Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

(Luận văn thạc sĩ) khả năng sinh sản của tổ hợp lai giữa lợn nái f1 (landrace x yorkshire), f1 (yorkshire x landrace) được phối với đực duroc và pidu nuôi tại trại chăn nuôi xã thượng lan, việt yên, bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.54 KB, 75 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN ĐỨC HƯNG

KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA TỔ HỢP LAI
GIỮA LỢN NÁI F1(LANDRACE × YORKSHIRE),
F1(YORKSHIRE × LANDRACE) ĐƯỢC PHỐI VỚI
ĐỰC DUROC VÀ PIDU NUÔI TẠI TRẠI CHĂN
NUÔI XÃ THƯỢNG LAN, VIỆT YÊN, BẮC GIANG
Chuyên ngành:
Mã số:

Chăn ni
60.62.01.05

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. Nguyễn Hồng Thịnh

2. PGS.TS. Đinh Văn Chỉnh

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan
và chưa từng dùng để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn đã được cám
ơn và các thơng tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.


Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Hưng

i


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn,
tơi đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, sự
giúp đỡ, động viên của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hồn thành luận văn, cho phép tơi được bày tỏ long kính
trọng và biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Hoàng Thịnh và
PGS. TS. Đinh Văn Chỉnh – Giảng viên khoa Chăn nuôi – Học viện Nơng
nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và
tạo điều kiện cho tơi trong suốt q trình học tạp và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ long biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo, Bộ
môn Di truyền – Giống gia súc, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nơng nghiệp Việt Nam đã tận
tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập, thực hiện đề tài và hồn thành luận văn.

Tơi xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Văn Nguyệt, chủ trang trại
chăn nuôi tại xã Thượng Lan, Việt Yên, Bắc Giang đã giúp đỡ và tạo điều
kiện cho tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi và giúp đỡ tơi về mọi mặt, động viên khuyến khích tơi hoàn thành luận văn./.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Hưng

ii


MỤC LỤC

Lời cam đoan................................................................................................................................... i
Lời cảm ơn....................................................................................................................................... ii
Mục lục.............................................................................................................................................. iii
Danh mục viết tắt.......................................................................................................................... v
Danh mục bảng............................................................................................................................. vi
Danh mục hình............................................................................................................................. vii
Trích yếu luận văn..................................................................................................................... viii
Thesis abstract............................................................................................................................. ix
Phần 1. Mở đầu.............................................................................................................................. 1
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................ 1


1.2.

Mục đích của đề tài...................................................................................................... 2

Phần 2. Tổng quan tài liệu....................................................................................................... 3
2.1.

Cơ sở sinh lý sinh sản của con cái, các chỉ tiêu đánh giá và các yếu tố

ảnh hưởng....................................................................................................................... 3
2.1.1.

Cơ sở sinh lý sinh sản của con cái.................................................................... 3

2.1.2.

Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất của con lợn nái................................. 5

2.1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.................6

2.2.

Tình hình nghiên cứu trong nước và ngồi nước................................... 12

2.2.1.

Tình hình nghiên cứu ngồi nước.................................................................... 12


2.2.2.

Tình hình nghiên cứu trong nước..................................................................... 15

Phần 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu........................................................ 19
3.1.

Đối tượng nghiên cứu............................................................................................. 19

3.2.

Địa điểm, thời gian, điều kiện nghiên cứu.................................................... 19

3.3.

Nội dung nghiên cứu............................................................................................... 19

3.4.

Điều kiện chăm sóc ni dưỡng........................................................................ 19

3.5.

Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 20

3.5.1.

Năng suất sinh sản của lợn nái.......................................................................... 20


3.5.2.

Sinh trưởng của lợn con và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg lợn con cai sữa
22

3.6. Xử lý số liệu.......................................................................................................................... 22

iii


Phần 4. Kết quả và thảo luận................................................................................................ 23
4.1.

Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh sản............................... 23

4..2.

Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L)............................... 24

4.3.

Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực

Duroc và PiDu.............................................................................................................. 31
4.4.

Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực

giống Duroc và PiDu qua các lứa đẻ 38
4.5.


Sinh trưởng lợn con và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg lợn con cai sữa
51

Phần 5. Kết luận và kiến nghị.............................................................................................. 56
5.1.

Kết luận............................................................................................................................ 56

5.2.

Kiến nghị......................................................................................................................... 56

Tài liệu tham khảo...................................................................................................................... 57

iv


DANH MỤC VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

CS:

Cai sữa

Du/D:


Duroc

F1(LY)/F1(L×Y):

F1(Landrace × Yorkshire)

F1(YL)/F1(Y×L):

F1(Yorkshire × Landrace)

KL:

Khối lượng

L:

Landrace

SS:

Sơ sinh

TA:

Thức ăn

TTTA:

Tiêu tốn thức ăn


Y:

Yorkshire

v


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn cho lợn.................................................. 20
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y)

và F1(Y×L) phối với đực Duroc và PiDu.................................................... 23
Bảng 4.2. Năng suất sinh sản chung của lợn nái F 1(L×Y) và F1(Y×L)...........25
Bảng 4.3. Năng suất sinh sản của lợn nái F1 (L×Y) và F1(Y×L)phối với đực
Duroc và PiDu.......................................................................................................... 32
Bảng 4.4. Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực Du
và PiDu ở lứa 1....................................................................................................... 39
Bảng 4.5. Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực Du
và PiDu ở lứa 2....................................................................................................... 40
Bảng 4.6. Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực Du
và PiDu ở lứa 3....................................................................................................... 41
Bảng 4.7. Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực Du
và PiDu ở lứa 4....................................................................................................... 42
Bảng 4.8. Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) phối với đực Du
và PiDu ở lứa 5....................................................................................................... 43
Bảng 4.9. Sinh trưởng lợn con và tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa ......52

vi



DANH MỤC HÌNH

Hình 4.1. Số con/ổ của lợn nái F1(L×Y) và F1(L)................................................ 27
Hình 4.2. Khối lượng/con của lợn nái F1(L×Y) và F1(L)................................. 29
Hình 4.3. Khối lượng/ổ của lợn nái F1(L×Y) và F1(L)...................................... 30
Hình 4.4. Số con/ổ của lợn nái F1(L×Y) và F1(L) phối với đực Duroc
và PiDu........................................................................................................................ 34
Hình 4.5. Khối lượng/con của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L)phối với
đực Duroc và PiDu................................................................................................ 35
Hình 4.6. Khối lượng/ổ của lợn nái F1(L×Y) và F1(L) phối với đực Duroc

và PiDu........................................................................................................................ 36
Hình 4.7. Số con đẻ ra/ổ từ lứa 1 đến 5 của lợn nái F1(L×Y) và F1(L) phối

với đực giống Duroc và PiDu......................................................................... 44
Hình 4.8. Số con đẻ ra sống/ổ từ lứa 1 đến 5 của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L)

phối với đực giống Duroc và PiDu.............................................................. 45
Hình 4.9. Số con cai sữa/ổ từ lứa 1 đến 5 của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L)
phối với đực giống Duroc và PiDu.............................................................. 46
Hình 4.10. Khối lượng cai sữa/ổ từ lứa 1 đến 5 của lợn nái F1(L×Y) và
F1(L) phối với đực giống Duroc và PiDu............................................ 49
Hình 4.11. Tăng khối lượng lợn con từ sơ sinh đến cai sữa (g/ngày)..........53
Hình 4.12. Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa......................................................... 54

vii


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN

Tên tác giả: Nguyễn Đức Hưng
Tên Luận văn: Khả năng sinh sản của tổ hợp lai giữa lợn nái
F1(Landrace × Yorkshire), F 1(Yorkshire × Landrace) được phối với đực Duroc
và PiDu nuôi tại Trại chăn nuôi xã Thượng Lan, Việt Yên, Bắc Giang.

Ngành: Chăn nuôi

Mã số: 60.62.01.05

Tên cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiêp
Việt Nam Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được năng suất sinh sản của lợn nái lai F 1(Landrace × Yorkshire) và
F1(Yorkshire × Landrace) phối với đực Duroc và PiDu nuôi trong điều kiện trang trại.

- Đánh giá được sinh trưởng của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa và
tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1 kg lợn con cai sữa.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại trang trại chăn nuôi xã Thương Lan,
Việt Yên, Bắc Giang từ 08/2014 đến 07/2015 nhằm đánh giá khả năng sản suất
của lợn nái F1 (LxY) phối với đực Duroc và PiDu. Nghiên cứu được theo dõi
đánh giá năng suất sinh sản của 4 tổ hợp lai Du x F 1(LxY), PiDu x F1 (LxY), Du
x F1 (YxL) và PiDu x F1(YxL) với 1020 ổ đẻ từ lứa đẻ 1 đến 5; đánh giá sinh
trưởng của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa và tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra
1 kg lợn con cai sữa với tổng số 12 ổ đẻ, mỗi tổ hợp lai 03 ổ đẻ.

Kết quả chính và kết luận
Năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) đều đạt tương đương nhau với
số con đẻ ra sống/ổ đạt cao nhất ở tổ hợp lai PiDu x F 1 (YxL) (10,85 con/ổ) và đạt thấp
nhất ở tổ hợp lai PiDu x F1 (LxY) (10,66 con/ổ); số con cai sữa/ổ đạt cao nhất ở tổ hợp lai
PiDu x F1(YxL) (10,28 con/ổ) và đạt thấp nhất ở tổ hợp lai Du x F 1(YxL) (10,00 con/ổ); khối

lượng cai sữa/ổ đạt cao nhất ở tổ hợp lai PiDu x F 1(YxL) (62,49 kg) và đạt thấp nhất ở tổ
hợp lai Du x F1(YxL) (62,00 kg). Năng suất sinh sản của lợn nái F 1 (L×Y) và F1(Y×L) phối
với đực Duroc và PiDu qua các lứa đẻ đều đạt và hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh
sản của lợn nái, tức là tăng dần từ lứa 1 đến lứa 4 hoặc 5, sau đó giảm dần. Tăng khối
lượng lợn con từ sơ sinh đến cai sữa đạt cao nhất ở tổ hợp lai giữa nái F 1(Y×L) với đực
PiDu đạt 239,24 g/ngày. Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa tổ hợp lai giữa nái F 1(Y × L)
với đực Duroc là cao nhất đạt 5,89 kg lợn cai sữa còn tổ hợp lai giữa nái F 1(L × Y) với
đực Duroc là thấp nhất đạt 5,20 kg lợn cai sữa.

viii


THESIS ABSTRACT

Master candidate: Nguyen Duc Hung
Thesis title: Reproduction performance of hybrid combinations between
F1(Landrace × Yorkshire), F1 (Yorkshire × Landrace) sows and Duroc, PiDu boars
raised in Thuong Lan community, Viet Yen district, Bac Giang province.

Major: Animal Science
Code: 60.62.01.05
Educational organization: Vietnam National University of
Agriculture (VNUA) Research Objectives
- Evaluate reproductive productivity of hybrid F1(Landrace × Yorkshire) and
F1(Yorkshire × Landrace) sows with Duroc and PiDu boars under farm conditions.

- Evaluate the growth of piglets from birth to weaning and the feed
conversion ratio to produce 1 kg of weaner.
Materials and Methods
The study was conducted at pig farm, Thuong Lan community, Viet Yen, Bac

Giang from 08/2014 to 07/2015 in order to evaluate reproductive productivity of the
F1(Landrace x Yorkshire) and F1(Yorkshire x Landrace) sows with PiDu and Duroc boars.
4 hybrid combinations Du x F1(L×Y), PiDu × F1 (L×Y), Du × F1 (Y×L) and PiDu × F1 (Y×L)
with 1020 litters from 1 to 5 were studied to evaluate the reproduction performance and
the growth of piglets from birth to weaning and the feed conversion ratio to produce 1 kg
of weaned with a total of 12 litters, 03 litters for each hybrid combinations.

Results and conclusions
Reproductive performance of F1(L×Y) and F1(Y×L) sows are achieved
similar to the piglets born alive/litter combinations highest in PiDu x F1(Y×L)
(10.85 piglets/litter) and was lowest in PiDu × F1(L×Y) (10.66 piglets/litter);
number piglets weaned/litter combinations hybrid highest in PiDu x F1(Y×L)
(10.28 piglets/litter) and was lowest in Du × F1(Y×L) (10.00 piglets/litter); weaning
piglets weight/highest litter in PiDu x F1(Y×L) (62.49 kg) and was lowest in Du x
F1(Y×L) (62.00 kg). Reproductive performance of F1(L×Y) and F1(Y×L) sows in
collaboration with Duroc and PiDu boars through parities are achieved and fully
consistent with the law of reproductive sows, that mean ascending from age 1 to
age 4 or 5, then subside. ADG of piglets from birth to weaning highest in hybrid
combinations between F1(Y×L) sows with PiDu boars reached 239.24 g/day.
FCR/kg piglets weaned hybrid combinations F1(Y×L) sows between with the
highest Duroc 5.89 kg weaners also hybrid combinations between F1 (L×Y) sows
with Duroc 5.20 kg is the lowest gain of weaners.

ix


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta có những bước
chuyển dịch tích cực, từ chăn ni nhỏ lẻ, phân tán sang chăn ni tập trung

theo mơ hình trang trại, gia trại, ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật, tăng
hiệu quả kinh tế. Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2015,
đàn lợn trên cả nước có 27,7 triệu con, tăng 3,7%; sản lượng thịt lợn hơi đạt
3,5 tấn, tăng 4,2% (Tổng cục Thống kê). Trong chiến lược phát triển chăn
nuôi từ năm 2001 đến 2020, nước ta đặt mục tiêu, đàn lợn tăng 32% vào năm
2010, 38% vào năm 2015 và trên 42% vào năm 2020.
Trong những năm gần đây, nhu cầu thịt lợn trên thị trường trong nước và
xuất khẩu đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng: tỷ lệ nạc cao, mỡ thấp, mỡ dắt,
thịt có màu sắc đẹp, thơm ngon… trong khi đó, các giống lợn nội nước ta chủ
yếu là các giống có năng suất thấp, tỷ lệ mỡ cao nên không đủ đáp ứng nhu cầu
tiêu dung. Để đáp ứng nhu cầu đó thì việc thay đổi cơ cấu đàn giống bằng biện
pháp nhập các giống lợn ngoại, tiến hành cho nhân thuần và lai tạo để tạo ra đàn
con lai thương phẩm ni thịt có năng suất, chất lượng thịt và tỷ lệ nạc cao. Gần
đây, nhiều giống lợn ngoại như Landrace, Yorkshire, Duroc, Pietrain … đã được
nhập vào nước ta để nuôi, nhân giống thuần chủng và lai tạo thành những tổ
hợp lai 3 máu, 4 máu cho năng suất, chất lượng thịt cao, thích nghi tốt với điều
kiện chăn nuôi ở nước ta, được ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả kinh tế.

Bắc Giang là tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có nghề chăn nuôi
lợn phát triển khá mạnh. Theo số liệu thống kê kinh tế - xã hội Bắc
Giang tính đến thời điểm 01/10/ 2015 tồn tỉnh Bắc Giang có 1,244 triệu
con lợn, tăng 2,4% so với năm 2014. Theo xu hướng phát triển của
tỉnh, ngành chăn nuôi và cụ thể là chăn ni lợn đang có hướng giảm
dần chăn ni nhỏ lẻ, tăng chăn ni theo hình thức trang trại, gia trại.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và
thế giới, người chăn nuôi cần áp dụng quy trình chăn ni tiên tiến, đàm
bảo an tồn trong chăn nuôi, áp dụng các tiến bộ di truyền, thay đổi cơ
cấu giống, chọn lọc, … để nâng cao năng suất và chất lượng thịt.
1



Xuất phát từ nhu cầu của thị trường, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Khả năng sinh sản của tổ hợp lai giữa lợn nái F 1(Landrace
× Yorkshire), F1(Yorkshire × Landrace) phối với đực Duroc và PiDu tại
trại chăn ni xã Thượng Lan, Việt n, Bắc Giang” góp phần nâng cao
hiệu quả trong chăn nuôi lợn, tạo ra được sản phẩm thịt lợn có chất
lượng cao, an tồn, đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dung.

1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá được năng suất sinh sản của lợn nái lai
F1(Landrace × Yorkshire) và F1(Yorkshire × Landrace) phối với đực
Duroc và PiDu nuôi trong điều kiện trang trại.
- Đánh giá được sinh trưởng của lợn con từ sơ sinh đến cai
sữa và tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1 kg lợn con cai sữa.

2


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ SINH LÝ SINH SẢN CỦA CON CÁI, CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH
GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
2.1.1. Cơ sở sinh lý sinh sản của con cái
Sinh sản là một quá trình sinh học hết sức phức tạp của cơ thể động vật,
đồng thời là chức năng tái sản xuất của gia súc, gia cầm. Sinh sản hữu tính là
hình thức sinh sản cao nhất và phổ biến nhất ở cơ thể động vật, đó là q trình
có sự tham gia của hai cơ thể đực và cái, tiền đề của sự sinh sản hữu tính là q
trình giao phối. Sinh sản hữu tính là một q trình mà ở đó con đực sản sinh ra
tinh trùng, con cái sản sinh ra trứng, thụ tinh giữa tinh trùng và trứng hình thành
hợp tử, hợp tử phát triển trong tử cung của con cái, cuối cùng sinh ra đời con.
Khả năng sinh sản được biểu hiện qua nhiều chỉ tiêu: đẻ nhiều con, nhiều lứa, tỷ

lệ sống khi đẻ và khi cai sữa, độ đồng đều, khả năng tiết sữa, thời gian động dục
trở lại của lợn cái sau khi cai sữa. Sinh sản của gia súc là một hình thái của sức
sản xuất và cũng biểu hiện đặc trưng của tính di truyền của mỗi phẩm chất
giống. Ở lợn cũng như ở gia súc, gia cầm khác chức năng tái sản xuất chỉ có thể
được bắt đầu khi con vật đã thành thục về tính, tức là khi con vật bắt đầu có
phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. Ở gia súc, tuổi thành thục về tính
được ghi nhận bằng các biểu hiện: bộ phận sinh dục phát triển tương đối hoàn
chỉnh, con cái rụng trứng lần đầu, con đực sinh tinh. Tinh trùng và trứng gặp
nhau có khả năng thụ thai, các đặc tính sinh dục thứ cấp xuất hiện, con vật xuất
hiện các phản xạ sinh dục: con cái động đực, con đực có phản xạ giao phối.

Thời gian thành thục về tính của lợn cái từ 6 - 8 tháng tuổi, tuổi
thành thục về tính ở các giống lợn có sự khác nhau: lợn nội từ 4 - 5
tháng, lợn lai (lợn nội × lợn ngoại) 5 - 6 tháng tuổi, lợn ngoại 7 - 8
tháng tuổi. Tuổi thành thục về tính cịn phụ thuộc vào thời tiết, khí
hậu, chế độ dinh dưỡng cho lợn nái trong giai đoạn nuôi hậu bị.
Tuy nhiên người ta chỉ đưa vào khai thác khi lợn đã thành thục về thể vóc,
đó là tuổi mà con vật có sự phát triển về ngoại hình và thể vóc đạt tới độ hồn
chỉnh, xương đã cốt hóa hồn tồn, tầm vóc ổn định, thời gian thành thục về thể
vóc thường chậm hơn thành thục về tính, nghĩa là sau khi con vật đã thành thục
về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn lên. Chính vì vậy, trong chăn ni lợn

3


khơng nên cho lợn cái sinh sản q sớm vì nếu lợn cái phối giống sớm khi cơ
thể chưa có sự phân hóa chất dinh dưỡng, ưu tiên cho sự phát triển của bào
thai, ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cơ thể mẹ, do đó sự phát triển của
bào thai cũng bị ảnh hưởng. Kết quả là mẹ yếu, con nhỏ. Mặt khác, khung
xương chậu chưa phát triển hồn tồn, nhỏ hẹp làm con vật khó đẻ con. Do đó

việc xác định tuổi phối giống lần đầu với lợn cái có ý nghĩa quan trọng trong
chăn ni. Tuổi giao phối lần đầu với lợn cái nội là 6 - 7 tháng nặng trên 50kg,
lợn lai trên 7 tháng nặng tự 60 - 70 kg, lợn ngoại từ 8 tháng nặng trên 100 kg.
Khi lợn đã thành thục về tính, cơ quan sinh dục khơng có bào thai và
khơng có hiện tượng bệnh lý, thì cơ thể con cái, đặc biệt là cơ quan sinh dục có
biến đổi kèm theo sự rụng trứng. Sự sinh trưởng của trứng dưới sự điều tiết của
hormone thùy trước tuyến yên làm cho trứng chin và rụng một cách có chu kỳ
và biểu hiện bằng những triệu chứng động dục kèm theo chu kỳ được gọi là chu
kỳ tính. Thời gian chu kỳ tính là từ lần rụng trứng trước tới lần rụng trứng sau.
Chu kỳ tính được bắt đầu từ khi lợn cái thành thục về tính, nó tiếp tục xuất hiện
và chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể đã già yếu. Chu kỳ tính của lợn cái là một hiện
tượng sinh vật học có tính quy luật, nó tạo ra hàng loạt những điều kiện cần thiết
để tiến hành giao phối, thụ tinh và phát triển bào thai. Thời gian chu kỳ tính của
lợn là từ 17 - 27 ngày, trung bình là 21 ngày. Thời gian của mỗi lần động đực là 3
- 4 ngày, sau khi lợn động đực 24 - 20 giờ thì trứng rụng, thời gian trứng tụng
kéo dài từ 4 - 6 giờ, ở lợn cái tơ quá trình này kéo dài hơn (khoảng 10 giờ). Có từ
10 - 25 tế bào trứng rụng trên một lần, ở lợn cái tơ số lượng trung bình là 14 và
giao động từ 7 - 16, còn ở lợn trưởng thành trung bình là 20 và giao động từ 15 25. Ở các giống khác nhau thì số lượng trứng rụng cũng khác nhau.
Tất cả các kích thích bên ngồi và trong cơ thể như: khí hậu, nhiệt độ,
ánh sáng, chế độ nuôi dưỡng, quản lý, tác động xoa bóp, mùi vị con đực, tình
trạng cơ quan sinh dục và các bộ phận khác của cơ thể đều ảnh hưởng trực tiếp
đến chu kỳ tính một cách phản xạ theo phương thức thần kinh, thể dịch.

Tất cả các kích thích đó được cơ quan cảm nhận như: tai, mắt, mũi,
da,… thu nhận, từ đó tác động lên hệ thống thần kinh trung ương và thông
qua sự điều tiết của tuyến yên để điều chỉnh quá trình sinh dục. Bởi vì giữa
vùng hypothalamus và tuyến n có mối quan hệ mật thiết với nhau, khu vực
có nhiều mạch quản và thần kinh. Nếu thần kinh đi vào hypothalamus bị tổn
thương hay đường truyền xuống tuyến yên bị cắt đứt thì sự phân tiết
hormone kích thích sinh dục của tuyến yên cũng đồng thời giảm theo.

4


Sự điều chỉnh chu kỳ tính khơng những được thực hiện tuân
theo phương thức phản xạ không điều kiện, mà có thể thực hiện
thơng qua sự liên hệ phản xạ có điều kiện.
Cùng với yếu tố thần kinh, hormone của tuyến yên là một điều kiện quan
trọng và cần thiết để làm xuất hiện, điều chỉnh hoạt động của quá trình sinh dục.
Hypothalamus dưới tác động của gonadotropin releaser hormone (GRH) kích
thích thùy trước tuyến n giải phóng FSH và LH. FSH khích thích sự phát triển
của trứng cịn LH kích thích thải trứng và ảnh hưởng đến hình thành thể vàng.
Sau khi rụng trứng 7 ngày, thể vàng đạt được kích thước 8 - 9nm. ở tổ chức
tuyến của thể vàng tiết ra hormone progesterol giúp cho quá trình chuẩn bị tiếp
nhận hợp tử ở sừng tử cung. Thể vàng tồn tại trong suốt quá trình mang thai.
Hormone progesterol ức chế hypothalamus giải phóng GRH trong thời gian
mang thai và qua đó ngăn cản động dục. Do vậy, hormone này được coi như là
hormone bảo vệ sự mang thai. Nếu như trứng rụng không được thụ tinh, thể
vàng tồn tại đến ngày thứ 15 - 17 bị phá vỡ dưới tác động của prostalandine do
sừng tử cung tiết ra, sau đó chu kỳ tính mới lại bắt đầu.

Theo quy luật, lợn mẹ sau khi cai sữa cho con sẽ biểu hiện
động dục vào ngày thứ 4 - 8. Tuy nhiên thời gian động dục trở lại
sau cai sữa phụ thuộc vào thời gian bú sữa.
2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất của con lợn nái
Mục đích của việc sản xuất lợn con là để bán, làm giống hay là để nuôi
thịt, kết quả sản phẩm này tùy thuộc vào khả năng sản xuất của lợn nái và
được thể hiện qua chỉ tiêu tổng hợp là số lợn con cai sữa (hay số lợn con có
khả năng sản xuất)/ nái/ năm. Để có được số lợn con cai sữa/nái/năm cao thì
chúng ta cần phải hồn hiện tất cả các bước trong q trình chăn ni.


Các chỉ tiêu sinh sản bao gồm:
-

Tuổi phối lần đầu (ngày)
Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)
Thời gian mang thai (ngày)
Số con đẻ ra/ ổ (con)
Số con đẻ ra sống/ ổ (con)
Số con cai sữa/ ổ (con)
Số lứa đẻ/ nái/ năm (lứa)

5


-

Thời gian mang thai (ngày)
Thời gian phối giống trở lại (ngày)
Khoảng cách đẻ lứa (ngày)
Khối lượng sơ sinh/ ổ (kg)
Khối lượng sơ sinh/ con (kg)
Khối lượng cai sữa/ ổ (kg)
Khối lượng cai sữa/ con (kg)
Tỷ lệ sơ sinh sống (%)

-

Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa (%)

-


2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái
Sinh sản là một thuộc tính của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng,
nhằm duy trì nịi giống và đảm bảo cho sự tiến hóa của sinh vật. Ở gia súc
nói chung và ở lợn nói riêng, sinh sản là một chức năng quan trọng mang ý
nghĩa tái sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Chính vì
vậy, sinh sản của gia súc là một thuộc tính mà các nhà chăn ni quan tâm,
nhằm mục đích sinh sản được nhiều nhất trong thời gian ngắn nhất, thế hệ
sau có đặc tính tốt hơn thế hệ trước, năng suất sinh sản được nâng cao sẽ
mang lại hiệu quả cao nhất trong ngành chăn nuôi.
Một yêu cầu quan trọng của chăn nuôi lợn nái là phải tăng khả năng sinh sản
nhằm đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng lợn cho khâu sản xuất lợn thịt.
Có nhiều chỉ tiêu sinh học đánh giá năng suất sinh sản của lợn cái, nhưng các nhà
di truyền chọn giống lợn chỉ quan tâm tới một số tính trạng năng suất nhất định là
các chỉ tiêu có tầm quan trọng kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
Gordon (2004) cho rằng: trong các trại chăn nuôi hiện đại, số lợn con cai sữa
do một nái sản xuất trong một năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất năng suất sinh
sản của lợn nái. Tác giả cũng cho biết tầm quan trọng của các thành phần cấu thành
ảnh hưởng đến chỉ tiêu số lợn con cai sữa do một nái sản xuất trong một năm lần
lượt là: số con đẻ ra trong ổ, tỷ lệ chết của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, thời gian
bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu và thời gian từ cai sữa đến khi thụ thai lứa sau.

Theo Ducos (1994), các thành phần đóng góp vào chỉ tiêu số con còn
sống khi cai sữa gồm số trứng rụng, tỉ lệ lợn con sống lúc sơ sinh và tỉ lệ lợn
con sống tới lúc cai sữa là các thành phần quan trọng nhất đánh giá năng suất
sinh sản của lợn nái. Do vậy việc nâng cao chỉ tiêu số con đẻ ra sống và số con
cai sữa là một vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
6



Mabry et al. (1997) cho rằng các tính trạng năng suất sinh sản chủ
yếu của lợn nái bao gồm: số con đẻ ra, số con cai sữa, khối lượng 21
ngày/ổ và số lứa đẻ/nái/năm. Các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu
này có tầm quan trọng về mặt kinh tế và ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận
của người sản xuất lợn giống cũng như người nuôi lợn thương phẩm.

Năng suất sinh sản của lợn nái có mối quan hệ chặt chẽ và
phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và ngoại cảnh.
2.1.3.1. Yếu tố di truyền
Giống là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản
của lợn nái (Trần Tiến Dũng và cs., 2002). Giống và đặc tính sản xuất
của nó gắn liền với năng suất. Lê Đình Phùng và cs. (2011) cho rằng:
giống lợn nái ảnh hưởng đến hầu hết các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái.
Năng suất sinh sản của lợn nái bao gồm các tính trạng vốn có hệ số di truyền
nhỏ, lại thường không tạo được áp lực chọn lọc cần thiết nên hiệu quả của chọn lọc
rất thấp. Các tính trạng năng suất sinh sản có hệ số biến động khá cao. Tương quan
giữa số con/ổ và khối lượng toàn ổ cũng như giữa khối lượng toàn ổ và khối lượng
trung bình một lợn con là dương và chặt chẽ, nhưng giữa số con và khối lượng
trung bình một lợn con là âm và chặt chẽ (Đặng Vũ Bình, 1995).

Yếu tố di truyền phụ thuộc vào đặc tính con giống, các giống lợn khác
nhau thì có tính năng sản xuất khác nhau. Tính trạng số lượng về khả năng sinh
sản của lợn nái thường có hệ số di truyền thấp, các chỉ tiêu như số con còn
sống/ổ, số con sai sữa/ổ có hệ số di truyền (h 2) là 0,10; khối lượng sơ sinh/ổ,
khối lượng cai sữa/ổ có h2 là 0,20. Rydhmer et al. (1995) hệ số di truyền (h 2 ) tính
trạng tuổi đẻ lứa đầu, số con đẻ ra sống/ổ và khoảng cách lứa đẻ lần lượt là:
0,27; 0,13 và 0,08. Theo Tolle et al. (1999) cũng cho biết hệ số di truyền của chỉ
tiêu số con đẻ ra sống và số con cai sữa/ổ là 0,09 - 0,12 và 0,05 - 0,07.

Legault (1985) đã căn cứ vào khả năng sinh sản và sức sản

xuất thịt các giống lợn chia làm bốn nhóm chính như sau:
- Các giống đa dụng như Yorkshire, Landrace và một số dòng nguyên
chủng được xếp vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá.

- Các giống chuyên dụng “dòng bố” như Piétrain, Landrace
của Bỉ, Hampshire, Poland China có khả năng sinh sản trung bình
nhưng khả năng sản xuất thịt cao.
7


- Các giống chuyên dụng “dòng mẹ”, đặc biệt một số giống
chuyên sản của Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có
khả năng sinh sản đặc biệt cao nhưng khả năng cho thịt kém.
- Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và
sức sản xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với mơi trường.

Các giống “dịng bố” thường có khả năng sinh sản thấp hơn so
với các giống đa dụng, ngoài ra chúng có chiều hướng hơi kém về khả
năng ni con, tỷ lệ lợn con chết trước khi cai sữa của các giống này
cao hơn so với Landrace và Yorkshire (Blasco et al., 1995).
Rothschild and Bidanel (1998) cho rằng: sự thành thục về tính của các
giống khác nhau cũng khác nhau. Gia súc có tầm vóc và khối lượng nhỏ thường
sớm hơn gia súc có tầm vóc, khối lượng lớn. Tuổi thành thục của giống lợn nội
Trung Quốc khi 3 - 4 tháng tuổi và các giống lợn châu Âu là 6 - 7 tháng tuổi.
Sự cận huyết cũng ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái, số con đẻ
ra trong một ổ giảm 0,29 con khi hệ số cận huyết tăng thêm 10% (Johnson, 1990).

Ngoài ra, năng suất sinh sản còn chịu ảnh hưởng của các yếu
tố di truyền khác như kiểu gen, cá thể, lai giống…
Như vậy năng suất sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng của giống

và cá thể, mỗi một giống có một đặc tính sản xuất gắn liền với năng suất
và hiệu quả kinh tế của nó, giống khác nhau thì có năng suất khác nhau.

2.1.3.2. Yếu tố ngoại cảnh
Ngoài các yếu tố di truyền, yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng rất
rõ ràng và có ý nghĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của lợn nái như: chế
độ nuôi dưỡng, tuổi, khối lượng bắt đầu phối giống, phương thức phối
giống, lứa đẻ, mùa vụ, nhiệt độ môi trường, thời gian chiếu sáng, bệnh tật...

a, Chế độ nuôi dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo khả năng sinh
sản của lợn nái. Lợn nái và lợn cái hậu bị có chửa cần được cung cấp đủ về
số lượng và chất lượng các chất dinh dưỡng để có kết quả sinh sản tốt.
Yamada and Nakamura (1998) nhận thấy: nuôi dưỡng hạn chế đối với lợn cái
trong giai đoạn hậu bị sẽ làm tăng tuổi động dục lần đầu, tăng tỷ lệ loại thải so

8


với nuôi dưỡng đầy đủ. Zimmerman et al. (1996) cho biết các mức ăn khác nhau
trong giai đoạn từ cai sữa đến phối giống trở lại có ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai.

Theo Gordon (1997), áp dụng chế độ dinh dưỡng “Flushing” trong pha
sinh trưởng của buồng trứng lợn nái đã làm tăng số lượng trứng rụng (từ
65% lên 85%) và tăng lượng progesterone trong máu (từ 4,5 ng/ml lên 10,5
ng/ml) và lợn nái ăn gấp đôi lượng thức ăn ở giai đoạn trước phối giống và ở
ngày phối giống so với bình thường có tác dụng làm tăng số lượng trứng
rụng và số con đẻ ra/ổ. Nuôi dưỡng lợn nái với mức năng lượng cao trong
thời kỳ có chửa sẽ làm giảm mức thu nhận thức ăn trong thời kỳ tiết sữa

nuôi con và ngăn cản sự phát triển của tuyến vú.
Nên cho lợn nái nuôi con ăn tự do để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Giảm
lượng thức ăn thu nhận khi nuôi con sẽ làm giảm khối lượng cơ thể, hậu quả là thời
gian động dục trở lại dài, giảm tỉ lệ thụ tinh và giảm số phôi sống (Brand et al., 2000).
Theo Chung et al. (1998), Lember (1998) tăng lượng thức ăn thu nhận ở lợn nái tiết
sữa sẽ làm tăng sản lượng sữa và tăng khả năng tăng khối lượng của lợn con.
Gordon (2004) cho biết: tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn
đầu và giữa chu kỳ tiết sữa sẽ có tác dụng giảm thời gian động dục trở lại hơn là
tăng lượng thức ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn cuối, tăng lượng thức
ăn thu nhận cho lợn nái tiết sữa ở giai đoạn giữa và cuối chu kỳ tiết sữa sẽ có tác
dụng tăng khối lượng cai sữa hơn là tăng ở giai đoạn đầu.

Nuôi dưỡng lợn nái trong thời kỳ tiết sữa nuôi con với mức lysine và
protein thấp sẽ làm suy giảm sự phát triển của bao noãn, giảm khả năng trưởng
thành của tế bào trứng, giảm số con đẻ ra/ổ và số con sống/ổ, tăng tỷ lệ hao hụt
của lợn mẹ và giảm tốc độ sinh trưởng của lợn con (Yang et al., 2000).

Mục tiêu của nuôi dưỡng lợn nái là làm sao cho số ngày không
sản xuất ít nhất, khối lượng cơ thể tăng phù hợp trong thời kỳ có chửa
và có được khối lượng cơ thể thích hợp trong thời kỳ ni con. Vì vậy
cần phải đưa ra khẩu phần ăn khoa học để tăng sữa.

* Mùa vụ
Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của
lợn nái. Gaustad et al. (2004) cho biết: mùa vụ có ảnh hưởng đến số con
đẻ ra/ổ. Mùa có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn
nái nuôi chăn thả thấp, tỷ lệ chết ở lợn con cao (Akos et al., 2004).

9



Nhiệt độ cao làm khả năng thu nhận thức ăn của lợn nái thấp, tỷ lệ
hao hụt lợn nái tăng và tỷ lệ động dục trở lại sau cai sữa giảm. Tỷ lệ thụ
thai bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và mùa vụ. Lợn nái phối giống vào các
tháng nóng có tỷ lệ thụ thai thấp, giảm khả năng sinh sản từ 5 - 20%.
Nhiệt độ cao không những làm tăng tỷ lệ nái khơng động dục mà
cịn làm giảm tỷ lệ thụ thai, giảm khả năng sống của thai (Pistoni, 1997).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ ảnh hưởng của stress nhiệt đến khả
năng sinh sản của lợn nái. Thời gian từ tháng 7 - 11 lợn nái thường ít
động dục. Số con đẻ ra/ổ khi phối giống vào mùa hè có thể ít hơn một con
so với khi phối giống vào mùa thu, mùa đông (Peltoniemi et al., 2000). Tỷ
lệ thụ thai thấp và số con đẻ ra ít vào mùa hè (Dominguez et al., 1998).
Các tác giả nhận thấy về mùa hè, nhiệt độ cao làm giảm tính nhạy
cảm bình thường của chu kỳ động dục. Claus and Weiler (1985) cho biết
từ tháng thứ 5 đến tháng thứ 8 khoảng cách từ khi cai sữa đến động dục
trở lại ở lợn nái tăng so với các tháng khác (trích dẫn từ Gordon, 1997).
Stress nhiệt có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai tới 20%, giảm số phôi sống 20%
và do đó làm giảm thành tích sinh sản của lợn nái (Peltoniemi et al., 2000).

Kiểu gen halothane không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về
năng suất sinh sản của lợn nái Piétrain kháng stress ni trong điều
kiện khí hậu nhiệt đới tại miền Bắc (Do et al., 2013).
* Tuổi và lứa đẻ
Tuổi và lứa đẻ đều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ
(Clark and Leman, 1986). Lợn nái kiểm định có tỷ lệ đẻ thấp hơn so với lợn
nái sinh sản (Koketsu et al., 1998). Số lượng trứng rụng thấp nhất ở chu kỳ
động dục thứ nhất, tăng đến 3 tế bào trứng ở chu kỳ động dục thứ hai và đạt
tương đối cao ở chu kỳ động dục thứ ba (Deckert et al., 1998). Số con đẻ ra
tương quan thuận với số lượng trứng rụng (trích dẫn từ Gordon, 1997).
Lứa đẻ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái vì có sự

khác nhau về chức năng theo tuổi của lợn nái. Khả năng sinh sản của lợn nái thường thấp
nhất ở lứa đẻ thứ nhất, đạt cao nhất ở lứa đẻ thứ 3, 4, 5 và sau đó gần như là ổn định và có
xu hướng giảm khi lứa đẻ tăng lên. Gordon (1997) cho biết số con đẻ ra/ổ tăng từ lứa đẻ một
đến lứa đẻ thứ 4, ở lứa đẻ thứ 8 trở đi, số lợn con mới đẻ bị chết tăng lên. Số con đẻ ra/ổ có
quan hệ chặt chẽ đến tuổi của lợn nái và giảm

10


nhanh sau 4, 5 tuổi. Lợn đẻ lứa đầu tiên thường có số con đẻ ra, khối lượng sơ sinh
nhỏ hơn so với những lứa đẻ sau (Colin et al., 1998). Lợn mới đẻ lứa đầu thường
hay sợ hãi do đó tỷ lệ thụ thai thấp và tỷ lệ chết cao (Grandinson et al., 2005).

* Số lần phối và phương thức phối giống
Gordon (1997) cho biết: số lần phối giống trong một lần động dục ở lợn
nái ảnh hưởng tới số con đẻ ra/ổ. Phối đơn trong một chu kỳ động dục ở lúc
động dục cao nhất có thể đạt được số con đẻ ra/ổ cao, nhưng phối hai lần trong
một chu kỳ động dục làm tăng số con đẻ ra/ổ. Khi phối giống cho lợn nái trực
tiếp ba lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ tăng hơn 1,3 con/ổ so với phối hai lần.

Phương thức phối giống cũng ảnh hưởng khá rõ rệt. Trong phối trực
tiếp, ảnh hưởng của con đực rất rõ. Thụ tinh nhân tạo có thể làm giảm tỷ lệ
thụ thai do kỹ thuật phối giống. Phối giống kết hợp giữa thụ tinh nhân tạo và
nhảy trực tiếp có thể làm tăng 0,5 lợn con so với phối riêng rẽ (trích dẫn từ
Gordon, 1997). Phối giống bằng thụ tinh nhân tạo làm tỷ lệ thụ thai và số con
đẻ ra/ổ đều thấp hơn từ 0 - 10% so với phối giống trực tiếp (Colin et al., 1998),
nhưng kết quả nghiên cứu của Alexopoulos et al. (1997) thì ngược lại.

* Thời gian cai sữa
Kết quả phân tích 14.925 lứa đẻ của 39 đàn lợn nái ở Mỹ (Xue et al.,

1993 trích dẫn từ Gordon, 1997) cho thấy: thời gian bú sữa của lợn con
dài dẫn đến khoảng cách từ khi đẻ đến phối giống trở lại dài, khoảng cách
lứa đẻ dài. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả kinh tế trong chăn
nuôi lợn nái sinh sản do làm giảm số lứa đẻ/nái/năm.
Nghiên cứu của Gaustad et al. (2004), cho biết: phối giống sớm sau khi
đẻ, tỷ lệ đẻ và số con đẻ ra/ổ thấp hơn so với phối giống muộn. Theo Gordon
(2004), giảm thời gian cai sữa từ 20 xuống 15 ngày sẽ làm giảm 0,2 con trong ổ,
giảm thời gian cai sữa từ 15 xuống còn 10 ngày sẽ làm giảm trên 0,2 con trong ổ.
Lợn nái cai sữa ở 28 - 35 ngày, thời gian động dục trở lại 4 - 5 ngày có thể
phối giống và có thành tích sinh sản tốt (Colin et al., 1998). Không nên phối
giống cho lợn nái sớm hơn 3 tuần sau khi đẻ, phối giống sớm sẽ làm giảm khả
năng sinh sản của lợn nái (Cole et al., 1975 trích dẫn từ Gordon, 1997).
Lợn nái phối giống sau khi cai sữa sớm có số lượng trứng rụng thấp (15,9 so
với 24,6) và số phôi ở ngày chửa thứ 11 ít. Lợn nái cai sữa sớm có tỷ lệ thụ thai
thấp, số phơi sống ít và thời gian động dục trở lại dài (Deckert et al., 1998).

11


2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ NGỒI NƯỚC
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Xuất phát từ mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế từ chăn nuôi lợn và đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà chọn giống lợn trên thế giới đã sử dụng các
phương pháp lai, tạo ưu thế lai nhằm tạo ra con lai thương phẩm nhiều máu có năng
suất và tỷ lệ nạc cao. Nhiều giống lợn cao sản đã được sử dụng làm nguyên liệu cho
các công thức lai như Yorkshire (Y), Landrace (L), Duroc (D), Hampshire (H), Pietrain
(Pi) … Việc nghiên cứu chọn lọc dòng cao sản huyết thống và lai tạo tìm ra các tổ
hợp lai đạt số con sơ sinh sống/ổ cao, tỷ lệ nạc cao, tiêu tốn thức ăn thấp và độ dày
mỡ lưng mỏng đã thành cơng ở hầu hết các nước có nền chăn ni tiên tiến như :
Mỹ, Đức, Canada, Hà Lan, Đan Mạch và Úc.


Theo Gordon (1997), lai giống trong chăn nuôi lợn đã có từ
hơn 50 năm trước, việc sử dụng lai hai, ba, bốn giống để sản xuất
lợn thịt thương phẩm đã trở thành phổ biến.
So sánh giữa các công thức lai hai, ba, bốn giống, Otrowski et al. (1997)
cho thấy con lai có 25% và 50% máu Pietrain có tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt
tốt. Sử dụng đực lai F1(Pi D) có tác dụng nâng cao diện tích và khối lượng cơ
thăn (Gajewczyk et al., 1998). Các nghiên cứu của Gerasimov et al. (1997) cho
biết lai hai, ba giống đều có tác dụng nâng cao các chỉ tiêu sinh sản như: số con
đẻ ra/lứa, tỷ lệ nuôi sống và khối lượng ở 60 ngày tuổi/con. Lai hai giống làm
tăng số con đẻ ra/lứa so với giống thuần (10,9 con so với 10,1 con/lứa), tăng khối
lượng sơ sinh và khối lượng khi cai sữa. Vì vậy, việc sử dụng lai hai, ba giống là
phổ biến để nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất lợn thịt thương phẩm
(Dzhuneibaev et al., 1998). Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy
lợn lai có mức tăng trọng tốt và tỷ lệ nạc cao hơn so với lợn thuần. Gerasimov et
al. (1997) cho biết công thức lai hai giống (Duroc Large Black), công thức lai ba
giống Duroc (Poltava Meat Russian Large White) có khả năng tăng trọng cao
nhưng tiêu tốn thức ăn lại thấp so với các công thức khác.
Ở Mỹ, năng suất sinh sản của đàn lợn nái năm 1970 chỉ đạt 7,2

lợn con cai sữa/lứa, với số lứa đẻ/nái/năm là 1,80 (Gerrits et al.,
1979, trích từ Ian Gordon, 1997). Đến năm 1994 đã tăng lên 8,92 lợn
con cai sữa/lứa và số lứa đẻ/nái/năm là 2,30 (Trần Kim Anh, 2000).

12


Nước Mỹ đã sử dụng “Hình tháp di truyền truyền thống” và mơ
hình “Hình tháp di truyền cải tiến” để xây dựng hệ thống giống lợn. Đối
với mơ hình hình tháp truyền thống ở đàn lợn cụ kị thường là lợn nái

Yorkshire cho phối thuần để sản xuất đàn lợn ông bà. Lợn nái Yorkshire
đàn ông bà được phối với lợn đực Landrace để sản xuất là lợn bố mẹ
F1(LY). Để sản xuất ra lợn thương phẩm người ta thường sử dụng nái
F1(LY) phối với đực cuối cùng như Hampshire hoặc Duroc để sản xuất ra
lợn lai thương phẩm ba giống Hampshire × F1(LY) hoặc Duroc × F1(LY).
Lai kinh tế ở một số nước Châu Âu: hiện nay 3 giống lợn phổ biến
được sử dụng là Pietrain, Hampshire và Duroc. Kết quả lai kinh tế đã làm
tăng số lợn con sơ sinh trung bình/ổ là 12-16%, tỷ lệ ni sống cao hơn từ
10-15% so với lợn thuần, khả năng nuôi thịt tốt hơn, giảm được thời gian
nuôi vỗ beo từ 25-30 ngày và khối lượng giết mổ đạt 100 kg.
Tại Bỉ, việc sử dụng nái lai (L Y) phối giống với lợn Pietrain để sản xuất
con lai ba giống, sử dụng nái lai (L Y) phối với lợn đực lai (Pi D) để sản xuất con
lai bốn giống khá phổ biến tại Bỉ. Lợn đực giống Pietrain đã được cải tiến
(Pietrain Rehal hay cịn gọi Pietrain kháng stress) có tỷ lệ nạc cao (trên 60%)
được sử dụng là dòng đực cuối cùng để sản xuất lợn thịt (Leroy et al., 2000).
Warnants et al. (2003) cho biết ở Bỉ thường sử dụng lợn nái lai phối giống với
lợn đực Pi để sản xuất lợn thịt có tỷ lệ nạc cao và tiêu tốn thức ăn thấp.

Tại Áo, với 4,8 triệu lợn thịt giết mổ hàng năm thì gần như tất
cả được sản xuất từ lai hai, ba giống. Nái lai được sử dụng phổ biến
là F1(Edelschwein LW) và F1(Edelschwein L) được phối giống với
lợn đực Pietrain hoặc Duroc để sản xuất con lai ba giống nuôi thịt.
Ở Hà Lan, chăn nuôi là một trong những ngành quan trọng. Thịt lợn

chiếm 60% tổng sản lượng thịt các loại được sản xuất trong năm. Trong chăn
ni lợn thì trên 90% lợn vỗ béo là lợn lai. Tổ hợp lai hai máu (L×Y) chiếm tới
69%, các tổ hợp lai nhiều giống tham gia ngày càng tăng. Nhiều địa phương
của Hà Lan đã sử dụng lợn lai hai máu để nuôi thịt, một số địa phương khác
thì ưa chuộng lợn lai 3- 4 máu, trong đó giống thứ 3, 4 thường được chọn là
lợn đực Duroc Canada. Lợn lai có ưu thế đẻ nhiều con, trung bình một ổ lợn

con lúc sơ sinh là 9,9 con và đạt 18,2 con cai sữa/năm.

13


Ở Ba Lan, lai giống là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao

khả năng sinh sản và cho thịt. Sử dụng nái lai để phối với lợn đực
thứ ba có hiệu quả nâng cao khối lượng khi cai sữa và khả năng
tăng khối lượng khi nuôi thịt (Kamyk, 1998). Lai ba giống, bốn giống
đã trở thành phổ biến trong chăn ni lợn (Ostrowski et al., 1997).
Trung Quốc có 60 giống lợn được nuôi ở các vùng sinh thái khác
nhau. Để nâng cao chất lượng đàn lợn thịt, Trung Quốc đã nhập một số giống
lợn có khả năng sản xuất cao, phẩm chất thịt tốt như lợn: Yorkshire, Duroc,
Hampshire, Landrace cho phối với lợn nái Meishan của Trung Quốc vì vậy đã
làm tăng khả năng sinh sản của lợn nái, đạt trung bình 12,5 con/ổ.
Ở Thái Lan trước năm 1960 chỉ quan tâm đến dòng lợn thuần, sau năm
1960 mới quan tâm đến lai kinh tế 2 giống. Sau năm 1970 các nhà khoa học Thái
Lan đã tiến hành lai kinh tế 3 giống và sau năm 1980 đã tiến tới lai 4 giống. Các
giống lợn được sử dụng chủ yếu để lai kinh tế ở Thái Lan là: Yorkshire,
Landrace, Duroc, Hampshire. Kết quả công bố của Pholsing et al. (2009) cho
thấy, lợn Piétrain ni tại Thái Lan có tuổi đẻ lứa đầu 434,76 ngày, số con sơ
sinh sống đạt 7,47 con và khối lượng sơ sinh/ổ đạt 11,10 kg thấp hơn so với lợn
nái Large White nuôi trong cùng điều kiện (428,34 ngày, 8,58 con và 11,80 kg).
Tác giả khẳng định hệ số di truyền ước tính ở mức thấp cho các tính trạng tuổi
đẻ lứa đầu (0,06), số con sơ sinh sống (0,11) và khối lượng sơ sinh/ổ (0,08).

Tại Nhật Bản, ở lợn Berkshire hệ số di truyền của khối lượng sơ
sinh là 0,07, khối lượng cai sữa là 0,14 và khối lượng 60 ngày tuổi là 0,18
(Tomiyama et al., 2010). Roehe et al. (2009) cho biết, hệ số di truyền ước

tính ở mức thấp đối với tính trạng khối lượng sơ sinh (0,20).
Tại Tây Ban Nha, lợn nái Piétrain có số con đẻ ra đạt 9,96 con thấp
hơn so với nái Large White (13,29 con), Landrace (11,58 con) (Ibáñez
-Escriche et al., 2009) Tuy nhiên, tỷ lệ lợn con sơ sinh chết của nái
Piétrain (8,23%) thấp hơn so với nái Large White (14,30%), Landrace
(9,45%).

Mccann et al. (2008) khẳng định sử dụng đực thuần hoặc đực
lai không ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.
Số con đẻ ra/lứa thường thấp ở lứa thứ nhất, tăng dần và đạt
cao nhất từ lứa thứ 3 đến lứa thứ 5 (Tretinjak et al., 2009).

14


2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chăn ni lợn được coi là quan trọng nhất trong ngành chăn nuôi ở
Việt Nam. Ngành chăn nuôi lợn đã phát triển nhanh trong những thập kỷ
qua, đã tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa với quy mơ tương đối lớn, cho
hiệu quả kinh tế và có chiều hướng tăng theo xu hướng phát triển kinh tế
của xã hội hiện nay. Thịt lợn lại được tiêu thụ nhiều nhất trong các loại
thịt, chiếm tới khoảng 75-80 %. Chăn nuôi lợn ở Việt Nam hiện nay không
những đáp ứng nhu cầu thịt trong nước mà cịn tham gia xuất khẩu.
Chúng ta biết, cơng tác chọn lọc giống đều được tiến hành trên các
dòng thuần và từ các dòng thuần này con lai thương phẩm được sản xuất ra
để khai thác ưu thế lai. Chọn lọc các dòng thuần dựa trên năng suất của cá
thể hay kết hợp năng suất của các con vật họ hàng trong một quần thể nhất
định (Legates, 1988 và Siegel, 1988 trích từ Kiều Minh Lực, 1999). Các
phương pháp chọn lọc dòng thuần trước đây bao gồm chọn lọc loại thải độc
lập, chọn lọc hàng loạt, chọn lọc gia đình, chọn lọc qua kiểm tra năng suất

đời con, chọn lọc qua chỉ số để đánh giá chất lượng đàn giống như: Nguyễn
Quế Côi và Võ Hồng Hạnh (2000); Chế Quang Tuyến và cs. (2001).

Đối với hai giống lợn ngoại Yorkshire và Landrace, Nguyễn Văn
Thiện và cs. (1995) đã khuyến cáo áp dụng các chỉ số chọn lọc kết hợp
hai tính trạng tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn cho từng giống.

Trên hai giống lợn Landrace và Yorkshire, Nguyễn Quế Côi và
Võ Hồng Hạnh (2000) đã xây dựng một số chỉ số chọn lọc dựa trên
giá trị kiểu hình của các tính trạng sản xuất của lợn đực hậu bị.
Những năm gần đây, việc xây dựng chỉ số chọn lọc kết hợp giá trị giống
của các tính trạng chọn lọc đã bắt đầu được quan tâm tại một số trại lợn giống.
Đối với các tính trạng sinh sản của hai giống Yorkshire và Landrace, Đồn Văn
Giải và Vũ Đình Tường (2004) đã báo cáo tiến bộ di truyền bước đầu ở hai giống
lợn trên tại Xí nghiệp lợn giống Đơng Á bằng việc áp dụng chỉ số chọn lọc: tiến
bộ di truyền bình quân về số con sơ sinh sống/ổ và khối lượng 21 ngày tuổi/ổ
tương ứng là 0,045 con/năm và 0,056 kg/ổ đối với giống Yokshire; 0,047con/năm
và 0,070kg/ổ đối với giống Landrace trong 3 năm từ 2001 - 2004. Một số cơ sở
giống lợn khác cũng cho những kết quả tương tự. Tạ Thị Bích Dun (2003) đã
cơng bố kết quả ước tính giá trị giống về số con sơ sinh sống/ổ từ -1,32 đến
+1,26 trên đàn lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại trại Đông Á và trại lợn tại

15


×