Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bài giảng Lý thuyết các loại hình nghệ thuật (Ngành: Quản lý văn hóa) - Trường Cao đẳng Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 29 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG

BÀI GIẢNG
MƠN HỌC/ MƠ ĐUN: Lý thuyết các loại hình nghệ thuật
NGÀNH/NGHỀ: Quản lý văn hóa
( Áp dụng cho Trình độ trung cấp.)

LƯU HÀNH NỘI BỘ
NĂM 2017


2

LỜI GIỚI THIỆU
Nghệ thuật (tiếng Anh: art) là một loạt những hoạt động khác nhau của con
người và những sản phẩm do những hoạt động đó tạo ra. Bài viết này chủ yếu tập
trung vào các môn nghệ thuật thị giác, bao gồm việc tạo ra những hình ảnh hay vật
thể trong những lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, đồ họa in ấn, nhiếp ảnh, và những
phương tiện truyền thơng hình ảnh khác.
Kiến trúc thường được xem là một trong các nghệ thuật thị giác; tuy nhiên,
giống như các loại hình nghệ thuật trang trí, nó liên quan đến sự sáng tạo ra các vật
thể cho những công dụng cụ thể, một điều hoàn toàn khác với, chẳng hạn, hội
họa. Âm nhạc, kịch, điện ảnh, múa, và những môn nghệ thuật trình diễn khác, cũng
như văn chương, và những phương tiện truyền thông tương tác, được bao gồm
trong một định nghĩa rộng hơn về nghệ thuật, gọi chung là các môn nghệ thuật.[1]
Cho đến thế kỷ 17, nghệ thuật được dùng để chỉ bất kỳ kỹ năng hay sự thông
thạo nào, và không phân biệt khỏi các môn thủ công mỹ nghệ hay các ngành khoa
học, như y học cũng được coi là một nghệ thuật. Trong thời hiện đại, ở các loại
hình mỹ thuật, nơi cực kỳ chú trọng đến khía cạnh thẩm mỹ, được phân biệt hẳn
khỏi những kỹ năng có được nói chung, chẳng hạn như với các loại hình nghệ thuật


trang trí hay nghệ thuật ứng dụng.
Những đặc trưng của nghệ thuật có thể được mô tả bởi sự bắt chước (phản
ánh cuộc sống), sự thể hiện, trao truyền cảm xúc, và những phẩm chất khác. Trong
suốt thời kỳ chủ nghĩa lãng mạn, nghệ thuật được xem là "một lĩnh vực đặc biệt
của tâm thức con người, giống như tôn giáo và khoa học".[2] Mặc dù khơng có một
định nghĩa thống nhất về nghệ thuật,[3][4][5] và cách nhìn về nó cũng thay đổi theo
thời gian, những mô tả chung về nghệ thuật đề cập đến ý tưởng về một kỹ năng kỹ
thuật hay trí tưởng tượng bắt nguồn từ khả năng tác động của con người[6] và sự
sáng tạo.[7]

2


3

MỤC LỤC
TRANG
1. Lời giới thiệu

02

2. Chương 1: Nghệ thuật tạo hình

04

3. Chương 2:Đại cương nghệ thuật múa

13

4.Chương 3: Nghệ thuật sân khấu


24

5. Chương 4:Văn học .

26

6. Chương 5:Âm nhạc

27

7.Chương 6:Điện ảnh

28

3


4

Chương 1: Nghệ thuật tạo hình
1. Mục tiêu: Học xong chương học sinh nắm được những kiến thức về khái niêm,
đặc tính cơ bản và những thành tố kết cấu nên chương trình nghệ thuật cùng với
cách thức phân loại các chương trình nghệ thuật
2. Nội dung của chương
Bài 1: Đặc trưng ngôn ngữ mỹ thuật
1. Kênh thông tin thị giác
Thị giác là khả năng nhận và diễn giải thông tin từ ánh sáng đi vào mắt. Việc tri
giác này cịn được gọi là thị lực, sự nhìn. Những bộ phận khác nhau cấu thành thị
giác được xem như là một tổng thể như là hệ thị giác và được tập trung nghiên cứu

trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lý, khoa học nhận thức, khoa học thần
kinh và sinh học phân tử.
2. Các yếu tố ngôn ngữ tạo hình
Các yếu tố tạo hình, hay cịn gọi là ngơn ngữ tạo hình, là kiến thức cơ bản nhất
và quan trọng nhất với tất cả những ai làm việc trong lĩnh vực mỹ thuật thị giác
như hội họa, nội thất, đồ mộc, nhiếp ảnh, tạo cảnh, kiến trúc, … Hiểu được các yếu
tố này, những gì bạn sáng tạo ra sẽ trở thành những tác phẩm chuyện nghiệp và
phong phú đa dạng vô cùng.
Một thiết kế là một tác phẩm được cảm thụ bằng mắt mà trong đó thể hiện 1 ý
tưởng nghệ thuật được mô tả từ 7 thành phần cơ bản. Đó là đường nét – mảng
miếng – hình khối – màu sắc – sắc độ – kết cấu chất liệu và không gian.
3. Đặc trưng ngôn ngữ hội họa, điêu khắc
Hội họa là nghệ thuật không gian mặt phẳng – tìm khơng gian ba chiều trên mặt
phẳng. Tuy chỉ ghi được một khoảnh của hành động; song nó vẫn có khả năng thể
hiện được ý nghĩa của cử chỉ; động tác của đối tượng và nó cũng thể hiện được
hình khối của đối tượng dưới những hình thức cụ thể khác nhau. Khi cảm thụ tác
phẩm hội họa chúng ta vẫn có cảm giác được chiều sâu; độ gần xa về khoảng cách
của bố cục theo tiêu điểm; diện về mặt đường nét; mầu sắc của đối tượng phản
ánh; thậm chí cả cảm giác được cái sinh động; sống động như thật của đối tượng.
Trong hội họa đường nét; màu sắc là ngôn ngữ đặc trưng của hội họa. Hội họa
có ưu thế đặc biệt trong việc phản ánh thế giới với mọi màu sắc phong phú; tinh tế
của nó và hịa sắc của tác phẩm làm cho nó có sức biểu hiện sâu sắc; tế nhị về tình
cảm. Ánh sáng; bóng tối và sự kết hợp uyển chuyển giữa các đường nét; màu sắc
với các thủ pháp xa – gần (khoảng cách phù hợp) của hội họa tạo ra cảm giác
không gian ba chiều. Khả năng tạo hình của hội có ý nghĩa rất lớn; nó nói lên được
tư tưởng và tình cảm con người trên mọi cung bậc và sắc thái khác nhau.

4



5

Song hội họa chỉ có thể gợi lên q trình phát triển của các biến cố trong phạm
vi những khoảnh khắc mà nó thể hiện chứ khơng miêu tả được đầy đủ quá trình
phát triển sinh động của hiện thực như văn chương; điện ảnh; hoặc sân khấu.
Về thể loại hội họa có tranh trên giá; tranh hồnh tráng; tranh chân dung;
tranh phong cảnh; tranh “bố cục”; tranh tĩnh vật…
4. Đặc trưng ngôn ngữ đồ họa
Đồ họa là một lĩnh vực truyền thơng trong đó thơng điệp được tiếp nhận qua
con đường thị giác. Thiết kế đồ họa là tạo ra các giải pháp bằng hình ảnh cho các
vấn đề truyền thông.




Đồ họa độc lập (Đồ họa giá vẽ)
Đồ họa in ấn
Đồ họa máy tính

Ở Việt Nam, việc dùng các thuật ngữ đồ họa chỉ là tương đối, bởi việc đặt tên
các thuật ngữ đồ họa là dựa trên ý nghĩa sử dụng của nó. Ví dụ: đồ họa thương
nghiệp, đồ họa vẽ tem, đồ họa quảng cáo vân vân... Và thiết kế đồ họa thực sự là gì
vẫn đang còn là vấn đề tranh cãi. Một số trường đại học vẫn theo quan điểm đào
tạo đồ họa là trang trí gần với hội họa, một số các trung tâm đào tạo về sử dụng
phần mềm đồ họa coi đồ họa là một phần của tin học và một số trường lại tiếp nhận
quan điểm của phương Tây coi đồ họa và một lĩnh vực truyền thông.
Trong mỹ thuật công nghiệp
Trong mỹ thuật công nghiệp, đồ hoạ là môn xử lý hình ảnh trên ngơn ngữ
tạo hình là tín hiệu số, qua các thiết bị như máy tính, máy ảnh số, máy quay phim
số. Từ các yếu tố có thể bố cục tạo hình trên máy tính, người ta tạo ra một bố cục

cân đối hoàn chỉnh.
Kèm theo ngành này là chế bản, 2 môn này đan xen và kết hợp với nhau.
Các ứng dụng của đồ họa là quảng cáo công nghiệp, thiết kế công nghiệp...
Bài 2: Chất liệu đồ họa, điêu khắc, đồ họa
1. Chất liệu hội họa
Thể loại này gồm 3 thể loại con sau, trên tổng số 3 thể loại con.


► Sơn dầu (1 tr.)
► Sơn mài (3 tr.)



► Tranh lụa (1 tr.)





Màu nước
5


6


Men trộn màu





Sơn dầu
Sơn mài



Tranh lụa
1.1.

Chất liệu sơn mài

Sơn mài được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự tìm
tịi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của
Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài (tiếng
Anh: lacquer) thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung
Quốc. Kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công sơn mỹ nghệ và tranh
sơn mài Việt Nam.
Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn
then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp,
vỏ trai, v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Đầu thập niên 1930, những họa sĩ Việt Nam
đầu tiên học tại trường Mỹ thuật Đơng Dương đã tìm tịi phát hiện thêm các vật
liệu màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo
nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật
ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài
nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng tranh.
Người ta thường lưu ý rằng sơn mài có những điểm "ngược đời": muốn lớp sơn
vừa vẽ khơ, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh
lại phải mài mịn đi mới thấy hình.
Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng: kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên
nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt

được sau khi mài tranh.
Một sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu: đó là sơn, màu và các
nguyên liệu khác. Có thể kể ra đây một vài nguyên liệu phổ biến như:







Sơn: khai thác từ cây sơn ta, ngồi ra cịn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa
thơng và nhựa dó...
Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu
chế từ khống chất vơ cơ (ví dụ: son) nên khơng bị phân huỷ trước ánh sáng và
thời gian.
Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm...
Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp...
Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp...
6


7


Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn cơng nghiệp có thể thay
thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản
xuất tranh và màu sắc thì vơ cùng phong phú.

1.2. Chất liệu sơn dầu, lụa, thuốc nước
Sơn dầu (Oil Paint) hay màu dầu là một loại họa phẩm bao gồm các sắc tố màu

(pigment) thường có dạng bột khô được nghiền kĩ với dầu hạt lanh. Chất lượng của
sơn dầu thay đổi dựa trên chất lượng, mức độ mịn của sắc tố màu được sử dụng và
môi trường sử dụng.
Do vậy, thành phần của sơn dầu chính bao gồm: sắc tố màu (dạng bột khô) + dầu
lanh/dầu cù túc hoặc dầu óc chó.
Bạn có thể làm cho sơn dầu lỏng hơn bằng cách pha trộn với nhiều dầu hơn hoặc
thêm một dung mơi nào đó. Tuy nhiên, bạn cần phải có kiến thức chun mơn nếu
khơng muốn sơn dầu bị hỏng bởi những phản ứng hóa học giữa các chất màu.
Thường thì sơn dầu ở dạng ổn định nhất của nó khi ở trong ống màu và bạn khơng
nên pha chế gì thêm nếu khơng có kiến thức gì.
Sơn dầu vẽ tranh khơng thấm nước và có độ dẻo cũng như độ che phủ mạnh. Sơn
dầu có thể dễ dàng phủ lên các màu sơn khác.
2. Chất liệu điêu khắc, đồ họa
Điêu khắc là gì?
Điêu khắc là nghệ thuật tạo hình bằng khối nổi và chìm, đặc và rỗng trong không
gian 3 chiều (ngang, dọc, sâu); riêng điêu khắc đương đại khai thác thêm chiều thứ
tư là thời gian. Điêu khắc có thể để màu tự thân của gỗ, đá, đất nung… hoặc cũng
có thể phủ màu từ đơn sắc (sơn son) đến tô vẽ hay trộn, đúc tự do đủ màu.
* Lược sử điêu khắc?
Xuất hiện ngay từ buổi bình minh lịch sử của nhân loại, khi con người còn chưa
biết dựng nhà và đang săn bắt – hái lượm. Người nguyên thủy đã làm những bức
tượng sơ khai bằng cách nặn đất, gọt sừng – xương – ngà voi, đẽo và mài đá… Pho
tượng cổ nhất của nhân loại được tìm thấy và hiện cịn lưu giữ là tượng Con voi
mammut, phát hiện ở Lonetal (Đức), tạc từ ngà voi, cao 3,7cm, có niên đại khoảng
33.000 năm trCN, tức là cách ngày nay 35.000 năm. Có hai pho tượng cổ thứ nhì là
tượng Người đội lốt sư tử, tạc từ ngà voi mamút, cao 28cm và tượng Vệ nữ
Galgenberg, đều khai quật tại Đức, với niên đại khoảng 28.000 năm trCN, tức là
cách ngày nay 30.000 năm. Tiếp sau đó là các bức tượng Vệ nữ Willendof, tạc đá,
cao 11cm, khai quật tại nước Áo, 25.000 năm trCN… Chắc chắn đó là những pho
7



8

tượng hồn tồn chế tác bằng phương pháp thủ cơng với các kỹ thuật thô sơ nhất:
gọt, đẽo, mài bằng các loại dao đá (thuở ấy, con người đang còn ở thời kỳ đồ đá,
chưa thể có cong cụ bằng đồng hay sắt). Về mục đích, đáng chú ý là người ngun
thủy khơng có ý định làm tượng vì cái đẹp, họ định thờ cúng Nữ thần Mẹ với chức
năng sinh sản hoặc định bùa chú để khuất phục sức mạnh của mãnh thú, phục vụ
cho mục đích săn bắn.
* Từ thời Cổ đại đến Trung cổ
Điêu khắc rất phát triển ở các nền văn minh lớn như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ,
Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã. Do được các nhà nước cổ đại và trung cổ hoặc tôn
giáo đứng ra huy động nhân công, tổ chức sản xuất, tận dụng năng lực tối đa của
mọi nghệ nhân, nghệ sĩ nên điêu khắc đã có bước phát triển nhảy vọt, dựng được
những pho tượng kỳ vĩ trong lịch sử nhân loại (tượng Sphinx – Nhân sư cao 20m,
dài 57m ở Ai Cập, tượng Phật ngồi cao 71m ở Trung Quốc, tượng Phật đứng cao
53m ở Ápganixtan, tượng thần Zeux cao 13m, lõi gỗ ốp ngà voi – 1 trong 7 kỳ
quan thế giới cổ đại…). Đặc biệt điêu khắc Hy Lạp – La Mã cổ đại đã biết ứng
dụng những thành tựu sơ khởi của khoa học: giải phẫu tạo hình, tỷ lệ đầu, kết cấu
tượng có điểm tựa và điểm chống, quy hoạch cùng kiến trúc…
* Thời Phục hưng (các thế kỷ 14, 15, 16) tại Châu Âu
Điêu khắc phát triển nhảy vọt vì được bảo trợ và đặt hàng đặc biệt ưu ái của các
triều đại và các quý tộc. Thời kỳ này xuất hiện các thiên tài điêu khắc như
Verrocchio, Donattello, nhất là Michelangelo. Khá nhiều tác phẩm điêu khắc tầm
cỡ Tuyệt tác của nhân loại đã ra đời (tượng David, tượng thánh Moise… của
Michelangelo).
* Thời Hiện đại
Điêu khắc phát triển toàn diện ở các nước Âu – Mỹ và một số nước tiên tiến trên
thế giới: ln có vị trí thích đáng trong các quy hoạch thành phố, công viên, quảng

trường, được sự trợ giúp tối ưu của khoa học – kỹ thuật hiện đại và cơng nghiệp
hóa trên cơ sở kế thừa tốt đẹp những tinh hoa của mọi nền điêu khắc trên thế giới.
Điêu khắc cũng trở thành môn học cơ bản trong tất cả các trường Mỹ thuật, dù rất
ít mơn sinh.
* Ba xu hướng lớn của điêu khắc trên thế giới
- Điêu khắc Âu – Mỹ: hiện phát triển nhất vì có nền tảng khoa học vững chắc, có
tính kế thừa cao độ, luôn theo kịp thời đại và luôn sẵn sàng hiện đại hóa, cơng
nghiệp hóa.
- Điêu khắc châu Á: có nguồn gốc từ cổ đại, có tính trang trí, uyển chuyển, hướng
tới tài khéo, tinh vi, hiện đang chịu ảnh hưởng mạnh từ Điêu khắc Âu – Mỹ.
8


9

- Điêu khắc châu Phi đen và thổ dân châu Đại Dương: đậm đặc chất nguyên sơ,
bản năng, tính biểu cảm mạnh mẽ, táo bạo; phát sinh từ những tộc người chậm phát
triển nhưng xu hướng điêu khắc này không hề lạc hậu, trái lại mang đến nhiều bài
học lý thú cho sáng tạo điêu khắc hiện đại.
* Lược sử điêu khắc của người Việt:
Ở Việt Nam điêu khắc xuất hiện ngay từ buổi bình minh của lịch sử, trong các nền
văn hoá khảo cổ như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn ở miền Bắc;
Sa Huỳnh ở miền Trung hay Ĩc Eo ở Nam Bộ. Đó thường là những bức tượng cỡ
rất nhỏ bằng đá, đất nung và đồng.
Thế rồi hơn 1000 năm Bắc thuộc đã làm gián đoạn tiến trình nghệ thuật Việt nói
chung và điêu khắc Việt nói riêng trên địa bàn miền Bắc Việt Nam. Trong khi ấy
điêu khắc vẫn tiếp tục phát triển ở miền Trung với Chămpa và ở Nam Bộ với Phù
Nam rồi Chân Lạp. Phải chờ đến kỷ nguyên độc lập phong kiến kể từ các triều đại
Đinh – Tiền Lê – Lý cho tới Lê – Trịnh và Nguyễn, điêu khắc của người Việt mới
phát triển bền vững, lan tỏa rộng và vươn tới đỉnh cao điêu khắc cổ điển của dân

tộc.
Căn cứ vào lịch sử, có thể tạm phân loại điêu khắc ở Việt Nam như sáu:
- Điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ với các nền điêu khắc chính: Điêu
khắc thời Lý (1009-1225), Điêu khắc thời Trần – Hồ (1225-1407), Điêu khắc thời
Lê sơ (1428-1527), Điêu khắc thời Mạc (1527-1592), Điêu khắc thời Lê – Trịnh và
Tây Sơn (1592-1802).
- Điêu khắc Chămpa ở Trung và Nam Trung Bộ (192-TK 17).
- Điêu khắc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ (từ TK 1 trCN đến TK17).
- Điêu khắc nhà mồ của các bộ tộc Tây Nguyên.
- Riêng Điêu khắc thời Nguyễn định hình ở Trung và Nam Trung Bộ khi triều đại
này còn cát cứ ở đó (TK 17 đến hết TK 18) rồi bao trùm khắp nước khi nhà
Nguyễn thống nhất quốc gia (kể từ 1802).
Cũng có thể căn cứ vào hình loại để phân chia điêu khắc Việt Nam như sau:
- Điêu khắc Nguyên thủy: xuất hiện sớm nhất trong các văn hố khảo cổ khắp 3
miền, điển hình là Đơng Sơn, Sa Huỳnh và Ĩc Eo, kích cỡ rất nhỏ (mini) với các
chất liệu đá, đất nung, đồng.
- Điêu khắc Tôn giáo gồm: Phật giáo và các tượng Phật và phù điêu trong các chùa
tháp cổ; Ấn Độ giáo với các tượng thần và linh vật trong các đền tháp Chămpa –
Phù Nam – Khmer; Nho giáo và Đạo giáo trong các đình – đền – quán – miếu.
9


10

- Điêu khắc Nguyên sơ của các sắc tộc bản địa trên các vùng núi cao như tượng
nhà mồ Tây Nguyên hay mặt nạ gỗ của một số dân tộc khác ở miền Trung và miền
Bắc.
Nếu phân vùng theo cách nhìn địa – văn hóa, ta sẽ có: Vùng ảnh hưởng Ấn Độ
giáo và Phật giáo nguyên thủy ở Trung và Nam Bộ với ranh giới xa nhất về phía
Bắc là đèo Ngang, tạo nên các đặc trưng điêu khắc Chămpa, Phù Nam và Khmer

Nam Bộ. Vùng ảnh hưởng của tam giáo (Nho, Lão, Phật giáo đại thừa Bắc phái)
đến từ Trung Quốc trước thế kỷ 16 chủ yếu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ rồi sau đó
dần dần bao trùm khắp nước.
Điêu khắc cung đình trong các lâu đài, thành qch hay các cơng trình do vua chúa
cho xây dựng dù mỹ lệh, tinh tế và hướng tới trau chuốt, hoàn chỉnh nhưng lại bị
tàn phá rất nhiều bởi chiến tranh. Ngược lại, điêu khắc dân gian dù thô sơ, dân dã
nhưng lan tỏa khắp các làng xã và được dân làng bảo vệ, duy tu khá tốt trong các
cụm đình, chùa, đền, miếu… cũng như các sản phẩm điêu khắc trong các kiến trúc
nhà cửa, đồ thờ, công cụ và vật dụng. Trước khi xuất hiện sáng tạo của các nghệ sĩ
trường Mỹ thuật Đông Dương (từ 1925), có thể nói Điêu khắc Việt Nam đậm chất
dân gian.
* Ngôn ngữ và chất liệu điêu khắc:
- Ngôn ngữ của điêu khắc: khối (đặc và rỗng, nổi và chìm) và mảng.
- Các chất liệu của điêu khắc:
+ Chất liệu cổ điển: đất nung – gốm – sứ, gỗ, ngà – xương, đá, đồng.
+ Chất liệu hiện đại: sắt, thép, gang, nhôm, inox, thủy tinh, nylon, sáp, sa mốt, xi
măng, bê tông…
+ Chất liệu đương đại: ánh sáng, âm thanh, chuyển động…
+ Chất liệu trung gian: (có tính tạm thời, trước khi chuyển sang chất liệu chính
thức): thạch cao, composit…
* Một số loại hình điêu khắc:
- Phù điêu (Chạm nổi, đắp nổi): cao, thấp, chìm, thùng, lộng, bong – kênh.
- Tượng trịn: chân dung, bán thân, tồn thân, nhóm, tượng vườn, tượng trang trí.
- Tượng đài: Là tượng tưởng niệm nhân vật lịch sử hoặc một sự kiện lịch sử. Hình
thức tượng đài thường rất đồ sộ, chiếm khơng gian rộng lớn, có nội dung chính trị,
lịch sử hay huyền thoại. Tầm cỡ và quy mô quốc gia hay thậm chí quốc tế; tối thiểu
là cấp tỉnh, huyện hay vùng. Khơng có tượng đài tư nhân.

10



11

- Dây thép uốn, căng, treo: Là loại tạo hình có giới hạn khơng gian đặc biệt nhưng
bên trong hồn tồn rỗng. Khi treo thì tạo ra thành phần điêu khắc chuyển động
theo ý đồ sáng tạo.
- Điêu khắc thiên nhiên: Là điêu khắc hoặc tạo dáng trực tiếp từ các vật thể sống,
tồn tại trong thiên nhiên như cây, đá, băng, cát, sỏi…
- Điêu khắc địa hình: Là loại hình điêu khắc khổng lồ, người sáng tạo có thể dùng
các phương tiện và cách thức hiện đại tạo hình vào núi, đồi, bờ biển, đảo, mặt
đất…
Bài 3: Thể loại hội họa, điêu khắc, đồ họa
1. Thể loại hội họa
1.1. Tranh chân dung, phong cảnh.
Tranh phong cảnh là các bức tranh vẽ phong cảnh thiên nhiên đất trời như phong
cảnh quê hương, phong cảnh nước ngoài, phong cảnh thiên nhiên sông nước…
Phong cảnh luôn là nguồn cảm hứng, là đề tài bất tận của người họa sĩ khi vẽ
tranh. Người xem tranh được cảm nhận trước vẻ đẹp quyến rũ của sơng nước, núi
non, mây trời hịa quyện vào nhau
Thể loại này gồm 4 thể loại con sau, trên tổng số 4 thể loại con.





► Tranh chân dung theo chủ đề
► Tranh chân dung theo họa sĩ
► Tranh chân dung theo quốc gia
► Tranh chân dung theo thời kỳ
1.2. Tranh sinh hoạt, tĩnh vật, lịch sử

Tranh tĩnh vật là loại tranh vẽ hoa quả, đồ đật được sắp xếp theo bố cục ánh sáng
thích hợp và được đơi bàn tay họa sĩ thể hiện bằng cảm xúc cá nhân. Thuật
ngữ "tĩnh vật" xuất phát từ từ "stilleven" trong tiếng Hà Lan. Mặc dù tới thế kỷ 16
tranh tĩnh vật mới được truyền bá rộng rãi, thực chất dòng tranh này đã xuất hiện
từ thời cổ đại.
3. Thể loại Điêu khắc, Đồ họa
2.1. Thể loại Điêu khắc
Điêu khắc là một nhánh của nghệ thuật thị giác hoạt động trong ba chiều. Đó là
một trong những nghệ thuật nhựa. Các quy trình điêu khắc bền bỉ ban đầu sử
dụng chạm khắc (loại bỏ vật liệu) và mơ hình hóa (bổ sung vật liệu, như đất sét),
trong đá, kim loại, gốm sứ, gỗ và các vật liệu khác, nhưng từ thời Hiện đại, đã có
sự tự do gần như hồn tồn của vật liệu và q trình. Một loạt các vật liệu có thể
11


12

được gia công bằng cách loại bỏ, chẳng hạn như chạm khắc, lắp ráp bằng
cách hàn hoặc mơ hình hóa, hoặc nung khuôn hoặc đúc.
Điêu khắc trên đá tồn tại tốt hơn nhiều so với các tác phẩm nghệ thuật bằng vật
liệu dễ hỏng và thường đại diện cho phần lớn các tác phẩm cịn sót lại (trừ gốm) từ
các nền văn hóa cổ đại, mặc dù truyền thống điêu khắc trên gỗ có thể đã biến mất
gần như hồn toàn. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm điêu khắc cổ đại đã được vẽ
màu rực rỡ, và các màu sắc này đã bị mất.[1]
Điêu khắc là trung tâm của việc tơn sùng tơn giáo trong nhiều nền văn hóa, và
cho đến những thế kỷ gần đây, những tác phẩm điêu khắc lớn, quá đắt đối với các
cá nhân để tạo ra, thường là một biểu hiện của tôn giáo hoặc chính trị. Những nền
văn hóa mà các tác phẩm điêu khắc của họ đã tồn tại với số lượng bao gồm các nền
văn hóa của Địa Trung Hải cổ đại, Ấn Độ và Trung Quốc, cũng như nhiều văn hóa
ở Trung và Nam Mỹ và Châu Phi.

Truyền thống điêu khắc phương Tây bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại, và Hy Lạp được
coi là nơi sản sinh ra những kiệt tác vĩ đại trong thời kỳ cổ điển. Trong thời trung
cổ, điêu khắc gothic đại diện cho sự đau đớn và đam mê của đức tin Kitô giáo. Sự
hồi sinh của các mơ hình cổ điển trong thời Phục hưng đã tạo ra các tác phẩm điêu
khắc nổi tiếng như David của Michelangelo. Điêu khắc hiện đại đã tránh xa các
quá trình truyền thống và nhấn mạnh vào việc mô tả cơ thể con người, với việc tạo
ra các tác phẩm điêu khắc được xây dựng, và trình bày các vật thể tìm thấy như các
tác phẩm nghệ thuật đã hoàn thành.
2.1. Thể loại Đồ họaLB
Đồ họa là một lĩnh vực truyền thơng trong đó thơng điệp được tiếp nhận qua
con đường thị giác. Thiết kế đồ họa là tạo ra các giải pháp bằng hình ảnh cho các
vấn đề truyền thông.




Đồ họa độc lập (Đồ họa giá vẽ)
Đồ họa in ấn
Đồ họa máy tính

Ở Việt Nam, việc dùng các thuật ngữ đồ họa chỉ là tương đối, bởi việc đặt tên
các thuật ngữ đồ họa là dựa trên ý nghĩa sử dụng của nó. Ví dụ: đồ họa thương
nghiệp, đồ họa vẽ tem, đồ họa quảng cáo vân vân... Và thiết kế đồ họa thực sự là gì
vẫn đang còn là vấn đề tranh cãi. Một số trường đại học vẫn theo quan điểm đào
tạo đồ họa là trang trí gần với hội họa, một số các trung tâm đào tạo về sử dụng
phần mềm đồ họa coi đồ họa là một phần của tin học và một số trường lại tiếp nhận
quan điểm của phương Tây coi đồ họa và một lĩnh vực truyền thông.
Bài 4: Phân tích tác phẩm
1. Lý luận về phân tích tác phẩm
12



13

Phân tích tồn tác phẩm: phân tích các bộ phận để nêu ra nhận định, đánh giá về
toàn bộ tác phẩm, cả nội đung lẫn nghệ thuật (yêu cầu toàn diện).
+ Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề: nội dung, nghệ thuật hay nhân vật
(yêu cầu từng mặt).
Người làm bài căn cứ yêu cầu của đề mà giới thiệu hướng phân tích của bài làm.
- Phân tích từng phần của tác phẩm: Đây là phần trọng tâm tạo thành nội dung cơ
bản của bài làm. Tác phẩm có thể chia làm bao nhiêu bộ phận thì việc phân tích
phải có từng ấy bộ phận. Nếu phân tích theo một vấn đề thì vấn đề ấy có thể chia ra
làm mấy khía cạnh, mỗi khía cạnh phải chiếm một phần của bài làm.
2. Phân tích tác phẩm
 Phân tích tồn tác phẩm: phân tích các bộ phận để nêu ra nhận định, đánh
giá về toàn bộ tác phẩm, cả nội đung lẫn nghệ thuật (yêu cầu toàn diện).




+ Phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ vấn đề: nội dung, nghệ thuật hay nhân
vật (yêu cầu từng mặt).
Người làm bài căn cứ yêu cầu của đề mà giới thiệu hướng phân tích của bài
làm.
- Phân tích từng phần của tác phẩm: Đây là phần trọng tâm tạo thành nội
dung cơ bản của bài làm. Tác phẩm có thể chia làm bao nhiêu bộ phận thì
việc phân tích phải có từng ấy bộ phận. Nếu phân tích theo một vấn đề thì
vấn đề ấy có thể chia ra làm mấy khía cạnh, mỗi khía cạnh phải chiếm một
phần của bài làm.


Kiểm tra
Chương 2:Đại cương nghệ thuật múa
1. Mục tiêu: Học xong chương học sinh nắm những kiến thức lí thuyết cầnthiết
về phương pháp tư duy nghệ thuật, cách thức bố cục chương trình và những kĩ
năng cơ bản để biên tập đề cương hoặc kịch bản các loại chương trình nghệ
thuật.
2. Nội dung của chương
Bài I. Nguồn gốc và sự hình thành của nghệ thuật múa
I.
Nguồn gốc.
Nền nghệ thuật ấy đến nay còn tiếp tục khám phá, đề xướng nhiều thuyết
nguồn gốc ra đời chưa thể khẳng định. Sau đổi mới, hệ thông tin mở, các nhà
nghiên cứu đưa ra nhiều thuyết nguồn gốc để tham khảo, nghiên cứu thực tiễn
nghệ thuật thời nguyên thuỷ.
13


14

Thuyết thứ nhất, nghệ thuật là “ bắt chước” do Aristotte khởi xướng 384
– 322 trước công nguyên. Theo ông, nghệ thuật do con người sáng tạo bằng sự bắt
chước thế giới khách quan, (trang 13 cuốn Nghệ thuật thơ ca, Nhà xuất bản Văn
hoá nghệ thuật – năm 64), Aristotte viết: “sử thi, bi kịch cũng như hài kịch, thơ ca,
đại bộ phận nói chung là những nghệ thuật bắt chước.” Theo nghĩa rộng ơng nói sự
bắt chước của nghệ thuật lấy thế giới tự nhiên bắt chước, tái tạo lại các hiện tượng
tự nhiên xã hội. Thuyết này, Aristotte chỉ đúng về cảm nhận khách quan các hiện
tượng tự nhiên mà nghệ thuật phản ánh, tác động ảnh hưởng biểu hiện qua cảm
xúc. Đây là học thuyết sơ khai về nguồn gốc nghệ thuật. Tính bắt chước ở thời đại
ơng cịn thơ sơ, nghệ thuật mang tính mơ tả hiện thực.
Thuyết thứ hai, nghệ thuật ra đời từ trò chơi du hý, do sự hứng khởi

của con người nghĩ ra những trị chơi bởi thời gian giải trí dư thừa. Thuyết
này, do Kant, Schiller khởi xướng, sau là Markov đầu thế kỷ 20. Những năm ấy, ở
nước ta chưa cho phép phổ cập thuyết này, Nhà thơ Nguyễn Du đồng cảm bằng hai
câu thơ trong truyện Kiều:
Lời quê chấp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Nguyễn Du quan niệm thơ ca là nghệ thuật mua vui du hý, làm phong phú
tâm hồn con người, tâm sự cùng công chúng. Nhà nghệ thuật học Probert Pro nói:
Văn học là trị diễn ngơn ngữ, trong văn học có yếu tố mua vui. Thuyết này, nhìn
vào giá trị nghệ thuật xảy ra các hiện tượng mê hoặc người đọc, người xem hào
hứng quên những vất vả bức xúc đời thường, thậm chí âm nhạc giúp mọi người
giải trí trực tiếp tại chỗ. Thuyết du hý, chỉ ra nghệ thuật là du hý mua vui, biểu hiện
qua hiện tượng chưa nhìn thấy bản chất nghệ thuật.
Thuyết thứ ba, nghệ thuật từ ma thuật mang tính tơn giáo. Những người
khởi xướng: Eduard Bunettylor, Glorage trazet, Trozart từ xa xưa, sau này vào năm
1914, quan niệm trước khi xuất hiện công cụ lao động có ma thuật từ những điệu
hát múa, nhạc cụ xúc cảm, thể hiện tâm linh con người như tiền định. Họ cho rằng
từ tôn giáo ra đời các loại hình nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, ca múa nhạc… sử
dụng biểu trưng nghi lễ trở thành nghệ thuật. Thuyết này, là một phát hiện mới
nhiều người hưởng ứng, chỉ mô tả một cách ngẫu nhiên những biểu tượng tơn giáo,
nghi thức, nghi lễ, cịn nghệ thuật đã ra đời trước những ý niệm nghi lễ.
Thuyết thứ tư, biểu hiện, người khởi xướng Maritime, đến nhà văn Anh Lawrence
khoảng những năm 20 thế kỷ 20 cho rằng: khi viết những nỗi đau đời vào từng
trang sách để mọi người cùng trải nghiệm là biểu hiện trực giác sáng tạo. Nghệ
thuật ra đời từ cảm xúc muốn biểu hiện mình, để mọi người biết tới cuộc sống xã
14


15


hội và cuốn hút họ vào niềm đam mê giải trí. Những thuyết ma thuật, biểu hiện là
biến tướng của nghệ thuật trò chơi du hý, họ phát hiện ra những đặc tính riêng
nghệ thuật và người nghệ sĩ, là con người muốn vươn tới những đỉnh cao trí tuệ
tình cảm khát vọng cái đẹp.
Thuyết thứ năm, tổng sinh lực và sinh lực thừa.
Một nhóm người biên soạn sách giáo khoa cho là học thuyết riêng của bộ
môn Nghệ thuật học Trường Đại học quốc gia Hà Nội đề xuất, (trích trang 8 sách
do Trường Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản). Theo nhóm biên soạn, thuyết tổng
sinh lực và sinh lựa thừa, lý giải nguồn gốc nghệ thuật một cách khoa học nhất, đầy
đủ nhất. Thuyết này, tiếp thu tất cả thuyết trước đây, họ đưa các thuyết đó vào hệ
thống của mình để làm nổi bật nguồn gốc cơ bản nhất của nghệ thuật.
Thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa, dựa trên luận cứ cho rằng: “nguồn gốc
nghệ thuật là con người khi đạt tới trình độ sáng tạo trong lao động bền bỉ đến lúc
làm ra sinh lực thừa, một nguồn sinh lực trên mức đáp ứng nhu cầu sống sinh học,
nảy sinh nhu cầu sống thẩm mỹ, khi đó nghệ thuật từ cái thực dụng bước ra, tạo
nên một hiện tượng độc đáo chỉ riêng lồi người mới có”. Đoạn trích trên, thuyết
này cơng nhận các thuyết nêu ra là đúng nằm trong hệ thống của họ.
Học thuyết nhóm biên soạn trường Đại học quốc gia Hà Nội khởi xướng,
gồm bốn thuyết hợp thành thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa, là thuyết tổng hợp
các luận thuyết. Một lý thuyết nêu ra quá nhiều hệ thống tổng hợp các thuyết,
không biết nên dựa vào hệ thống nào mới hồn hảo. Theo tun ngơn của nhóm
biên soạn thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa là của bộ môn nghệ thuật trường
Đại học quốc gia Hà Nội đề xuất.
Nghiên cứu lại các thuyết nguồn gốc nghệ thuật thời nguyên thuỷ, thì thuyết
tổng sinh lực và sinh lực thừa xuất hiện vào những năm 1860 do Speer đề xướng
phát triển tiếp quan niệm nghệ thuật là trò chơi du hý của Kant, Shiller… lý luận
về sinh lực thừa. Những nhà khởi xướng thuyết tổng sinh lực và sinh lực thừa cho
rằng: khi con người đủ nhu cầu về ăn ở họ chuyển sang hoạt động sáng tạo cao
hơn, nảy sinh hoạt động nghệ thuật. Nguồn gốc nghệ thuật là sự phát triển sinh lực
thừa, do thời gian nhàn rỗi đẽo gọt tượng, vòng đá, bầy trò chơi là bản chất nguồn

gốc nghệ thuật từ trò chơi ở trình độ cao hơn.
Thuyết thứ sáu, nghệ thuật ra đời từ lao động, là thuyết truyền thống theo
quan niệm Marx. Thuyết này, phân tích lao động là quá trình biến đổi con người từ
vượn thành người, phát triển ngôn ngữ giao tiếp. Lao động tạo nhịp điệu, tiết tấu
theo Bucher, Lỗ Tấn: tiếng “dô ta” làm nảy sinh những điệu hị ra đời ngơn ngữ âm
nhạc, những làn điệu dân ca tồn tại cùng các hoạt động văn hoá nghệ thuật.
15


16

Thuyết này phát hiện mối quan hệ cùng tồn tại văn hoá, lao động thời
nguyên thuỷ. Lao động sáng tạo sản phẩm vật chất không thể cho rằng nghệ thuật
ra đời từ lao động. Những người lao động chỉ là lao động sản phẩm của cải vật chất
xã hội, còn các phương thức cải tiến kỹ thuật, quan hệ sản xuất, văn hố nghệ
thuật… thuộc về nhóm người đặc biệt. Nhóm người ấy, xuất hiện trong mọi xã hội
thời đại.
Ngay thời nguyên thuỷ, họ là lớp người không đơn giản lao động chân tay,
săn bắn hái lượm thoả mãn sự sống, họ cịn biết biểu hiện mình bằng vẽ tranh, ca
múa, đẽo gọt đồ trang sức. Nhóm người ấy, ln nghĩ đến cải tiến công cụ, phát
minh sáng kiến, phương thức lao động hiệu quả. Còn những người khác, nghĩ cách
miêu tả hiện thực cuộc sống bằng múa hát. Những nhóm người ấy, ngày nay là bác
học, thiên văn học, địa lý, kỹ sư, kiến trúc sư, nhà văn, nhạc sĩ, biên đạo múa, nhà
biên kịch…
Thời nguyên thuỷ, nhóm người đặc biệt ấy lẫn vào bầy người lao động giản
đơn, săn bắn, hái lượm, kiếm sống nhưng luôn hướng tới thú vui biểu hiện mình
trước đám đơng. Những nhóm người ấy trong cộng đồng nguời nguyên thuỷ, hoạt
động tồn tại giống như nghệ thuật Folklor – nguyên hợp – hỗn đồng – phi lịch sử,
chưa tách khỏi nghệ thuật và mục đích đời sống. Vào những thời đại xã hội phát
triển, nhóm người đặc biệt ấy tách ra thành nhóm người hoạt động riêng từng

chun ngành, thiếu họ khơng có nền văn hoá nghệ thuật, văn minh nhân loại. Dựa
vào thực tiễn hoạt động nghệ thuật thời nguyên thuỷ, tôi đề xướng thuyết thứ bẩy.
Dù nhìn nhận dưới góc độ thời đại nào, các thuyết nguồn gốc bắt nguồn từ
lao động sản xuất, nghệ thuật nguyên thuỷ, chiếu sáng những nhận định khách
quan hoạt động sáng tạo cảm hứng con người. Lao động sản xuất xã hội nguyên
thuỷ biểu hiện hai khả năng:
– Lao động sản xuất phát triển xã hội.
– Biểu hiện mình trong nhóm người đặc biệt.
Khả năng lao động nâng cao nhận thức cải tạo tự nhiên, xây dựng xã hội loài
người, tạo ra ý thức hệ thời đại. Lao động phát triển con người, xã hội, là điều
không thể phủ nhận. Những thành quả lao động tự thân mang tính biểu hiện ở các
cấp độ xã hội, là những cái đẹp. Người nguyên thuỷ biểu hiện cái đẹp đẽo gọt, rìu
đá, vịng đá, tranh tượng, những đường cong hình khối…
Thời đại cơng nghiệp, cơng nghệ, chế tác kim cương, hệ điều hành máy chủ,
nghệ thuật tổng hợp, tư duy đa tầng, đa phương tiện, biểu hiện ký hiệu thơng tin vì
nhu cầu con người, xã hội công nghệ. Những thành quả nghệ thuật ấy, thuộc về
16


17

nhiều nhóm người đặc biệt, sản xuất ra nền văn hố tinh thần nhân loại. Thời
ngun thuỷ, họ là nhóm người có khả năng tự biểu hiện mình, hoạt động vì cái
đẹp cộng đồng xã hội. Nhóm người đặc biệt ấy, là những người có năng khiếu
nghệ thuật, văn học, hội hoạ, khoa học… họ là nguồn gốc ra đời, phát triển nghệ
thuật.
Thuyết thứ bẩy: Nghệ thuật ra đời do nhóm người đặc biệt có năng
khiếu sáng tạo, hoạt động nghệ thuật từ xã hội nguyên thuỷ di truyền đến
ngày nay. Những nhóm người ấy, chủ nhân của mọi giá trị đời sống văn hố tinh
thần nhân loại, cịn số đông hàng triệu triệu người lao động khác không thể rực

sáng như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Newton, Betthoven, Picasso, Michel
Jackson… Nghệ thuật và các hoạt động thượng tầng trí tuệ thuộc về nhóm người
thiên tài, sáng tạo ra các nền văn minh nhân loại ở mọi thời đại.
II. Các học thuyết của Nghệ thuật múa.
1. Bản năng sinh vật.
Trong Giáo trình triết học Mác –Lênin (giáo trình chuẩn quốc gia) gần đây mới
cũng chỉ phân tích hành vi lao động sản xuất của con vật lên hành vi lao động sản
xuất phổ biến của con người- tức từ bản năng sinh vật lên bản năng xã hội- tức là
bản năng có ý thức (1). Cịn vấn đề bản năng và văn hóa với tư cách là một cặp
phạm trù chưa được phát hiện và phân tích sâu. Các cơng trình về văn hóa học
cũng chỉ mới khẳng định rằng, bản năng là cái "vốn có" gắn với sự sống, là cái tự
nhiên, khơng phải là văn hóa, con người cũng như con vật đều có, "văn hóa là sự
chế ngự bản năng". Con vật thì bản năng là cái thống trị, cịn ở con người thì cái
văn hóa là cái chủ đạo, nó điều hịa bản năng và cơ chế xã hội (2). Nhưng vấn đề
cần nghiên cứu là ở chỗ văn hóa (xã hội) và bản năng có phải là một cặp phạm trù
của triết học nhân văn hay khơng, chúng có chuyển hóa qua lại hay khơng?
Có thể khẳng dịnh con người có bản năng sinh vật và bản năng xã hội. Đơi khi
có sự có sự hịa nhập giữa chúng, tức có sự chuyển hóa, khó phân biệt rạch ròi.
Bản năng hay phản xạ bản năng thường là phản xạ tự động từ hệ thần kinh thực
vật như đói thì thèm ăn, khát thì thèm uống. Bản năng này là bản năng sinh vật.
Nhưng các phản xạ này nếu thực hiện vào một giờ nhất định như ăn vào 10 giờ
sáng thì đến giờ đó là thèm ăn, do cảm giác đói gây nên. Thấy chanh thì chảy nước
bọt. Nhưng đó vẫn là cảm ứng và thể hiện nhu cầu bản năng sinh tồn của con
người. Bản năng là vốn có, có khả năng di truyền, nên là "thói quen", nhưng thói
quen thì khơng hẵn là bản năng mà gần như bản năng. Thói quen là do tập luyện
mà thành. Nhưng trong đời sống xã hội thì thói quen do xã hội được tạo nên mang
tính rộng lớn, ở chiều sâu văn hóa xã hội và tác động lâu dài là tập tính xã hội =
17



18

bản năng xã hội. Tập tính hay bản năng xã hội = bản năng văn hóa = "hằng số văn
hóa" là có khả năng "di truyền xã hội, di truyền văn hóa" (2)
2. Theo học thuyết tơn giáo:
3. Học thuyết duy vật.
4. Nghệ thuật múa bắt nguồn từ lao động, cuộc sống con người sáng tạo ra múa.
III. Sự hình thành của nghệ thuật múa.
Nghệ thuật múa là một trong những loại hình nghệ thuật sớm nhất của lồi
người, gắn bó với con người từ thời nguyên thủy. Trải qua tiến trình hình thành,
phát triển văn hóa nghệ thuật của con người, múa hiện diện là một thành tố văn hóa
qua mọi thời kỳ. Trong tiến trình lịch sử ấy, nghệ thuật múa ln phát triển, ngày
một hồn thiện những chức năng, đặc trưng nghệ thuật, hàm chứa bản sắc văn hóa
dân tộc.
Nghệ thuật múa là biểu hiện trình độ, tri thức văn hóa, tư duy thẩm mĩ, sáng
tạo văn hóa, nghệ thuật của các tộc người Việt Nam. Nó tham gia vào nhiều sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, như phong tục, tập quán, đời sống văn hóa tâm linh và lễ
hội. Văn hóa nói chung, nghệ thuật múa nói riêng là thực thể tồn tại trong đời sống
xã hội. Từ đó mang ý nghĩa văn hóa, xã hội và là đối tượng nghiên cứu khoa học
của khoa học xã hội nhân văn, văn hóa học, nghệ thuật học. Chính vì vậy, nghệ
thuật múa là đối tượng chính yếu của các cơng trình nghiên cứu khoa học nghệ
thuật múa.
Nhận biết, thấu hiểu những giá trị, đặc trưng, vai trò của nghệ thuật múa
trong văn hóa, xã hội và tiến trình lịch sử hình thành phát triển một loại hình nghệ
thuật có đặc thù riêng biệt, kể từ thời xa xưa đến ngày nay, nghệ thuật múa đã là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, văn hóa học, nghệ thuật học,
trong đó có nghệ thuật múa. Xuất phát từ tình yêu, trách nhiệm nghề nghiệp, các
nhà khoa học, nghệ sĩ múa đã tiến hành nhiều cơng trình khoa học với các cấp
nghiên cứu khác nhau. Đó cũng là quá trình hình thành đội ngũ lý luận nghiên cứu
nghệ thuật múa, tuy cịn khiêm tốn, nhưng chính đội ngũ này đã gặt hái được

những thành quả nhất định.
Chỉ tính từ thời điểm sau Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
đến nay, ngành nghệ thuật múa đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học,
sách chun khảo nghệ thuật múa và luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về đề tài nghệ
thuật múa đã bảo vệ thành công. Nghệ thuật múa thực sự là đối tượng nghiên cứu
khoa học hấp dẫn, thu hút nhiều nghệ sĩ múa, nhiều nhà khoa học để tâm nghiên
cứu. Theo thống kê chưa đầy đủ, ngành nghệ thuật múa đã có những kết quả
sau: 28 cơng trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp Thành phố, cấp
Tỉnh, cấp ngành, trong đó có các phần, chương, mục về nghệ thuật múa; 5 cơng
trình độc lập chun về nghệ thuật múa, thuộc cơng trình cấp Bộ, cấp thành phố
Hà Nội; 57 cơng trình sách nhiều loại, nhiều nội dung chun ngành về nghệ thuật
18


19

múa; 60 đề tài luận văn chuyên về nghệ thuật múa dân tộc, hiện đại đã bảo vệ
thành công và nhận học vị thạc sĩ, 5 đề tài luận án chuyên về nghệ thuật múa đã
bảo vệ thành công và nhận học vị tiến sĩ…
Từ kết quả trên, có thể kể đến những cơng trình, sách, đề tài, luận văn, luận án có
tính đại diện để minh chứng cho những kết quả nghiên cứu khoa học chuyên ngành
nghệ thuật múa Việt Nam.
II. Khái luận về Nghệ thuật múa
1.Khái niệm Nghệ thuật múa
Múa là gì? Múa là một trong những loại hình nghệ thuật. Múa được ra đời từ rất sớm của loài người. Múa phản ánh các hiện tượng của cuộc sống con người (văn hóa, xã hội) Múa khơng lập lại nguyên xi động tác như kịch, điện ảnh mà phải được cách điệu
hóa và phải tuân theo quy luật của cái đẹp
II. Hình thái của múa
2.1 Múa dân gian:
Múa dân gian là một hình thái múa phổ biến trong nhân dân. Thông qua các
diệu múa, chúng ta thấy nó mang dấu ấn một cách sinh động cuộc sống lao động,

chiến đấu, tình cảm, cách nghĩ và những quan điểm thẩm mĩ của các cộng đồng,
các tộc người, xuất phát từ những điều kiện địa lí, xã hội, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng của các dân tộc khác nhau.
2.2.1 Các loại múa dân gian:
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những điệu múa dân gian của
dân tộc mình. Các dân tộc Việt Nam đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng nghệ
thuật múa q giá. Nhìn từ góc độ nghệ thuật múa, có thể nói di sản múa dân gian
là cơ sở tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi tộc người. Trong một xã hội hiện
đại, khoa học kĩ thuật phát triển, di sản múa dân gian đối với sự phát triển của
ngành múa chuyện nghiệp Việt Nam trở nên rất quan trọng. Muốn đổi mới, cách
tân thì cần phải nghiên cứu, xác định và hiểu đâu là giá trị đích thực cần phải kế
thừa. Nói cách khác, cần phải tìm ra hằng số giá trị của múa dân gian.
Quan sát, nghiên cứu các điệu múa dân gian, chúng ta có thể nhận biết được
thái độ, ý thức, thẩm mĩ trong lao động của người xưa. Những hình ảnh trong chiến
đấu, trong lao động sản xuất, trong các mối quan hệ xã hội, trong phong tục tập
quán, trong đời sống tâm linh... được thể hiện trong múa dân gian có vị trí và ý
nghĩa quan trọng trong đời sống văn hố của các tộc người. Múa dân gian biểu
hiện tri thức văn hoá của quần chúng nhân dân, biểu hiện bản chất múa của văn
hoá dân tộc. Múa dân gian phản ánh sức sáng tạo, tài năng của nhân dân.
Ngoài ra, múa dân gian cịn có tác dụng thiết thực đối với tình cảm và đời sống của
con người. Múa dân gian được thể hiện trong các lễ thức (múa tín ngưỡng). Những
động tác biểu hiện thế giới tâm linh của con người (cầu mong sự che chở, phù hộ
19


20

của các đấng thần linh, trời, Phật... ). Ngoài ra, từ thuở xa xưa, qua các điệu múa,
người dân còn muốn truyền lại các kinh nghiệm lao động sản xuất, săn bắt... Múa
dân gian còn thể hiện những hành vi ứng xử của con người, tạo môi trường không

gian để con người đến với nhau. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong sinh hoạt văn
hoá dân gian ở làng, bản như xoè vòng của dân tộc Thái, xoè chiêng của dân tộc
Tày. Hoặc có thể lấy ví dụ rõ hơn như múa lăm vơng của người Lào. Có những
điệu múa dân gian cũng mang ý nghĩa đạo đức nhưng được thể hiện ở góc độ khác
nhau. Ví dụ một số điệu múa dân gian như múa dô (gắn với tục thờ Tản Viên), múa
dậm (gắn với tục thờ Lý Thường Kiệt), múa cờ lau tập trận (trong hội Hoa Lư),
múa chèo tàu (gắn với tục thờ các tướng của Hai Bà Trưng), hay là múa dân gian
trong hội đền Hùng, hội Gióng (gắn với tục thờ Phù Đổng Thiên Vương). Những
điệu múa đó tuy đơn giản, phức tạp khác nhau, mức độ, quy mô khác nhau tuỳ theo
điều kiện của từng địa phương, từng cộng đồng người... những đều thể hiện tình
cảm của con người, đồng thời qua đó phản ánh những giá trị đạo đức cổ truyền của
nhân dân. Đó là lịng tơn kính và biết ơn với các anh hùng dân tộc. Những giá trị
đó được lưu giữ và tồn tại có tính bền vững trong dân chúng. Bài học đạo đức được
thể hiện qua múa dân gian có ý nghĩa giáo dục đối với các thế hệ; đó là lịng u
nước, cuộc sống tình nghĩa, tình yêu quê hương, thiên nhiên...
Nếu như so sánh múa dân gian người Việt nói chung với múa dân gian của các
nước khác, như múa dân gian Nga chẳng hạn, chỉ nghiên cứu riêng về “cường độ”
(độ mạnh, nhẹ), tiết tấu (nhanh, chậm) đã có sự khác nhau cơ bản. Đa số các bước
chân của múa dân gian dân tộc Việt đều bước đi rất nhẹ nhàng. Có nhà nghiên cứu
cho rằng, do người Việt chủ yếu là cư dân nông nghiệp sống ở đồng bằng, địa hình
bằng phẳng, có thói quen đi chân đất, thích một cuộc sống hiền lành, êm đềm... Vì
thế, phong cách sống của họ đã ảnh hưởng đến bước đi trong múa. Ngược lại, dân
tộc Nga ở xứ lạnh, đương nhiên không ai đi chân không trên tuyết. Đôi giày đối
với họ hết sức quan trọng. Vào mùa đông, đi từ nơi khác về đến trước cửa nhà ,
mọi người đều có thói quen dẫm thật mạnh nhiều lần trên bậc cửa cho tuyết rơi
xuống đất. Thói quen đó đã được đưa vào múa dân gian. Nhiều điệu múa dân gian
Nga, từ đầu cho đến cuối tác phẩm, mơtip chính chỉ là động tác dậm chân. Những
động tác đó được thể hiện ở những cường độ, tiết tấu khác nhau, tạo nên sức hấp
dẫn khác nhau. Nếu so sánh về tiết tấu, nhịp độ thì múa Nga nhanh và mạnh hơn
hẳn múa Việt. Nhanh và chậm đó cũng là biểu hiện sắc thái, tình cảm, thẩm mĩ rất

quan trọng trong nghệ thuật múa, bản sắc dân tộc của múa.
Qua ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng, một trong những đặc điểm của múa dân gian
của người Việt là tính chất nhẹ nhàng, uyển chuyển, chậm rãi.
Do luôn luôn tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ, múa dân gian thường khơng có
một cấu trúc ổn định, hay nói cách khác, đó là cấu trúc mở. Do có cấu trúc mở,
múa dân gian khơng ngừng được bồi đắp và bổ sung những sáng tạo mới của các
thế hệ tiếp theo với mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá của cộng đồng, khu
vực, quốc gia. Những bồi đắp mới, bổ sung mới được dân chúng chấp nhận, lưu
20


21

giữ và sử dụng sẽ trở thành di sản của văn hoá dân tộc, đồng thời là cơ sở, nền tảng
cho những sáng tạo bổ sung của các thế hệ nối tiếp. Cấu trúc mở của múa dân gian
là luôn sẵn sàng đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc một sự điều chỉnh mới
cho hoàn chỉnh hơn. Do những sáng tạo của múa dân gian mang tính tự nguyện,
thâu nhận vào mình một cách tự nhiên, tự nguyện, tự giác nên khác với múa
chuyên nghiệp, múa dân gian không cần phải xác định “quyền tác giả”. Tác giả của
múa dân gian chính là số đơng dân chúng, là nhiều vùng, nhiều thời đại.
Múa dân gian là một hình thái múa phổ biến trong nhân dân. Thông qua các diệu
múa, chúng ta thấy nó mang dấu ấn một cách sinh động cuộc sống lao động, chiến
đấu, tình cảm, cách nghĩ và những quan điểm thẩm mĩ của các cộng đồng, các tộc
người, xuất phát từ những điều kiện địa lí, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng
của các dân tộc khác nhau. Sự khác nhau đó xét về một khía cạnh nào đó cũng
chính là sự thể hiện bản sắc riêng của từng dân tộc.
Múa dân gian được cách điệu từ cuộc sống lao động, sinh hoạt... của nhân dân.
Trong kho tàng múa dân gian Việt Nam mà cho đến nay chúng ta còn lưu giữ
được, chiếm số lượng lớn là các điệu múa thể hiện trong lao động nơng nghiệp. Do
đó, có thể nói, múa người Việt thể hiện cuộc sống của các cư dân nơng nghiệp. Ví

dụ như múa gặt lúa, múa chạy cày, múa xúc tép, múa soi đèn bắt cá,...
2 Múa dân gian do mô phỏng hiện thực nên mặc dù đã được cách điệu hố vẫn
mang tới cho người xem những thơng điệp sát thực. Điều này được thể hiện cả hai
chiều. Chiều thứ nhất là tự thận điệu múa được “tác giả dân gian” ghi nhận trong
thực tế, từ đó sáng tạo nên. Chiều thứ hai là người thể hiện (người trình bày điệu
múa) cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố sáng tạo cá nhân
trong quá trình thể hiện cũng mang lại những tín hiệu chân thực và có sức hấp dẫn.
Ví dụ, khi quan sát điệu múa dệt vải. Đây là điệu múa dành cho nữ, vì thế, tính
chất của điệu múa là rất mềm mại, nhịp nhàng, nữ tính. Hai bước chân đối nhau,
tiến lên đều đặn. Nhìn động tác này, nếu ai biết chút ít về nghề dệt vải sẽ hình dung
thấy hai chân cô gái như đang “đạp cửi” (bộ phận chuyển sợi dọc của tấm vải). Hai
tay mở ra, thu về trước bụng, đổi nhau trên dưới đều đặn, mắt nhìn gần theo dõi hai
bàn tay chuyển động. Người xem có thể nhận ra ngay hành ảnh cô gái đang ngồi
bên khung cửi dệt vải với hai bàn tay nhịp nhàng đưa thoi. Có thể xem xét một ví
dụ khác, đó là múa chèo đị. Mặc dù múa tay khơng, nhưng ngưịi xem có thể cảm
nhận được ngay khơng gian của vùng sơng nước. Với dáng người khi đổ về phía
trước, khi ngả về phía sau, người xem có thể tưởng tượng được hình ảnh của dịng
sơng, mái chèo và con thuyền. Các tộc người ở khu vực Tây Nguyên có động tác
đánh chiêng cũng thể hiện rất rõ đặc điểm này. Cũng như động tác “chèo đị”,
khơng có đạo cụ, động tác “đánh chiêng” chỉ dùng tay không nhưng khi múa,
người xem có thể hình dung được ngay hình ảnh trong thực tế.
Một số diệu múa phản ánh cuộc sống lao động, mặc dù đã được cách điệu hoá
nhưng đều rất gần với đời thực. Từ đó có thể nói rằng, tính hiện thực là một trong
những đặc điểm của múa dân gian.
21


22

Như chúng tôi đã nêu ở trên, ở Đan Mạch, người ta đã sử dụng động tác giặt áo của

phụ nữ để sáng tạo nên một điệu múa dân gian. Nội dung, hình ảnh nhận biết trong
các điệu múa dân gian đều rất gần gũi với con người, nó thể hiện một cách sinh
động tình yêu cuộc sống của họ đố với cuộc sống lao động, với thiên nhiên...
Thông qua hình ảnh các điệu múa dân gian có thể cho chúng ta những thơng tin về
lịch sử, về địa lí, về mơi trường sinh thái.
Việt Nam có nhiều sơng nổi tiếng như sông Hồng (ở miền Bắc), sông Hương (ở
miền Trung), sơng Cửu Long (ở miền Nam)... Ngồi ra cịn có rất nhiều con sơng
khác được phân bố khắp nơi như: sông Đáy, sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông
Đà Rằng,... Có lẽ, bắt nguồn từ đặc điểm địa lí Việt Nam có nhiều sơng ngịi mà
động tác múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến trong múa dân gian của các dân
tộc từ Bắc vào Nam. Những công việc lao động trên sông nước được bộc lộ ở
những thao tác và kĩ năng khác nhau. Vì thế, trong múa cũng biểu hiện ở những
cường độ và tiết tấu khác nhau.
Ở một số nước châu Âu, mùa đơng thường có băng, tuyết. Người dân đi lại trên
đường đều tỏ ra vội vã, khẩn trương. Có lẽ, họ di chuyển nhanh để tránh giá lạnh
ngoài trời, nếu phải đứng ở đâu chờ đợi ai, thường thì mọi người khơng chịu đứng
im. Và, để cho cơ thể ấm nóng lên, họ đã liên tục dậm chân xuống mặt đất. Họ
dậm chân để cho tuyết rơi khỏi áo khoác, đồng thời để tránh rét. Đây là hình ảnh
quen thuộc đối với các nước xứ lạnh. Có lẽ, chỉ ở các nước băng giá người dân mới
có những động tác như vậy. Theo chúng tơi, đây là lí do khởi nguồn cho một số
điệu múa dân gian châu Âu.
Trong đời sống văn hoá tâm linh của nhân dân có một loại múa đó là múa tín
ngưỡng. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là múa tín ngưỡng dân gian. Loại múa này
tương đối phổ biến ở nhiều tộc người. Múa tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi
lễ. Ví dụ, người Việt có múa tín ngưỡng hầu bóng, cịn gọi là múa lên đồng. Đây
cũng là một hình thái múa dân gian rất độc đáo. Loại múa này tồn tại, phát triển
trong quá trình hình thành tục thờ Mẫu và đạo Mẫu ở Việt Nam. Múa hầu bóng là
một bộ phận của chương trình lễ hội và nghi lễ đạo Mẫu. Nhìn từ góc độ ín ngưỡng
thì động tác, điệu bộ của người múa thể hiện tếng nói, ý nguyện của thánh thần.
Nét độc đáo của múa hầu bóng đó là (theo quan niệm dân gian) phần xác (ông

đồng, bà đồng) là của con người, còn phần hồn là của thánh thần. Điều này nói lên
sức tưởng tượng của con người rất lớn. Con người và thánh thần có thể gần gũi,
hồ quyện với nhau. Đây là lí do làm cho các động tác múa trong hầu bóng trở nên
phóng khống và tự do hơn. Nếu nhìn từ góc độ nghệ thuật thì đây là yếu tố rất đặc
biệt của múa hầu bóng. Ơng đồng, bà đồng, ngồi những động tác múa mang tính
quy ước cần phải thể hiện, cịn có những động tác ngẫu nhiên xuất hiện ở thời điểm
mà người ta gọi là nhập đồng (nhập hồn). Ông đồng, bà đồng thoạt đầu ngồi trong
tư thế tĩnh, tập trung cao, người ngoài có cảm giác họ quên hết mọi sự vật xung
quanh, chỉ còn tiếng đàn phách của cung văn và lời khấn tụng của con nhang, đệ
tử. Dần dần, ông đồng, bà cốt bắt đầu đảo vòng, xoay tròn từ thắt lưng trở lên. Từ
22


23

vòng nhỏ đến vòng to, từ tiết tấu chậm đến nhanh Âm nhạc, tiết tấu, lời ca càng
dồn dập, thôi thúc, ông đồng, bà đồng càng xoay, đảo mạnh, càng ngây ngất, say
sưa. Họ hất khăn đội đầu ra và thời điểm đó được gọi là nhập đồng (nhập hồn).
Động tác múa lúc này khơng cịn giữ được quy cách, khn định như ban đầu nữa.
Tính ngẫu hứng được biểu hiện ở mức độ rất cao, có nghĩa là cùng một thời điểm,
con người vừa trình diễn, vừa sáng tạo. Như vậy, trong môi trường nghi lễ, trong
“thời điểm mạnh” cùng với sự tác động của khách quan (âm thanh, đàn, nhạc, khói
hương và những người hầu đồng) thì ơng đồng, bà đồng đã ngẫu hứng, sáng tạo
mạnh hay nhẹ tuỳ theo cường độ, sắc thái, tiết tấu trong thời điểm đó. Tất nhiên,
yếu tố chính vẫn là năng lực cảm nhận và biểu hiện của ông đồng, bà đồng. Như
vậy, trong hoàn cảnh này, múa dân gian đã được đẩy lên ở một mức độ cao hơn.
Cấu trúc của múa hầu bóng thuộc loại múa đơn (solo). Đây là múa một người
nhưng phải thể hiện những nhân vật, những giá đồng khác nhau. Vì thế, nó địi hỏi
ở người thể hiện phải có kĩ thuật, kĩ xảo nhất định. Khác với múa dân gian trong
lao động, trong sinh hoạt... loại múa hầu bóng khơng phải ai cũng có thể múa được

mà nó địi hỏi cần có một “năng khiếu”, một sự luyện tập tương đối cơng phu,
thậm chí phải có “căn đồng” mới có thể múa được. Ngồi lí do tín ngưỡng, múa
hầu bóng phải tạo ra sức hấp dẫn, thu hút mọi người. Sức hấp dẫn là một trong
những chức năng của nghệ thuật, do đó, có thể nói, múa hầu bóng cịn mang yếu tố
biểu diễn. Múa hầu bóng có mơi trường hoạt động đặc biệt như chúng tơi đã phân
tích ở trên. Nhìn từ góc độ chun mơn thì đây là điều kiện khách quan để kích
thích sự “thăng hoa” của người trình diễn.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đạo Mẫu, thờ Mẫu là một tục lệ đẹp của cộng
đồng người Việt. Không chỉ ở miền Bắc mà ở miền Trung và miền Nam cũng đều
có thờ Mẫu.
Hiện nay, những hoạt động lễ hội tương đối phát triển, thu hút khá đông quần
chúng nhân dân ở khắp mọi nơi. Múa hầu bóng là một trong những sinh hoạt văn
hố, tín ngưỡng khơng chỉ diễn ra vào những dịp lễ hội mà cịn phát triển bên
ngồi của lễ hội, do một số cá nhân tự tổ chức. Đây là một hiện tượng múa dân
gian rất độc đáo.
Ngoài múa hầu bóng của cộng đồng người Việt cịn có một số điệu múa trong nghi
lễ của một số tộc người như: người Mường có múa mỡi, múa mo, múa sắc bùa;
người Tày có múa tung cịn trong hội lồng tồng (xuống đồng), múa then, múa đi
săn thú, múa chèo thuyền; người Thái có múa tín ngưỡng kinpangthen; người Dao
có múa trong lễ cấp sắc, hát múa đám cưới, đám tang, múa Tết nhảy (nhì ang chằm
đao); người Chăm có múa trong lễ hội Chà Và, múa trong lễ bóng, múa nhảy lửa,
múa gậy, múa roi; người Khơ me có múa thày cúng, múa trống lễ (trống xayăm)
cúng trăng, múa dây bơng (slatho) v.v..
Như phân tích ở phần trên, múa dân gian có một cấu trúc mở, nó khơng bất biến và
ln thu nhận những yếu tố mới vào mình. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều thế
hệ, nó được bồi đắp, bổ sung cho phù hợp và ngày càng hoàn chỉnh hơn..
23


24


2.1.1 Múa dân gian sinh hoạt2.2.1.2 Múa biểu diễn:
2.2.2 Đặc điểm của múa dân gian.
Một số đặc điểm của múa dân gian
* Múa dân gian Nga
* Những điệu múa dân gian Tây Bắc
Múa xoè Tây Bắc, Múa sạp
Múa khèn
2.3 Múa tín ngưỡng - tơn giáo:
2.3.1 Múa tín ngưỡng – tơn giáo:
2.3.2 Các loại múa tơn giáo:
2.3.3 Đặc Điểm múa tín ngưỡng, tơn giáo:
2.4 Múa cung đình:
2.4.1 Các loại múa cung đình.
2.4.2 Tính chất:
2.4.3 Đặc điểm:
Bài III. Nội dunh- hình thức- thể loại NT múa
I. Nội dung.
II- Các hình thức múa.
2.1 Múa đơn(solo).
2.2 Múa đôi (Duo) hay múa đối thoại.
2.3 Múa ba(Trio).
2.4 Múa bốn(Quatro).
2.5 Múa tập thể (ensemble)
2.6 Thơ múa (Poém).
2.7 Tổ khúc múa.
2.8 Vũ kịch (Balet).
III. Thể loại.
1. Múa dư hứng:
+ Múa trữ tình

+ Múa tính cách
2. Múa hành động.
3. Múa minh họa.
IV. Bài học thực tiễn trong việc tổ chức thực hiện hoạt động múa ở địa
phương.
Chương 3: Nghệ thuật sân khấu
24


25

1. Mục tiêu: Học xong chương học sinh nắm được những kĩ năng cần thiết cho cơng
tác quản lí, điều hành việc luyện tập, và tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật
2. Nội dung của chương
Bài I. Lịch sử SK kịch nghệ thế giới.
*Nguồn gốc sự hình thành:
- Thoạt kỳ thủy, La Mã
- Thời Trung Cổ.
- Phục Hưng.
- Kịch cổ Hy Lạp
- Thời trung cổ thời đại phục hưng..
- Kịch tác giả William Shakespears (cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17).
-Kỷ nguyên thương mại
-Kịch nghệ đi vào thế kỷ 20
- Nguồn gốc.
1.1 Tìm ăn của lồi người:
1.2 Gạ lứa
1.3 Đánh nhau
1.4 Tơn giáo
1.5 Bộc lộ tình cảm

1.6 Khả năng bắt chước của con người
1.7 Du hý
1.8 Điệu bộ diễn – kể
1.9 Lao động
Bài II. Thể loại Sân khấu.
2.1 Chèo
2.1.1. Chèo sân đình
2.1.2. Chèo cải lương
2.1.3. Chèo chái hê
2.1.4. Chèo hiện đại:
2.2.Tuồng
-Tuồng cung đình Huế
-Tuồng Quảng Nam
-Tuồng Bình Định
2.3 Cải lương
2.4 Kịch dân ca
25


×