thế giới động
vật lúc cịn nhỏ và nó mất dần đi khi cằn cỗi già nua, và cũng như thấy đường cong đậm
tính chất uy nghi gần nghĩa điều hịa khi nó mơ tả đạn đạo vòng cầu (H1.20, H1.21, H1.22).
Đường cong dùng để nối liền những yếu tố trong bố cục và ráp lại những phần hồn
chình. Vì sự quan trọng của nó nên trong nhiều trường hợp nếu thiếu nó thì bố cục không
thành.
H1.13
H1.16
H1.14
H1.17
H1.15
H1.18
21
1
H1.19
H1.20
H1.22
H1.23
H1.21
b. Bố cục nhịp điệu
Khi hội họa ra đời, con người đã biết vận dụng khái niệm nhịp điệu để có được sự
hài hịa giữa các yếu tố trong tranh. Nhịp điệu là biểu hiện của sự chuyển động, sự sống
của một vật thể. Nó thể hiện cái cốt lõi (hay cấu trúc) của một vật thể trong sự chuyển động
theo một hướng nhất định. Chẳng hạn như: những cây cói mọc ở bờ sơng Nil (Ai Cập),
thân thẳng đứng, mọc song song, sát nhau, mặc dầu đứng im nhưng cũng tạo nên một nhịp
điệu thẳng đứng, cũng như cây tre trước gió, lá tre bị thổi bạt theo một hướng, cũng tạo
nên nhịp điệu. Mỗi loài hoa, mỗi loài cây cỏ, sự vật đều có một cấu trúc đặc thù, do đó mỗi
lồi đều có một hình dạng và một nhịp điệu riêng biệt.
Trong hội họa cũng vậy, nếu như tỉ lệ là một yếu tố của cái đẹp tĩnh, thì nhịp điệu
là yếu tố của cái đẹp động, nó nói lên sự chuyển động, sự sinh động, hay sự sống. Phải đến
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khái niệm nhịp điệu mới thực sự có điều kiện để nảy nở
và để được áp dụng một cách rộng rãi trong hội họa, điêu khắc cũng như trong kiến trúc.
Một mặt với sự ra đời của nền hội họa hiện đại, mặt khác, trong lĩnh vực kiến trúc, với sự
ra đời của các vật liệu mới và các kỹ thuật mới.
22
1
Nhịp điệu có thể liên tưởng là những bước chân khi di chuyển, như cách giao hòa
của những âm thanh lại cùng nhau để tạo thành một bản nhạc, như tiếng mưa rơi nhỏ giọt.
Nhịp điệu có thể được thấy và cảm nhận trong mọi sự vật của tự nhiên, qua cuộc sống.
Nhịp điệu trong hội họa đó là sự lặp lại, sự luân phiên và tiến triển. Sự lặp lại là cách nhắc
đi nhắc lại một yếu tố tạo hình. Nó thường tạo ra một dịng chảy êm đềm liên tục của tầm
nhìn trong tranh, như là một đường dẫn mà từ đó ta có thể đọc được mạch cảm xúc cũng
như ý đồ của người họa sĩ. Sự luân phiên là nhịp điệu thay đổi về hình dáng của cùng một
yếu tố từ lớn sang nhỏ hoặc ngược lại hay nhịp điệu tiến triển là cách hướng mắt nhìn liên
tục từ điểm này sang điểm khác bằng cách tạo ra sự chuyển đổi ổn định tăng dần hay giảm
dần. Người họa sĩ cũng có thể sử dụng tất cả các hình thức của nhịp điệu trong một bố cục
để sáng tạo ra một không gian, một tác phẩm nghệ thuật độc đáo (H1.1.24, H1.1.25).
H1.24 JULIA WATKINS - Wild Stallions - Strength
H1.25 JULIA WATKINS - Moon Dancer
Nhịp điệu cũng có thể tạo ra bởi sự thay đổi về tỉ lệ giữa các mảng, về hướng, về
nét vẽ cứng, mềm, về tính chất tĩnh, động... Sự phân bố về đậm nhạt, về tổ chức sắp xếp
đường nét, điểm trong các mảng một cách hợp lý sẽ tạo nên cấu trúc mảng vững chắc và
23
1
có những nhịp điệu trong mặt phẳng tranh. Tiếp đó là sự liên kết giữa các khối và khoảng
trống, sự kết hợp giữa các hình với nền. Cho nên việc sắp xếp, tổ chức các mảng nhỏ trong
mảng chính cùng với bố trí đậm nhạt trong mảng chính và các mảng phụ với khoảng trống
sẽ tạo nên tính nhịp điệu cho bức tranh.
Màu sắc là một thành phần cốt yếu của hội họa góp phần tạo nên nhịp điệu, nó
khơng chỉ là một phương tiện làm tôn giá trị cho hình nét mà là yếu tố chủ đạo tạo ra không
gian, mảng khối, chuyển động để biểu thị các trạng thái tâm hồn. Màu sắc trong tự nhiên
được tạo ra từ các màu cơ bản, từ đó có thể tạo ra hàng triệu màu sắc khác nhau. Khi các
màu đặt cạnh nhau theo chiều chú ý nhất định sẽ tạo ra một nhịp điệu thị giác.
Trong một bức tranh, màu sắc là do sự pha trộn của nhiều màu, chúng vơ cùng phong phú
và sinh động. Tùy theo hịa sắc của hệ thống màu đặt cạnh nhau sẽ cho người xem một hiệu
quả rõ ràng về nhịp điệu của tranh. Những gam màu cùng tông tạo ra nhịp điệu yên ả, mềm
mại và một cảm giác về nhịp điệu nhanh, mạnh nếu là những cặp màu bổ túc, tương phản
đặt cạnh nhau.
1.2.5. Bố cục màu sắc
Là sự sắp xếp màu sắc có chủ định trên mặt tranh tạo sự cân đối về bố cục và tuân
theo các nguyên tắc cơ bản sau:
a. Nguyên tắc Cân bằng – Balance
Đây là một trong những nguyên tắc cần thiết và quan trọng nhất. Bất kì thiết kế đồ
họa cơng nghiệp hay tắc phẩm nghệ thuật đều phải thực hiện tốt yếu tố cân bằng này
(H1.26).
H1.26
Đối với hình ảnh tạo ra trên một bề mặt bằng phẳng như một thiết kế. Hay một bức
tranh sơn dầu cùng một nguyên tắc cân bằng được áp dụng. Tuy nhiên, thay vì có thể chất
cân bằng thực tế, các nghệ sĩ cần tạo ra một ảo giác về sự cân bằng. Điều này còn được gọi
là cân bằng thị giác.
b. Nguyên tắc Tương phản – Contrast
24
1
Tương phản trong nghệ thuật và thiết kế xảy ra khi hai thể dạng liên quan là khác
nhau (H1.27). Quá nhiều điểm giống nhau của các thành phần trong thiết kế sẽ trở nên đơn
điệu. Tương phản xảy ra khi ta dùng cùng lúc Màu sắc (Nóng – Lạnh); Đường nét ( Thẳng
– cong, ngang- đứng v.v.); Hình khối (Đặc – rỗng, Lớn – nhỏ); Hình dạng (Vng –
Trịn)…
Để có được sự tương phản màu sắc ta cần hiểu vòng trịn màu. Trong vịng trịn
màu, hai màu ở vị trí đối diện nhau tạo nên tương phản mạnh nhất.
c. Nguyên tắc Chuyển động – Movement
Movement là đường mà đôi mắt của chúng ta theo khi nhìn vào một tác phẩm nghệ
thuật. Mục đích của Movement là tạo ra sự thống nhất trong các tác phẩm nghệ thuật khi ta
sử dụng mắt để theo dõi.
H1.28
Nó có thể đạt được bằng cách dùng những thứ như: nhịp điệu, sắp xếp, nét bút v.v.
Chuyển động – Movement quan hệ cộng tác với nhau bằng các liên kết thành phần khác
nhau của một tác phẩm với nhau (H1.28).
d. Nguyên tắc Nhấn mạnh – Emphasis
Sự nhấn mạnh của một khu vực cụ thể, tập trung hơn là trình bày một mê cung của
các chi tiết quan trọng ngang nhau (H1.29). Chúng ta có thể sử dụng các nguyên tắc Cân
Bằng bất đối xứng, Tương phản, Chuyển động để tạo nên nhấn mạnh nổi bật cho một đối
tượng. Hay cho một thông điệp mà bạn muốn truyền tải từ sáng tạo của bản thân.
25
1