Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nghệ thuật giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.74 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BÀI TIỂU LUẬN
Chủ đề :

Nghệ thuật giao tiếp, ứng
xử của người Việt Nam
Giảng viên: Hoàng Thị Mai Sa

Họ và tên sinh viên: Phạm Thị Thảo
Lớp: 16CNA09
Mã SV: 411259161126


P

heurbach đã từng nói: “Con người cá thể khơng chứa bản chất con người ở
trong mình…Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong thể thống
nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là con người
theo nghĩa thơng thường cịn con người trong giao tiếp với đồng loại, trong sự thống
nhất giữa Tơi với Anh mới chính là Thượng đế ”. Thực tế cuộc sống đã thêm một lần
nữa chứng minh cho chúng ta thấy rõ về điều đó. Nghệ thuật giao tiếp là một trong
những bản sắc văn hóa nhân loại nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Nó
được duy trì qua lịch sử, làm thành cái quý báu của nền văn hóa dân tộc. Quan trọng
hơn, nó sẽ tồn tại song hành cùng với sự tồn tại của nhân loại, là phương tiện để con
người tự hoàn thiện bản thân mình, dể cùng nhau tiến bước vào nền văn minh mới.
Văn hoá ứng xử của người việt đã được hình thành trong quá trình giao tiếp
qua 4000 năm dựng nước và giữ nước. Cái đẹp trong văn hoá ứng xử được cha ông ta
lưu giữ, truyền lại từ đời này sang đời khác. Ngày nay mặc dù xã hộ đã có nhiều thay
đổi nhưng giao tiếp ứng xử vẫn có tầm quan trọng đặc biệt. Nó tạo nên các mối quan
hệ đẹp có văn hóa, có đạo đức trong cộng đồng dân cư, trong tình bạn trong tình yêu,


trong gia đình, trong nhà trường, trong kinh doanh, đàm phán- thương lượng khi có
những bất cồng có thể dẫn đến xung đột.
* Đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt Nam
1. Xét về thái độ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm của người Việt
Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Như đã nói, người Việt Nam nơng nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng
việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng
đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp, và
do vậy rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai đặc điểm:
- Từ góc độ của chủ thể giao tiếp thì người Việt Nam có tính thích thăm viếng. Đã
thân nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần chăng nữa, lúc rảnh rỗi họ
vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng khơng cịn là nhu cầu công việc (như ở phương Tây)
mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm quan hệ.
- Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà,
dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng tiếp đón
chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất:
Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, khơng bằng đói bữa. Tính hiếu khách

1


này càng tăng lên khi ta về những miền quê hẻo lánh, những miền rừng núi xa xôi.
Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu như ngược lại
là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay nhắc đến. Sự tồn tại
đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích giao tiếp và rụt rè) này bắt nguồn từ
hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Khi đang ở
trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, nơi tính cộng đồng ngự trị thì người Việt
Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp. Cịn khi ở ngồi cộng đồng, trước những người
lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách
tưởng như trái ngược nhau ấy ko hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những

mơi trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho
cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.
2. Đặc điểm trọng tình nghĩa ghi dấu trong văn hố giao tiếp của người Việt
Xét về quan hệ giao tiếp, văn hóa nơng nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người
Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử:Yêu nhau yêu cả đường đi/ ghét
nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu bổ ba/ghét nhau cau sáu bổ ra làm
mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn/ghét nhau quả bồ hòn
cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề/một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…
Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng vẫn
thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn
thiên về tình hơn: Một bồ cái lý khơng bằng một tý cái tình. Người Việt Nam ln coi
trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời. Ai nhớ mình một chút đều phải nhớ ơn, ai bảo
ban một chút cũng phải tôn làm thầy – khái niệm “thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ,
thầy võ, thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, thầy địa lý, thầy phù thủy…
3. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thể quen ưa tìm hiểu, quan sát,
đánh giá…
Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình (bố mẹ cịn hay
mất, đã có vợ/ chồng chưa, có con chưa, mấy trai mấy gái…) là những vấn đề người
Việt Nam thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu này khiến cho người nước ngồi
có nhận xét là người Việt Nam hay tị mị. Đặc tính này – dù gọi bằng tên gì đi nữa –
chẳng qua cũng chỉ là một sản phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người
khác, mà muốn quan tâm thì phải biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối sống trọng tình
cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hơ riêng, nên nếu khơng có đủ thơng
tin thì khơng thể lựa chọn từ xưng hơ cho thích hợp được. Biết tính cách, biết người
để lựa chọn từ xưng hơ cho phù hợp: Chọn mặt gửi vàng; Tùy mặt gửi lời/tùy người
gửi của. Khi khơng được lựa chọn thì người Việt Nam dùng chiến lược thích ứng một
cách linh hoạt: Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy.
2



4. Tính cộng đồng trong văn hố giao tiếp của người Việt
Tính cộng đồng cịn khiến người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc
điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch, rách cho thơm; Trâu chết
để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với năng lực giao tiếp: Lời hay nói ra để lại
dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng
Chính vì q coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: Ở đời muôn sự
của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem chuông đi đấm nước người,
không kêu cũng đánh ba hồi lấy danh; Một quan tiền công không bằng một đồng tiền
thưởng. Ở làng quê, thói sỹ diện thể hiện trầm trọng qua tục lệ ngơi thứ nơi đình
ttrung và tục chia phần. Do danh dự (sỹ diện), các cụ già vẫn có thể to tiếng nhau vì
miếng ăn: Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Lối sống trọng danh dự dẫn
đến cơ chế tạo tin đồn, tạo nên dư luận như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng
đồng để duy trì sự ổn định của làng xã.
5. Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hịa
thuận
Tính tế nhị khiến cho người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vịng vo tam quốc”,
khơng bao giờ mở đầu tực tiếp, đi thẳng vào đề như người phương Tây. Truyền thống
Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải xấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa ruộng vườn.
Cũng để đưa đẩy tạo khơng khí là truyền thống miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thời
gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của “miếng trầu” được thay thế bởi chén
trà, điều thuốc lá…
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy trong các
mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng khi nói năng: Ăn có nhai,
nói có nghĩ; Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, khơng
biết thì dựa cột mà nghe; Người khơn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng
nửa lo… Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm là
thiếu tính quyết đốn, nhưng đồng thời giữ được sự hịa thuận, khơng làm mất lịng ai.
Người Việt Nam rất hay cười, nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao

tiếp của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả lúc ít chờ đợi nhất.
Tâm lý ưa hịa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn: Một sự
nhịn là chín sự lành; Chồng giận thilf vợ bớt lời, cơm sơi nhỏ lửa có đời nào khê…
Tham khảo thêm bài viết: Làm thế nào để giao tiếp tốt hơn?
6. Người Việt có hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú
Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: trong khi các ngôn ngữ phương
Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt cịn sử dụng một số
lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hơ, và những danh từ thân tộc này
có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hơ này có các đặc điểm:
3


- Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng
như bà con họ hàng trong một gia đình.
- Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống này khơng có những từ
xưng hơ chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao
tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, cách xưng hơ có kkhi thể hiện
được hai quan hệ khác nhau: chú-con, ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng
tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…)
- Thứ ba, thể hiện tính tơn ti kỹ kưỡng: người Việt Nam xưng và hơ theo ngun tắc
xưng khiêm hơ tơn (gọi mình thì khiêm nhường, cịn gọi đối tượng giao tiếp thì tơn
kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai cùng xưng là em và cùng gọi nhau
là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên
riêng khi chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng tên của những người bề
trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngồi xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam trước
đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai phải hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có động
đến từ đó thì phải nói chệch đi).
Nghi thức trong cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống tình cảm và linh
hoạt nên người Việt Nam khơng có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi
trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể có một cách cảm ơn, xin lỗi

khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá(cảm ơn khi được
quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được đon tiếp), Quý hóa quá (cảm ơn khi
khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),Cháu được như hôm nay là
nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…
Văn hóa nơng nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian nên người Việt Nam
phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Trong khi đó
văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kỹ các lời chào theo thời gian như
chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối…
* Giáo dục văn hoá giao tiếp trong học đường
Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường khơng nên chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà
trường (tất nhiên nhà trường chịu trách nhiệm chính) mà cịn phải mở rộng phạm vi từ
gia đình đến xã hội. Ngay từ nhỏ, gia đình đã có vai trị rất lớn trong việc hình thành
văn hóa giao tiếp cho con cháu. Ơng, bà, cha mẹ là những thầy cô giáo đầu tiên hướng
dẫn cách giao tiếp có văn hóa cho con, cháu (đi chào, về hỏi, gọi dạ, bảo vâng một
cách có lễ phép).
Bài học vào đời ấy sẽ được tiếp tục củng cố và phát triển thêm với những nội dung
phong phú, mức độ cao hơn ở các bậc học tiếp theo. Phải thấy rằng giáo dục văn hóa
giao tiếp là khơng hề giới hạn bởi cấp học nào, bởi thời gian, không gian nào mà cần
phải được tiến hành ở tất cả các bậc học, ở mọi lúc, mọi nơi, phải tiến hành một cách

4


đồng bộ, nhất quán, tiến hành có nội dung, có kế hoạch, có phương pháp và thật kiên
trì thì mới có hiệu quả.
Giao tiếp ứng xử có văn hố, có đạo đức là cơ sở để có những mối quan hệ thân thiện
trong cộng đồng, quan hệ tình nghĩa trong gia đình, quan hệ hợp tác trong kinh doanh
là cơ sở để tạo ra mội trường xã hội có lơi cho sức khoẻ của con người. Trong cuộc
sống hàng ngày người Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề giao tiếp, người Việt Nam
do thiên về tình hơn về lý nên khi giao tiếp con người luôn đề cao vai trị của việc xử

dụng ngơn ngữ đẻ đảm bảo cho sự đồn kết nhất trí, cho cuộc sống vui vẻ hài hồ. Vì
vậy ca dao Việt Nam có câu:
“Lời nói chăng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau’’

5


Người Việt Nam luôn nhắc nhở nhau khi giao tiếp, nói năng phải cân nhắc lựa
chọn, tránh kiểu hành xử khiếm nhã làm mất lịng người khác. Ơng cha ta ln dạy
con cháu: “Ăn phải nhai nói phải nghĩ”
Hơn nữa người Việt ln coi trọng nghĩa tình, những lúc khó khăn, có cơng có việc
người ta đến với nhau vì tình chứ khơng phải vì vật chất, nên trong văn hoá ứng xử
Người Việt rất coi trọng tinh thần, đặt tinh thần lên hàng đầu.
Cái đẹp trong văn hoá ứng xử của con người Việt Nam là cái đẹp mang tính nhân dân,
nói phục vụ đại đa số nhân dân. Cái đẹp mang tính dân tộc, nó phản ánh cái đẹp riêng

của con người Việt Nam. Cái đẹp đó cịn mang tính nhân loại vì nó là tia sáng mà tất
cả mọi người trên hành tinh này muốn hương tới. Cái đẹp đó đậm đà bản sắc dân tộc,
bởi bản sắc đó là cái lõi, cái hồn đất, hồn nước, tinh hoa của dân tộc.
Trong những đặc tính mang đậm nhất sắc thái truyền thống của ứng xử xã hội thì thế
ứng xử là nét hoa tinh tế nhất trong các nét đặc sắc. Đặc biệt nét văn hóa này được
biểu hiện rất rõ được cô đọng và đúc kết trong hai loại hình nổi bật của văn hố dân
gian Việt Nam đó là ca dao và tục ngữ.
Thế ứng xử trước hết là sự thể hiện triết lý sống của một cộng đồng người và đã
mặc nhiên trở thàng một quan niệm sống quan niêm lý giải cuộc sống và mặc nhiên
cũng trở thành lối sống, nếp sống lối hành động của cả một cộng đồng người.

6



Văn hố ứng xử cũng như cách ứng xử có văn hố được hình thành từ rất sớm và ngày
càng phong phú. Nó bao gồm hàng loạt hệ thống: ứng xử trong gia đình, trong họ mạc
làng xã, giữa các dong họ, giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa tình u đơi lứa
Đạo lý của nhân dân ta trong giao tiếp ứng xử là:
-

Quan hệ trên dưới tơn kính.

-

Quan hệ cha con chí hiếu.

-

Quan hệ vợ chồng ân tình.

-

Quan hệ anh em thuận hồ.

-

Quan hệ bạn bè tình nghĩa

Như vậy giao tiếp bước đầu đã bắt đầu bộc lộ vai trị của mình, cũng chính vì
thế mà năng lực giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đanh
giá con người. Quan niệm của người ngày xưa:
Vàng thì thử lửa, thử than,
Chng kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.

Hay:
Một thương tóc bỏ đi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có dun.
Cịn trong thời đại mới, tìm hiểu, đánh giá một con người họ thường căn
cứ vào cách nói năng, xử sự, ách thức giao tiếp…từ buổi đầu gặp gỡ, hay trong việc
tuyển dụng công chức, phỏng vấn là một trong những nội dung quan trọng khơng thể
thiếu được, nó quyết định việc tuyển dụng hay từ chối đối với thí sinh này. Cũng
chính vì coi trọng giao tiếp nên người Việt Nam rất thích giao tiếp. Việc giao tiếp này
chủ yếu thể hiện ở hai điểm: Từ gốc độ của mình - chủ thể giao tiếp, người Việt Nam
có tính thích thăm viếng. Đã là người Việt Nam, đã thân với nhau, thì cho dù hàng
ngày có gặp nhau ở đâu, gặp nhau bao nhiêu lần đi nữa, những lúc rãnh rỗi họ vẫn đến
thăm hỏi nhau. Thăm viếng nhau ở đây không phải là vì nhu cầu cơng việc hay những
mục đích riêng tư mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt chặt thêm
quan hệ.
Một điều dễ nhận thấy trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, con người ngồi
việc gặp gỡ nhau thực tế, họ cịn trao đổi với nhau, hỏi thăm nhau qua điện thoại di
động, điện thoại bàn, qua mạng Intesnet …Điều đó cũng dể hiểu với nền văn minh
ngày nay.
Với đối tượng tiếp nhận thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách đến nhà, dù
lạ hay quen, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu cũng cố gắng tiếp đón một
7


cách chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, dành cho khách các “tiện nghi” tốt nhất
của nhà mình, các đồ ăn ngon nhất: “Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi”, bởi lẽ “Đói
năm, khơng ai đói bữa”.
Thế nhưng, với việc thích giao tiếp con người Việt Nam lại có một đặc tính hầu như
ngược lại là rất hay rụt rè - điều mà người nước ngoài rất hay nhắc đến. Với người
Phương Tây, tự nhiên là bản tính bẩm sinh của họ.
Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau này của người Việt Nam trong

giao tiếp cũng là điều dễ hiểu vì nó bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt
Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Hai tính cách tưởng như trái ngược nhau ấy lại
khơng hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những mơi trường khác nhau,
chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất, là biểu hiện cho cách ứng xử linh hoạt
của người Việt Nam.
Một điều khác với người Phương Tây, trong quan hệ giao tiếp, người
Việt Nam lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử cho mình. Khi thì:
Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.
Khi lại:
Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Rồi :
Yêu nhau củ ấu cũng tròn
Ghét nhau củ bồ hòn cũng méo.
Có lúc:
Yêu nhau mọi việc chẳng nề
Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Thường thì:
u nhau chín bỏ làm mười
Sơng sâu cũng lội, đị đầy cũng sang.
Là quật của mn đời.
Người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cân nhắc tình
với lý thì tình được đặt cao hơn:
Một bồ cái lý khơng bằng một tý cái tình

Hay:
-

Đưa nhau đến trước cửa quan

Bên ngồi là lý bên trong là tình…
8


Người Việt Nam ln nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở
đời .Trong gia đình thì:
-

Vợ chồng là nghĩa ở đời
Ai ơi chớ nói những lời thiệt hơn.

Ngồi xã hội ai giúp mình một tý gì cũng đều tôn làm thầy. Mặt khác, khi giao tiếp
người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá…Tuổi tác, quê quán,
trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình… là những điều người Việt Nam
thường hay quan tâm. NgườiViệt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến
người khác, mà muốn quan tâm thì cần phải biết rõ hồn cảnh. Hơn nữa khi giao tiếp
đều có những cách xưng hơ phù hợp với đối tượng, nếu khơng tìm hiểu đầy đủ thơng
tin thì làm sao lựa chọn từ xưng hơ cho thích hợp được. Biết tính cách, biết người để
lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: “Tùy mặt gửi lời, tùy người gửi của” hay
“chọn mặt gửi vàng”
Trong trường hợp không được quyền lựa chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược
thích ứng một cách linh hoạt: “Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài” rồi “Đi với bụt mặc áo cà
sa, đi với ma mặc áo giấy”.
Đặc biệt khi giao tiếp, người Việt Nam rất coi trọng danh dự: “Tốt danh hơn lành áo”,
hay “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”. Danh dự người Việt Nam gắn với năng
lực giao tiếp : Lời nói để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều
người, tạo nên tai tiếng. Chính vì q coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc
bệnh sĩ diện:
-


Đem chuông đi đấm nước ngồi,
Khơng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.

Ở chốn làng quê, thói sĩ diện thể hiện trầm trọng trong tục lệ ngơi thứ nơi đình trung
và tục chia phần.Các cụ già bảy tám mươi tuổi, tuy ăn không ăn được nhưng vì danh
dự vẫn có thể to tiếng với nhau vì miếng ăn: “Một miếng trong làng bằng một sàng xó
bếp”.Từ lối sống trong danh dự, trọng sĩ diện dẫn đến cơ chế tin đồn, tạo nên dư luận
như một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã.
Người Việt Nam sợ dư luận tới mức nhà văn Lê Lựu đã viết trong tiểu thuyết Thời xa
vắng: “Người ta chỉ dám dựa theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi
theo ý mình”.
Dư luận nó quyết định đến cuộc sống của mỗi người và nhiều khi còn là bước ngoặt
làm thay đổi cuộc đời, sự nghiệp của mỗi con người chúng ta nữa.
Trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị , ý tứ và trọng sự hịa thuận.
Điều đó khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vịng vo tam quốc” khơng bao
giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Khi giao tiếp, nghệ
9


thuật vào đề là rất quan trọng. Nó hầu như quyết định đến 50% kết quả của những
cuộc giao tiếp ấy, dù là ở phương diện nào.
Muốn mượn chiếc xe máy để đi công chuyện, người mượn không vào thẳng vấn đề
mà lại cứ “rào trước, đón sau”, ví như: Chiều có bận gì khơng? Có định đi đâu khơng
vậy? mình có thể mượn xe của bạn một lát có được khơng?...Hay muốn biết người bạn
gái đang nói chuyện với mình đã có người u chưa các chàng thường nói khéo: Anh
nói chuyện với em thế này có làm phiền em khơng? lỡ người u của em trơng thấy
thì sao?
Với người ngày xưa lại có lối tỏ tình hóm hỉnh như:
- Cơ kia cắt cỏ một mình,

Cho anh cắt với chung tình làm đơi.
Cơ cịn cắt nữa hay thơi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Hay:
- Đến đây mận mới hỏi đào,
Vườn hồng đã có lối vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối, nhưng chưa ai vào.
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi
trọng các mối quan hệ. Nó tạo nên một thói quen đắn đo, cân nhắc kỹ càng khi nói
năng:
- Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói
Hay:
- Biết thì thưa thốt, khơng biết thì dựa cột mà nghe
Rồi:
- Người khơn ăn nói nữa lời,
Để cho người dại nữa mừng, nữa lo.
Để tránh phải quyết đốn, và đồng thời để khơng làm mất lòng ai, để giữ được sự
hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một cử chỉ quan trọng
trong thói quen giao tiếp của người Việt. Nhiều khi chỉ ánh mằt, nụ cười ban đầu
nhưng đã bộc lộ được điều muốn nói và bao giờ cũng để lại ấn tượng khó phai.
Tâm lý trọng hịa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn:
- Một sự nhịn là chín sự lành
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, một đời không khê.

10


Cuối cùng, để hoạt động giao tiếp diễn ra, người Việt Nam có một

phương tiện biểu đạt đó là hệ thống nghi thức lời nói, nó rất phong phú.
Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hơ tiếng Việt. Trong khi các ngôn
ngữ khác (Phương tây và Trung hoa) chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt,
ngồi các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất là phong phú do nhiều biến thể),
còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh-em; bà-cháu; chúcháu…) để thay thế cho họ hàng và những danh từ thân tộc này có xu hương lấn át các
đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này mang lại giá trị như: tăng thêm tính chất thân
mật hóa, trọng tình cảm, xem mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong
một gia đình. Nó cịn có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao. Trong hệ thống từ
xưng hơ này khơng có cái “tơi” chung chung. Quan hệ xưng hơ phụ thuộc vào tuổi tác,
địa
vị

hội,
khơng
gian,
thời
gian
giao
tiếp…
Ngồi ra nó cịn thể hiện tính tơn ti kỹ lưỡng. Người Việt Nam xưng hơ theo ngun
tắc xưng nghiêm, hơ tơn (gọi mình thì khiêm nhường cịn gọi đối tượng giao tiếp thì
tơn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng nhau xưng là em và
đều
gọi
nhau

chị…
Trong giao tiếp, cách nói lịch sự cũng rất là phong phú. Do truyền thống nặng về tình
cảm và tính linh hoạt nên người Việt Nam không dùng những từ cảm ơn, xin lỗi khái
quát có thể dùng cho mọi trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng

hô, đối với mỗi người ta có một cách xưng hơ khác nhau thì trong việc cảm ơn, xin
lỗi, mỗi trường hợp cũng có một cách thể hiện khác nhau: Cho con xin (cảm ơn khi
nhận quà); Bác chu đáo quá, anh chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm); Ai thế này
(cảm ơn khi có người lâu ngày khơng đến nhà chơi); Tất cả là nhờ chị ấy (cảm ơn khi
được giúp đỡ)…Hay muốn hỏi, muốn biết điều gì thì thường nói: làm phiền, làm ơn…
Với lĩnh vực nghi thức chào hỏi, trong khi người phương Tây phân biệt kỹ các lời
chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay…thì người Việt Nam lại phân
biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm. Điều đó cho thấy rõ
sự khác biệt giữa văn hóa gốc nơng nghiệp, sống ổn định (nên vị trí xã hội và tình cảm
là quan trọng) với văn hóa gốc du mục luôn hoạt động (nên thời gian là quan trọng)…
Như vậy, tìm về với nghệ thuật giao tiếp là hành trình tìm về với cội nguồn, về với cái
đẹp. Chính nét văn hóa ấy đã bồi đắp tâm hồn ta khơn lớn, giúp chúng ta sống tự tin
hơn, nhân văn hơn, nhân bản hơn...
Nhân loại coi trọng ứng xử như một tiêu chuẩn khẳng định kiến thức. Khi một hoa
hậu được mọi người tơn vinh, ngồi những tiêu chí về sắc đẹp, gương mặt, hình thể,
thì kết quả của phần thi ứng xử luôn tạo nên sức nặng quan trọng để giành chiến
thắng. Nói rộng hơn, cách ứng xử là nền tảng văn hóa, là vẻ đẹp cao sang của tâm
hồn, muốn có được địi hỏi phải có sự un bác cùng với bản lĩnh và tài năng. Muốn
làm giàu, có thể chỉ vài năm, nhưng để có nếp sống hay cách ứng xử có văn hóa có thể
phải trải qua nhiều năm tháng học hành và tiếp thu nghiêm chỉnh.

11


Ai cũng muốn mình đối đáp thơng minh, ứng xử khéo léo, lịch thiệp. Nhưng trong
cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn luôn phải nghe những lời tục tĩu, thô lỗ, vẫn gặp
khơng ít kẻ ngụy biện để che đậy thói hư, tật xấu của mình. Có một chun gia nhận
định rằng: "Những kẻ trộm cắp khơng hề có khái niệm về sự xấu hổ và không hề đọc
sách. Những gã ăn nói lỗ mãng, đánh chửi vợ con, ứng xử thơ thiển cũng rất ít đọc
sách. Họ khơng có lịng tự trọng nên củng khơng biết tơn trọng người khác, kể cả

những người thân yêu của họ!”. Nhận định trên của vị chun gia khơng hồn tồn
đúng trong mọi trường hợp, nhưng điều mà tơi tâm đắc nhất chính là nhận xét của ơng
ta; "Họ khơng có lịng tự trọng nên cũng không biết tôn trọng người khác". Thiết nghĩ,
muốn được mọi người tôn trọng, trước hết phải biết tơn trọng mình, sau đó phải biết
tơn trọng người khác. Đã có một sự thật là khơng thiếu người có bằng cấp cao nhưng
sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực xã hội, thậm chí ngay lĩnh vực chun mơn làm nên tấm
bằng cũng chưa phải đã sâu sắc, thuyết phục được đồng nghiệp. Ngược lại, nhiều
người chẳng có bằng cấp gì mà thơng thái, sâu sắc khiến mọi người phải nể phục.
Sống giữa cộng đồng dân cư, tôi nhận ra một điều có khi thường ngày ít ai để ý: Văn
hóa khơng phải là một vấn đề cao xa, mà từ trong cách ứng xử tử tế với nhau trong
cuộc sống đời thường. Văn hóa có những cấp độ khác nhau, có lĩnh vực địi hỏi trình
độ "hàn lâm, cao sang quyền q” nhưng nói chung tính văn hóa bắt đầu từ lòng chân
thành đốỉ với nhau, giản dị, trung thực và thấm đẫm tình người. Chẳng hạn như đến
ngày sinh nhật của người bạn thân nên có một lời chúc tốt đẹp, một giỏ hoa đẹp để
tặng, một món quà lưu niệm nhỏ thay lời chúc mừng, thế mà đã có mấy ai nhớ đến?
Một cuộc viếng thăm khơng được hẹn trước vào cuối giờ tan ca, khi gia chủ đã mệt
nhừ người, có nên chăng? Ngay cả việc nhỏ như cách gọi, cách trả lời điện thoại sao
cho có văn hóa mà khơng phải ai cũng biết. Cách gọi, cách trả lởi điện thoại cộc lốc
không một lời thưa gửi, tạo sự bực bội khó chịu cho người nghe khơng cịn là chuyện
cá biệt. Lại có người nói năng q lời, nói nhiều, nói dai đến mức khơng cần biết
người nghe có muốn nghe hay khơng. Hút thuốc lá trong phòng làm việc, trên toa xe,
trong rạp hát, nơi công cộng như chốn không người, bất chấp lời phàn nàn, sự khó
chịu của những người xung quanh. Chúng ta hiện nay đang đau đầu, khó chịu về
những cử chỉ bất lịch sự diễn ra xung quanh ta, đặc biệt ở lớp trẻ mới lớn, lớp người
đang chịu ảnh hưởng nhiều của mặt trái của cơ chế thị trường, chạy theo lối sống ích
kỉ, vụ lợi, chủ nghĩa cá nhân mà quên đi lẽ sống cao đẹp "mình vì mọi người" mà ông
cha ta bao đời để lại. Bây giờ không hiếm trường hợp gặp người già đến nhà, con cái
không chào, lên xe buýt, thanh niên tranh chỗ ngồi, khơng nhường cho người già, phụ
nữ có con nhỏ. Nói tục, chửỉ bậy, chửi thề trước đơng người cũng là những biểu hiện
khơng có văn hóa. Những kẻ bất lịch sự không chỉ thể hiện họ không tôn trọng người

khác mà chính họ thiếu lịng tự trọng, đã nêu ra một hình ảnh xấu về bản thân trước
mặt người khác. Những cách hành xử như vừa nêu là những biểu hiện rất thiếu vãn
hóa, khơng thể chấp nhận trong giao tiếp xã hội.

12


Lấy ví dụ về lời chào hỏi khi gặp gỡ người quen, chúng ta chào chứng tỏ mình đã
nhận ra họ, kèm theo lời chào có thể là cái bắt tay, mỉm cười hay theo phong tục Châu
Âu, có thể ơm hơn nếu hai bên tình cảm gắn bó, thân mật. Lời chào hỏi liên quan đến
những quy ước nhất định, chịu ảnh hưởng của những đặc điểm văn hóa dân tộc, đặc
biệt có liên quan đến địa vị xã hội của hai người. Nó được thể hiện như sau: theo tuổi
tác người trẻ chào người già trước, theo địa vị xã hội người có địa vị thấp chào trước
người có địa vị cao hơn, kết hợp hình thức chào với mức độ thân mật và gắn với đặc
điểm ván hóa dân tộc: nắm tay nhau, bá vai, vỗ vai nhau, ôm hôn,… cũng như thời
gian gặp gỡ, mới gặp hay lâu ngày rồi, với môi trường gặp gỡ ở ngồi phố, nơi cơng
cộng hay tại gia đình, ở ngồi phố cần kín đáo hơn, ở gia đình thân mật, cơi mở hơn.
Mục đích và ý nghĩa của lời chào hỏi chính là chúng ta tự đặt mình trong hệ thống của
cách xử thế đã được quy định và được xã hội chấp thuận. Tục ngữ có câu: “Lời chào
cao hơn mâm cỗ", vậy mà có những người quen biết nhau, khi ra đường gặp nhau cố
tình làm ngơ để khỏi chào hỏi, có những thầy giáo, cơ giáo, là những người được
Đảng và Nhà nước ta giao trọng trách dạy dỗ học sinh những điều hay, lẽ phải để trở
thành người tốt, người có ích cho xã hội, vậy mà ứng xử kém đến nỗi học sinh cúi đầu
chào mà thầy giáo dửng dưng xem như không thấy, coi việc chào hỏi là nghĩa vụ của
học sinh, cịn mình là "bề trên" nên khơng cần chào lại. Đó là biểu hiện của bất lịch
sự, ứng xử khơng có văn hóa. Phép lịch sự dạy chúng ta tơn trọng người khác, bất kể
người đó có tuổi tác, địa vị xã hội, nghề nghiệp, giới tính, tài sản, cuộc sốhg riêng tư
của họ như thế nào đi nữa. Đó chính là một nghệ thuật sống tế nhị và ứng xử có văn
hoá. Người cấp trên, người tài giỏi tỏ ra khiêm tốn với người chung quanh, với người
cấp dưới, chủ động chào hỏi, chuyện trị với họ, chứng tỏ mình đánh giá cao họ. Nói

đến đây, tơi lại nhớ đến hai câu thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh: "Biển vẫn cậy mình dài
rộng thế; Vắng cánh buồm một chút vội cơ đơn".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về văn hóa ứng xử. Cảm hóa, khoan
dung, độ lượng là một trong những đặc điểm trong văn hóa ứng xử của Người. Thái
độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người được coi là nét chủ đạo trong, triết lí
nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân, văn hóa ứng xử của Người vừa ân cần, niềm nở, vừa thân ái gần gũi, khi sai
sót thì nhắc nhở nhẹ nhàng hoặc phê bình kịp thời, nghiêm khắc mà vẫn khoan dung,
độ lượng, lay động, cảm hóa lịng người. Chính nhờ sự giản dị, tế nhị trong cách ứng
xử đã làm cho tất cả mọi người, dù địa vị, thành phần xuất thân như thế nào chăng
nữa, khi tiếp xúc với Người đều để lại trong lịng mình ấn tượng sâu sắc bằng sự nể
trọng, chia sẻ, tôn vinh bởi sức cảm hóa cuốn hút từ chính đạo đức, nhân cách, phép
ứng xử văn hóa của Người.
Sức lay động cảm hóa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có tiềm ẩn yếu tố khách quan, nhưng
bên cạnh đó là yếu tố chủ quan được thể hiện trong văn hóa ứng xử của Người. Trong
phép ứng xử, với sự tinh tế mẫn tiệp, Người đã cố gắng khỏa lấp các khoảng cách, đã
đạt tới đỉnh điểm của mối tương đồng, đẩy xa những tính khác biệt để đạt được mục
13


tiêu phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có lợi cho sự nghiệp chung. Bởi thế, Người
đã quy tụ được các bậc sĩ phu yêu nước, những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống vinh hoa
phú quý để phục vụ đất nước. Người đã thuyết phục cụ Bùi Bằng Đồn, ngun
Thượng thư Bộ Hình làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội; cụ Phan Kế Toại, nguyên
Khâm sai Bắc Kì, làm Phó Thủ tướng. Lường trước những khó khăn của cuộc kháng
chiến chống Pháp, Người đã thuyết phục một số nhà trí thức Việt kiều như; GS. Trần
Đại Nghĩa, GS. Đặng Văn Ngữ… về nước phục vụ cho Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Người chỉ rõ: "Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của
nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước củng tràn đầy, vì độ
lượng của nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn cũng như cái chén, cái đĩa cạn".

Người rất tin tưởng quý trọng nhân dân, nên trong giao tiếp ứng xử với dân, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ: "Đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân
chứng, ta phải có một thái độ mềm dẻo, khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trân trọng
nhân cách của người ta". Riêng đối với những người lầm đường, lạc lối hay đã từng
cộng tác với bên kia trận tuyến, Người yêu cầu: "Không nên đào bới những chuyện cũ
ra làm án mới. Đối với những người không nguy hỉểm lắm, thì nên dùng chính sách
cảm hóa khoan dung".
Vị Chủ tịch nước còn vậy, thử hỏi sao mỗi người chúng ta không học tập được một
phần nhỏ nào trong cách ứng xử và nhân cách của Người? Vì sao trước đây, xã hội ta
còn nghèo, mức sống vật chất thấp mà con người thướng yêu nhau, chia sẻ và cảm
thông cho nhau. Khác với ngày nay, đời sống chung đã được cải thiện khá nhiều,
nhưng phẩm chất đạo đức và lối sống của khơng ít người đã bị tha hóa, suy đồi dẫn
đến nạn quan liêu, tham nhũng nặng nề đến nỗi trở thành "quốc nạn".
Mong rằng qua cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" mà Đảng và Nhà nước ta phát động thực hiện, giá trị văn hóa ứng xử của Chủ
tịch Hồ Chí Minh sẽ ln sống mãi với thời gian, là hành trang quý giá để Đảng và
Nhà nước ta vận dụng chủ trương mở cửa hội nhập, "Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước", để cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là thực hiện tự phê bình và phê bình, xây dựng văn
hóa ứng xử được hiện thực hóa trong cuộc sống, để coi người đối với nhau, với xã hội,
với đất nước tốt hơn, tử tế hơn, công bằng hơn và chính trực hơn.

14



×