Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Xác định thành phần hoá học tinh dầu cây long não (cinnamomum camphỏa (l) j s presl) ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.64 KB, 50 trang )

Đinh Trọng

Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Vận

LỜI CẢM ƠN

Trong q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ hết sức tận tình và chu đáo của:
- PGS. TS. Lê Văn Hạc: đã giao đề tài và trực tiếp hướng dẫn.
- PGS. TSKH. Nguyễn Xuân Dũng – Khoa Hoá trường đại học Khoa
học Tự nhiên ĐHQG Hà Nội đã phân tích thành phần hố học tinh dầu.
- TS. Hồng Văn Lựu - Phó trưởng khoa Hố đã có những góp ý và chỉ
dẫn q báu, bổ ích.
- Thạc sĩ Trần Đình Thắng: đã cung cấp nhiều thơng tin, tài liệu quan
trọng.
- Các thầy giáo, cô giáo và cán bộ bộ mơn Hố Hữu cơ khoa Hố
trường Đại học Vinh, cùng các bạn bè đã động viên và giúp đỡ trong q trình
hồn thành luận văn.
Nhân dịp này tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả những sự
động viên và giúp đỡ q báu đó.

Tháng 5 năm 2003
Đinh Trọng Vận

1


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ


Đinh Trọng

Vận

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước Việt Nam chúng ta nằm ở Đơng Nam châu Á. Có điều kiện tự
nhiên thuận lợi: nắng lắm, mưa nhiều, khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do vậy mà
hệ thực vật đa dạng và phong phú, đặc biệt là các loài cây cho tinh dầu, đây là
một nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị.
Từ thời xa xưa ông cha ta đã phát hiện và sử dụng các cây chứa tinh dầu
với những mục đích khác nhau như làm thuốc, làm gia vị, làm hương liệu
trong sinh hoạt... Ngày nay với sự phát triển của Khoa học - Công nghệ, với
sự nâng cao không ngừng về đời sống tinh thần cũng như vật chất thì nhu cầu
đối với tinh dầu cũng ngày một tăng lên.
Theo số liệu thống kê gần đây, hệ thực vật Việt Nam có trên 10.000 lồi
[7], trong đó có khoảng 3.200 được sữ dụng trong y học dân tộc và 600 loài
cây cho tinh dầu [5].
Long não (cinnamomum) là một chi lớn trong họ long não (laurceae)
gồm 250 loài, phân bố từ vùng đại lục châu Á đến khắp vùng Đông Nam Á,
Australia và khu vực Tây Thái Bình Dương...
Đến nay mới chỉ có 150 lồi đã được nghiên cứu ở những chừng mực
nhất định về từng khía cạnh khác nhau.
Long não (C. Camphora) là một trong những cây thuộc chi long não
(cinnamomum) cho tinh dầu có nhiều giá trị.
Campho là một hoạt chất quan trọng nhất của tinh dầu long não, được
dùng làm thuốc trợ tim, thuốc đau bụng, thuốc sát trùng...
Tinh dầu long não (đã tách campho) là nguồn nguyên liệu cho ngành
công nghiệp hương liệu, thuốc trừ sâu...


2


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

Cây Long não cịn được trồng làm cây cảnh và bóng mát ở nhiều thành
phố. Nó vừa tạo ra cảnh đẹp vừa làm trong lành khơng khí đồng thời lại là cây
có khả năng tạo rừng [8].
Theo các tài liệu điều tra ở trong nước thì cây Long não Việt Nam có hai
lồi: một lồi cây cho nhiều campho, ít tinh dầu và một loài cây cho chủ yếu là
tinh dầu, rất ít campho. Nhưng hình thái thực vật của hai lồi này lại rất giống
nhau, tới mức hầu như rất khó phân biệt được chúng [1, 4,10].
Nước ta cây Long não được trồng nhiều ở hầu khắp các tỉnh, nhất là các
tỉnh miền núi ngay từ hồi Pháp thuộc và sau hồ bình lập lại. Ở Nghệ An, cây
Long não có rãi rác ở các núi, đồi, các khu rừng khắp toàn tỉnh.Việc sử dụng
chúng để làm phương thuốc cổ truyền trong nhân dân thì có, nhưng sự hiểu
biết về thành phần hoá học của cây Long não ở Nghệ An thì rất hạn chế, đặc
biệt là chúng thuộc loại nào (thứ cây cho nhiều campho, ít tinh dầu, hay thứ
cây cho ít campho, nhiều tinh dầu) thì chưa được khai thác.
Xuất phát từ tình hình đó mà chúng tơi đã chọn đề tài “Nghiên cứu thành
phần hoá học tinh dầu cây Long não (C. camphora) thuộc chi long não
(cinnamomum) ở Nghệ An” nhằm mục đích: xác định hàm lượng tinh dầu và
thành phần định tính của nó, qua đó góp phần tìm kiếm và phát hiện thêm
những hợp chất có giá trị trong thành phần tinh dầu long não để giới thiệu
chúng với tư cách là nguồn nguyên liệu cho hoá dược, hoá mỹ phẩm...
2. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu

Với mục đích như trên, nhiệm vụ của luận văn này bao gồm:
- Dùng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước để tách tinh dầu từ bộ
phận cành lá của cây long não (C. camphora) và xác định hàm lượng của
chúng.
- Dùng sắc ký khí (GC) và sắc ký khí - khối phổ ký liên hợp (GC – MS) để
xác định thành phần hoá học của tinh dầu cành lá Long não.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
3


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

- Tinh dầu bộ phận cành, lá của cây Long não (cinamomum
camphora) thuộc họ long não (lauraceae) ở Nghệ An.

Phần 1. TỔNG QUAN
1.1. Chi long não (Cinamomum schaefer)
1.1.1. Nguồn gốc và phân bố
Long não (Cinamomum) là một chi lớn trong họ Long não (Lauraceae)
gồm tới 250 loài, phân bố từ vùng đại lục châu Á đến khắp vùng Đông Nam
Á, Australia và khu vực Tây Thái Bình Dương. Tại miền Nam châu Mỹ chỉ có
một số ít lồi, nhưng riêng khu vực Malesian đã phát hiện được 90 loài. Đến
nay mới chỉ có 150 lồi đã được nghiên cứu nhưng ở những chừng mực nhất
định về từng khía cạnh khác nhau.
Ở nước ta, số loài thuộc chi Long não rất phong phú và đa dạng. Năm
1991, Phạm Hồng Hộ đã mơ tả tóm tắt cho 40 lồi và năm1994, Nguyễn Kim

Đào đã thống kê được 42 loài (chiếm 16,8% tổng số loài của chi Long não
(Cinamomum) trên toàn thế giới và 46,6% số loài ở khu vực Malesian) [10].
Những loài chứa tinh dầu đáng chú ý trong chi Long não (Cinamomum)
ở nước ta là:
1 - Cinamomum argenteum Gamble (1914) - Quế bạc.
2 - C. balansae Lecomte (1913) - Vù hương, Gù hương.
3 - C. bejolghota (Buch - Ham. ex Nees) Sweet (1827) - Quế hương,
Quế lá tù.
4 - C. burmanni (C. G. Nees et j. Nees) Blume (1826) - Quế trèn,
Quế rành.
5 - C. burmanni form heyneanum (Nees) H.W.Li (1978) - Quế lá hẹp.
4


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

6 - C. camphora (L) presl. (1825) - Long não.
7 - C. cassia Presl (1825) - Quế thanh, Quế trung hoa, Quế yên bái,
Quế đơn, Quế quan.
8 - C. glaucescens (Nees) Drury (1869) - Re xanh phấn, Re mốc.
9 - C. iners Reinw. ex Blume (1825) - Quế rừng, Hậu phát, Quế lợn.
10 - C. javanicum Blume (1826) - Quế java.
11 - C. loureirii C. Nees (1836) - Quế hương, Quế lá tù, Quế thanh hố,
Quế q.
12 - C. micranthum (Hayata) Hayata (1013) – Re hoa nhỏ.
13 – C. porrectum (Roxb) Kosterm (1952) – Re hương, Xá xị, Gù hương,

Vù hương.
14 - C. tamala (Buch-Ham) J. Nees et. Ebem (1831) - Quế tamala, Quế
ấn độ.
15 - C. verum Presl (1825) - Quế hồi , Quế xây lan.
16- C. Tetragonum A. Chev. (1918) – Quế đỏ
1.1.2. Cơng dụng
Rất nhiều lồi thuộc chi Long não là cây tinh dầu, cây thuốc, cây gia vị
và cây lấy gỗ có giá trị.
Vỏ cây, vỏ cành và lá của loài Quế (Quế đơn - C. cassia, Quế xây lan C. revum, Quế trèn - C. burmanni, Quế thanh- C. loureirii...) là nguồn nguyên
liệu lấy tinh dầu, nguồn gia vị để chế biến thực phẩm trong công nghiệp cũng
như trong tập quán ẩm thực của nhiều dân tộc trên thế giới. Hương vị của quế
cũng như các hợp chất có chứa trong tinh dầu quế vừa có tác dụng trong kích
thích tiêu hố, làm cho thức ăn có hương vị hấp dẫn, ngon miệng, vừa sát
trùng, tiêu diệt hoặc kìm hãm sự hoạt động của các vi sinh vật có hại. Các sản
phẩm chế biến từ vỏ quế (húng lìu, bột ngũ vị...), tinh dầu quế được sử dụng
rộng rãi để ướp thịt, để xào nấu... các loại thức ăn hàng ngày trong nhiều gia
đình.
5


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

Các hợp chất chứa trong tinh dầu quế (đặc biệt là andehit xinamic), tinh
dầu long não (chủ yếu là campho) và trong tinh dầu xá xị (chủ yếu là safrol) là
nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp (sản xuất thuốc, chế biến
thực phẩm, thuốc trừ côn trùng và sản xuất các loại hoá mỹ phẩm...).

Trong Y học dân tộc nước ta nói riêng và các nước phương Đơng nói
chung, quế được coi là một trong bốn vị thuốc bổ đầu bảng.
Trong cả Đông y và Tây y, vỏ quế, tinh dầu quế, tinh dầu long não...
được sử dụng rộng rãi để làm thuốc trợ tim, tăng cường tuần hồn, kích thích
tiêu hố, chữa cảm cúm, hơ hấp, giảm bớt sự mệt mỏi, căng thẳng của hệ thần
kinh và cơ bắp...
Vỏ, lá và rễ của nhiều cây khác thuộc chi Long não đã được dùng làm
các vị thuốc trong nhiều bài thuốc dân tộc và các bài thuốc gia truyền của
nhiều bộ tộc ở nhiều khu vực khác nhau tại Đông Nam Á.
Theo “Dược thảo” nước Anh thì bột nghiền từ vỏ quế được ghi nhận là
loại thuốc đặc biệt để chữa bệnh đau bụng, khó tiêu, đầy hơi hoặc đau bụng có
kèm theo nơn mửa. Vỏ của cả ba loại quế (C. cassia, C. burmanni, C. loureii )
đều được biết đến như loại thuốc dân tộc truyền thống để điều trị bệnh đau
quặn bụng dữ dội, bệnh tiêu chảy, bệnh tả, bệnh phổi và ho. Trong “Dược
thảo” của các nước châu Âu ghi nhận tinh dầu quế dùng pha trà uống (0,05 0,2 gam mỗi ngày) hoặc dùng uống chung với các loại cây cỏ khác sẽ có tác
dụng diệt khuẩn, kháng nấm và kích thích tiêu hố...
Gần đây có những thơng tin đáng lưu ý, đó là một số hoạt chất có tính
sinh học được chiết từ gỗ của lồi Cinamomun mercadoi S. Vidal, phân bố tại
Philippin có tác dụng kìm hãm rõ rệt đối với sự phát triển của một vài loại tế
bào ung thư. Chất nhựa lấy từ cây Quế rừng (C. iners) là loại keo dính kết có
chất lượng cao, được dùng trong nhiều lĩnh vực cơng nghiệp (làm hương, tẩm
màn chống muỗi, dán gỗ, phocmica...).
6


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận


Gỗ của nhiều lồi có độ bền trung bình, lại thường chứa tinh dầu, có
khả năng chống chịu tốt đối với mối mọt, côn trùng...nên được sử dụng nhiều
trong xây dựng, trang trí nội thất và đóng đồ gỗ gia dụng...Gỗ có khối lượng
vừa phải (tỷ trọng của gỗ từ 350 - 860 kg/m3 ở độ ẩm 15%), thớ gỗ thẳng hoặc
hơi vặn, cấu tạo tương đối mềm và mịn...Gỗ của một số lồi trong chi Long
não cịn được coi là nguồn nguyên liệu tốt trong công nghiệp gỗ dán.
1.1.3 Tinh dầu và đặc tính của tinh dầu
Hầu hết các lồi thuộc chi Long não (Cinnamomun) đều có chứa tinh
dầu hoặc hương thơm, song hàm lượng và thành phần hoá học của tinh dầu
của mỗi loài thường khác nhau. Một số loài thì thành phần chủ yếu là
xinamandehit, ở những lồi khác thì các thành phần ưu thế lại là eugenol,
campho hoặc safrol.
Vỏ và lá của loài Quế đơn (C.cassia) đều chứa tinh dầu với thành phần
tương tự nhau. Hàm lượng tinh dầu trong vỏ khá cao và thay đổi từ 1 - 4%,
còn trong lá thường thấp chỉ trong khoảng 0,3 - 0,8%. Tinh dầu từ vỏ Quế đơn
chứa từ 70 - 95% (E) - xinamandehit, ngồi ra cịn khoảng gần 90 hợp chất
khác nữa. Trong đó đáng lưu ý là benzandehit, cumarin, xinamyl axetat, 2 metoxyxinamandehit, 2-metoxybenzandehit, 2–phenyletyl axetat, (Z)–xinamic
aldehit, salixylandehit, benzyl benzoat, phenylpropanal...; thường không chứa
eugenol hoặc không đáng kể. Thành phần chủ yếu của tinh dầu lá Quế đơn là
(E) - xinamandehit (70 - 90%), ngồi ra cịn có khoảng 20 hợp chất khác trong
đó có 2- metoxyxinamandehit, benzandehit, salixylandehit, phenylpropanal,
(E)- xinaman axetat, cumarin... Chồi búp của Quế đơn cũng chứa tới 1,9%
tinh dầu với thành phần chủ yếu là các andehit (80%).
Ở Quế thanh (C.loureirii), tinh dầu chứa trong vỏ với hàm lượng khá
cao và thay đổi trong khoảng từ 1 - 7%. Tinh dầu chưng cất từ vỏ Quế thanh
thường có màu vàng nâu và thành phần chính cũng là (E)- xinamandehit (80 7


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ


Đinh Trọng

Vận

92,5%), ngoài ra khoảng trên 10 hợp chất khác đã được xác định, trong đó có
các chất 3-phenylpropanal, (Z)-xinnamic andehit, cumarin, benzandehit,
eugenol, õ- caryophylen, campho, linalol… Tinh dầu từ lá quế thanh có màu
nâu nhạt và thành phần hố học có sai khác so với tinh dầu từ vỏ.
Trong vỏ của loài Quế trèn (C.burmanni) chứa 1 – 4% tinh dầu, thường
không màu hoặc có màu vàng nâu nhạt với thành phần chính cũng là
xinamandehit (60 - 85%), các hợp chất khác có hàm lượng đáng kể gồm: 1,8 xineol, ỏ-tecpineol, campho, tecpinen-4- ol, bocneol, ỏ-pinen, õ-caryopylen,
para-xymen, camphen...; khơng có eugenol. Tinh dầu từ lá Quế trèn cũng
gồm chủ yếu là xinamandehit nhưng tinh dầu từ vỏ rễ lại có thành phần chính
là campho.
Hàm lượng tinh dầu ở Quế xâylan (C.verum) thường thấp (0,5 - 2%
trong vỏ và 0,7 - 1,2% trong lá). Tinh dầu từ vỏ cũng chứa chủ yếu là (E)xinamandehit (46,5 - 89%), các thành phần khác cũng đáng chú ý là limonen,
õ-caryophylen, eugenol, linalol, ỏ-Pinen, para-xymen.... Khác với tinh dầu từ
vỏ, tinh dầu từ lá Quế xâylan lại có thành phần chính là eugenol (60 - 88%),
ngồi ra cịn có tới 45 hợp chất khác, trong đó các hợp chất có hàm lượng
đáng kể là linalol, xinamyl axetat, õ-caryophylen, (E)-xinamic andehit, ỏpinen, humulen, 1,8- xineol, para-xymen và safrol...
Ngoài tinh dầu trong vỏ của các lồi quế cịn chứa các hợp chất nhựa
dầu, tanin, protein, pentosan, keo nhựa, xelulosơ, oxalat canxium và các chất
khoáng.
Long não (C. camphora) cũng chứa một lượng đáng kể tinh dầu ở trong
tất cả các bộ phận của cây (1 - 3% trong gỗ, 0,5 - 2,5% trong lá và 0,4 -1,5%
trong hoa quả). Nhưng trong tinh dầu thì campho lại là thành phần chủ yếu
(trung bình 48 - 50%). Dựa vào các hợp chất hoá học chủ yếu trong tinh dầu,
người ta đã xác định nhiều nịi hố học (chemotype) khác nhau trong lồi
Long não.

8


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc hiện đã phân biệt được 8 nịi hố học
(chemotype): Campho typ, Bocneol typ, ỏ-phelandren typ, iso – nerolidol typ,
Linalol typ, Xineol typ, Secquitecpen typ và Safrol typ.
Ở các loài xá xị (C. porectum), Re hoa nhỏ (C. micranthum) thì thành
phần chủ yếu trong tinh dầu là safrol (70 - 90%).
Tinh dầu từ quả của loài Re mốc (C. glaucescens) lại có thành phần
chính là ọ - pinen, (Z) - metyl xinamal 1,8 - xineol, safrol, limonen, linalol,
elemixin...
Tinh dầu của các loài C. inunctum (Nees) Meissn và C. wilsonii
Gamble phân bố tại Trung Quốc lại chứa chủ yếu là xineol, ngồi ra cịn nhiều
hợp chất khác (trong đó đáng lưu ý là linalol, campho, xinamic andehit...).
Với lồi C. glanduliforum (Wall) Nees thì trong tinh dầu lại chứa hợp
chất chính là ỏ-pinen (50 - 60%), sau đó là dipenten (C10 H16), campho,
bocneol và xineol.
1.2. Cây long não - Cinnamomum camphora (L.) J.S Presl
1.2.1. Đặc điểm thực vật học
Nhìn chung các tài liệu đều thống nhất miêu tả cây Long não
(Cinamomum camphora (L.) Sieb, hoặc C. camphor nees et Eberm, hoặc C.
camphor (L.) Pres... và được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Long não,
Chương não, Rã hương, Dã hương, Camphrier [2, 9], Mạng khảo khuông
( tên tiếng Tày) [4], tiếng Lào gọi là May khao khinh [2] thuộc họ Long não

(Lauraceac).
Là cây gỗ lớn, thường xanh, cao 15 - 20 m, đoạn thân không phân cành
cao từ 3 – 8 m (-10 m), đường kính thân 40 – 60 (- 90) cm, hệ thống rễ không
ăn sâu nhưng lại phát triển mạnh theo chiều rộng, bạnh gốc thấp và mập, vỏ
ngoài màu nâu xám thường nứt dọc thành rãnh sâu.
Tán cây rậm và to, đường kính tán đạt (-10) 15 - 20 (-30) cm. Cành non
thường nhẵn, màu nâu, vàng nhạt hoặc hồng nhạt; chồi có dạng hình trứng,
9


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

mập, phủ lông mềm, cùng với nhiều vẩy nhỏ sắp xếp lên nhau. Lá đơn mọc
cách; cuống lá mảnh, dài 1,5 - 5 cm; phiến lá mỏng, hình trứng bầu, bầu dục,
rộng hay hình mác thn, kích thước là 5 -12 x 2 - 7 cm, gốc lá tù, chóp nhọn
hoặc thn nhọn, mép lá nguyên hoặc hơi gợn sóng, xanh đậm, bóng và nhẵn
ở mặt trên, nhẵn hoặc rải rác có lơng mịn ở mặt dưới, có mùi thơm; ba gân
chính ở gốc nổi rõ trên cả hai mặt lá, các lơng bên hình lơng chim, có hai
tuyến xen kẻ ở gốc giữa ba gân chính. Cụm hoa hình chuỳ mọc ở nách lá hay
ở tận cùng, dài tới 7cm; nhẵn, hoa lưỡng tính; gốc bao hoa hợp thành hình ống
ngắn, 6 thuỳ, thn, có lơng màu nâu nhạt, nhị 9, sắp xếp theo 3 vịng, 3 nhị
vịng trong có hai tuyến ở gốc, nhị lép 3; bầu hình trứng, nhẵn, vịi nhuỵ hình
trụ ngắn. Quả hình cầu, đường kính 6 – 10 mm, khi non có màu xanh lục, khi
chín có màu tím đen; một hạt, kích thước 6 – 7 mm [6].

10



Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

1.2.2. Nguồn gốc và phân bố
Lồi Long não (C. camphora) có vùng phân bố tự nhiên ở Nhật Bản
(quần đảo Ruykuy), Trung Quốc (miền Nam sông Yangtze, các đảo Đài Loan,
Hải Nam) và miền Bắc Việt Nam.
Long não đã được đưa vào trồng trên diện tích rộng lớn tạo nguồn
nguyên liệu lấy tinh dầu (chủ yếu là Campho tự nhiên) ở nhiều nước thuộc
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như: các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, SriLanka, các nước miền Tây Nam châu Âu, Đông và Bắc châu Phi, miền Nam
Hoa Kỳ, Braxin, Goatêmala, Australia... từ rất lâu đời.
Ở nước ta, Long não cũng được trồng trên đồi, trong vườn hoa, quanh
cơng sở và làm cây bóng mát ven đường ở Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng và
ở hầu khắp các tỉnh trung du miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc
Kạn, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hồ
Bình, Bắc Giang, Thái ngun, Sơn La...) [6].
1.2.3. Giá trị sử dụng của cây Long não
Cây Long não cho nhiều sản phẩm có giá trị sử dụng cao như Campho,
tinh dầu long não, gỗ và ngay cả khi cây đang tồn tại đã có giá trị rất lớn về
mơi trường.
Campho được dùng ngồi làm thuốc sát trùng, tiêu viêm, kích thích
(dưới dạng cồn hay dầu 5 -10%). Nó cịn được dùng dưới dạng thuốc tiêm dầu
(pha trong dầu thảo mộc) hay nước (dạng muối natricamphosunfonat) để hồi
tỉnh cơ tim, chữa truỵ tim mạch hay suy nhược, hoặc dùng để uống chữa đau
bụng, giảm lượng phân [9].

Campho và tinh dầu long não là một trong những thành phần chính của
phần lớn các loại dầu xoa, cao xoa và được dùng nhiều trong chế phẩm dược
dụng khác. Trong danh mục thuốc thống nhất toàn ngành của Bộ y tế (in lần
thứ 2, năm 1982 [1] có ghi 14 chế phẩm có chứa campho, trong đó có 5 (trong
số 8) loại cao xoa, dầu xoa, 5 loại thuốc điều trị ỉa chảy, 2 loại thuốc trợ tim, 1
11


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

loại thuốc xoa bóp, và một loại thuốc đau răng. Trong cuốn sách về biệt dược
của Vidal (Pháp) (1989) có ghi 48 chế phẩm có thành phần là campho.
Campho cịn được dùng làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
chất dẻo, làm ngà voi nhân tạo, công nghiệp cao su, công nghiệp quốc phịng
(làm thuốc súng khơng khói), trong nơng nghiệp dùng để kích thích hạt nảy
mầm [9].
Tinh dầu long não (phần đã lấy hết campho) được dùng làm nguyên liệu
cho công nghiệp hương liệu (nước hoa, xà phòng; làm nguồn nguyên liệu để
tách ra các chất thơm có giá trị...), ngành công nghiệp thuốc trừ sâu [9, 19].
Gỗ Long não được dùng để đóng tàu, thuyền và đồ dùng trong gia đình,
làm đồ mỹ nghệ [3, 20 ].
Cây Long não có dáng đẹp, lại tạo môi trường trong sạch (do lá Long
não có khả năng hấp thụ các ion khối lượng nặng như chì...) nên được trồng
làm cây cảnh trong các thành phố và làm sạch môi trường nơi đông dân cư.
Cây Long não có thể sống lâu đời, trên 1000 năm nên có thể tạo được rừng
phịng hộ có hiệu quả. Bản thân cây Long não là loại cây có khả năng cải tạo

rừng.[3].
Cây Long não thuộc loại cây có nhiều cơng dụng.
1.2.4. Thành phần hố học và đặc tính của tinh dầu
1.2.4.1. Đặc tính của tinh dầu
Hầu như tất cả các bộ phận (lá, hoa, gỗ thân, rễ…) ở cây Long não đều
chứa tinh dầu, song hàm lượng tinh dầu lại biến động rất lớn. Những tư liệu đã
có, cho thấy tinh dầu trong gỗ thân thay đổi trong giới hạn 0,8 – 6,6 % (trung
bình 3,5 – 4,2 %) trong gỗ rễ từ 1,5 – 6,4% (trung bình: 3 – 4%) trong lá từ
0,1 – 2,5% (trung bình: 0,8 – 1%) và trong hoa từ 0,1 – 1,5 (trung bình 0,6%)
[6]. Các kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Khiển (1992) cũng đã xác định
hàm lượng tinh dầu trong gỗ Long não trồng tại các khu vực ở Việt Nam có xu
hướng giảm dần từ gỗ thân đến gỗ rễ, sau đó là lá và cuối cùng là hoa, quả.
12


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

Hàm lượng tinh dầu trong gỗ và rễ Long não khô tại Trung Quốc thường
từ 3 – 5% còn ở Ấn Độ trung bình 1 – 1,2% [6].
Campho là thanh phần quan trọng nhất trong tinh dầu long não. Campho
thiên nhiên ở dạng tinh thể có màu trắng, trong suốt, dễ gãy, có mùi thơm đặc
trưng, vị nóng. Về mặt hố học campho là một xeton có nguồn gốc từ một
tecpen nhị vịng, có thể thăng hoa chậm ở nhiệt độ phịng, không tan trong
nước, song lại tan dễ dàng trong các dung môi hữu cơ (cồn, ete, clorofoc…).
Campho là một chất rất độc, với liều lượng 50 - 500 mg/kg có thể gây chết
người, ở liều lượng thấp có thể gây nơn mửa, với liều lượng cao hơn có thể

gây rối loạn bộ máy tiêu hoá. Trong y học Campho được sử dụng theo những
quy định chặt chẽ.
Hàm lượng tinh dầu, động thái của campho và thành phần các hợp chất
hoá học trong tinh dầu long não rất phức tạp: chúng thay đổi không chỉ tuỳ
thuộc vào các bộ phận khác nhau của cây mà cả vào tuổi cây, điều kiện mơi
trường sống và đặc biệt là tính di truyền.
Những nghiên cứu [19, 20] cho thấy:
- Tỷ lệ campho trong tinh dầu gỗ cây Long não tăng dần theo tuổi cây .
Gỗ cây non chứa ít campho hơn gỗ cây già. Ở những cây 60 năm, lượng
campho trong gỗ gần như bằng lượng tinh dầu.
- Ở những cây già hơn 60 năm lượng campho tăng dần theo tuổi cây,
còn lượng tinh dầu thì ngược lại.
Đối với tinh dầu lá long não thì Rao và cộng sự (1925) đã nghiên cứu
thấy tinh dầu lá cây 20 năm và cây 40 năm tuổi cho số lượng campho như
nhau [33].
Trong 1 năm, theo Masao [26] thì campho trong lá tăng lên từ tháng 4
đến tháng 6, giảm đi vào tháng 7, rồi lại tăng lên vào tháng 9... Đây là cơ sở
giúp chúng ta có thể khai thác vào thời gian nào và loại cây nào (bao nhiêu
tuổi) để có được hàm lượng tinh dầu hay campho theo mong muốn.
13


Đinh Trọng

Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Vận

Những nghiên cứu ở Nhật Bản [19] cho thấy :
- Cây mọc tự nhiên chứa nhiều tinh dầu và campho hơn là cây trồng.

- Cây mọc riêng biệt chứa nhiều tinh dầu và campho hơn cây mọc tập
trung.
- Những cây phát triển tốt chứa nhiều tinh dầu và campho hơn là cây
phát triển kém.
- Cây già chứa nhiều campho hơn cây non.
- Cây mọc trên đất cát chứa nhiều campho hơn cây mọc trên đất thịt.
- Cây mọc trên đất khô ráo chứa nhiều campho hơn cây mọc trên đất ẩm
ướt.
Những nghiên cứu của Fujita [17] cũng cho thấy cây mọc nơi nhiều ánh
sáng chứa nhiều tinh dầu và campho, còn những cây ở nơi thiếu ánh sáng thì
trong tinh dầu có nhiều safrol hơn.
1.2.4.2. Thành phần hoá học
Cho tới năm 1950, một số lượng khá lớn các hợp chất đã được phát hiện
trong các loại tinh dầu long não trên thế giới.Theo E. Guenther [20] đã có 75
các hợp chất được xác định trong các loại tinh dầu long não ở Đài Loan, có
thể được chia thành các nhóm như sau:
1 - Các axit gồm:

12 hợp chất.

2 - Các andehit gồm:

13 hợp chất.

3 - Các xeton và oxit gồm:

6 hợp chất.

4 - Các ancol gồm:


13 hợp chất.

5 - Các phenol và etephenol gồm:

11 hợp chất.

6 - Các monotecpen gồm:

13 hợp chất.

7 - Các secquitecpen gồm:

4 hợp chất.

8 - Các ditecpen gồm:

3 hợp chất.

Từ 1950 tới những năm gần đây đã có thêm nhiều cơng trình nghiên cứu
tinh dầu của rễ, cành, lá, chồi, quả của cây Long não có ít nhất 77 hợp chất
14


Đinh Trọng

Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Vận

mới được phát hiện đưa tổng số các hợp chất đã được phát hiện từ các loại

tinh dầu long não lên tới 152 chất cụ thể như sau:
Năm 1963, N. Hirota và Hiroi đã phát hiện trong tinh dầu lá cây Long
não mọc ở Đài Loan có chứa 2 secquitecpen mới là: nerolidol và fumuren
[23].
OH

nerolidol
Năm 1967, sau nhiều năm nghiên cứu về cây Long não ở Đài Loan, N.
Hirota và Hiroi [24] ngoài việc phân chia các cây Long não thành 4 nhóm theo
một quan điểm thực tiễn hơn, đã phân tích tinh dầu lá của cây Long não trên
và phát hiện thêm 5 hợp chất mới (trong số 14 hợp chất đã được xác định)
trong tinh dầu lá của cây Long não linalol miền Đông là: xitral (geranial và
neral), -ylangen, -elemen, -humulen và -calacoren. Hai hợp chất mới
(trong số 16 hợp chất đã được xác định) trong tinh dầu lá cây Long não
secquitecpen miền Đông là: -xyperon và caryophylen oxit.

CHO

geranial

OHC

neral

 - humulen

15


Đinh Trọng


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Vận

3 hợp chất mới trong tinh dầu lá cây safrol miền Đông là: -bisabolen,
facnesen và trans--nerolidol.

 - bisabolen
Cùng năm đó H. Hikino và cộng sự đã xác định cấu trúc của 2
secquitecpen mới được tách từ tinh dầu long não xanh là capherenon và
capherenol. Năm 1968 H. Hikino và cộng sự lại xác định được cấu trúc của 1
secquitecpen ancol mới được tách từ tinh dầu long não xanh là kusunol [22].
Cùng năm đó S. Hayashi và cộng sự đã xác định được15 hợp chất
secquitecpen mới trong các phân đoạn sau:
- Từ phân đoạn có nhiệt độ sơi lớn hơn 2150C đã xác định được 5
secquitecpen mới là: -quaien, calamen, 1,6-dimetyl 4-isopropyl 7,8dihidronaphtalen, -patchoulen và cadien-9,11(12)-dien. Cũng từ phân đoạn
này, ông đã xác định được 5 hợp chất secquitecpen ancol mới là: elemol,
guaiol, -cadiol, -endesmol và junipercampho [21].

OH

elemol

16


Đinh Trọng

Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ


Vận

- Từ tinh dầu long não xanh đã xác định được 5 hợp chất secquitecpen
là:

myristixin,

2-pentadicanon,

2,2-metylendioxi,

naphtalen



piperonylacrolein, cùng một vài hợp chất azulen khác [21].
Cũng trong năm 1968, T. Ioshida [27] đã tách và xác định được 27
chất từ tinh dầu lá Long não Nhật bản, trong đó có 17 chất mới là: mevinylxeton, me-isobuxeton, mezityloxit, hexanol, cis-hexen-3- ol, mircen, pxymol, cis và trans-oximen, cis và trans-linaloloxit, (+) trans và (+) cis-2,6,6trimetyl-2-vinyl-5-hidroxy

tetrahydropyran,

nerol,

(+)

-sabinen,

(+)


tragetonol, (-) trans-hotrienol.
OH

OH

O

mycren (+) tragetonol

CH2OH

( -) trans-hotrienol

nerol

oximen

Năm 1970, Y. Fujita và công sự đã tách từ tinh dầu long não nhật bản
(C.japanicum) 2 monotecpenancol mới là cis và trans-yabunikeol [14]. Từ
một loài Long não khác (Cin.nominale var linalia), Y. Fujita đã phát hiện thấy
tinh dầu của nó chứa tới 92% linalol và khoảng 4,5 đến 7,6% nerolidol [13].
OH

linalol
Năm 1971, Y. Fujita và cộng sự đã tách được 49 hợp chất từ tinh dầu
lá, chồi và cành con của một loài long não Nhật Bản (C. japonicum Sieb = C.
pedunculatum Nees). Điều đặc biệt là lần đầu tiên tìm thấy ở Nhật Bản lồi
Long não có thành phần tinh dầu lá, chồi và cành con có nhiều p-xymen (40%,

17



Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

45,2% và 24,1%). Trong tinh dầu cành con ngồi p-xymen, 1,8-xineol cịn có
thêm linalol là thành phần chính [15].

p-xymen

1,8-xineol

Một secquitecpen mới trong tinh dầu long não được T. Ishida xác định
là valensen [28].

H

H

Valensen
Năm 1976, D. Takaoka và cộng sự đã nghiên cứu các hợp chất trong
thành phần secquitecpen của tinh dầu long não. Ông đã cùng với M. Hiroi
phát hiện thấy trong tinh dầu lá Ho-Sho (Tiếng Đài Loan: ho = thơm ngát, sho
= Long não) chứa 80% linalol có 2 monotecpendiol mạch hở được xác định là:
3,7-dimetyl octa-1,7-dien-3,6-diol và 3,7-dimetyl octa-1,5-dien-3,7-diol [36].
Năm 1977, U. N. Senanayake [34] đã xác định sự có mặt của 45 hợp chất
trong tinh dầu long não trong đó 16 hợp chất mới là: -phelandren, tecpinolen,

phenylaxetandehit, metylchavicol, piperiton, geranylaxetat, cumiodandehit,
xinamandehit, metylxinamat, ancolxinamic, fenchonbenzandehit, linalylaxetat
và viridiflorol.
OCOCH3

18


Đinh Trọng

Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Vận

H
- phelandren

tecpinolen

linalylaxetat

Năm 1978, B. M. Lawrence [31] nghiên cứu tinh dầu lá Ho-Sho, xác
định được 17 hợp chất (linalol chiếm 95%) trong đó có một hợp chất mới là
nerylaxetat.
Năm 1979, H. Huego và cộng sự đã phát hiện ra một hợp chất mới
trong phần axit và phenol của tinh dầu long não là campho [25].

O

OCOCH3


nerylaxetat

campho

Các kết quả nghiên cứu cho thấy loại Long não có thành phần tinh dầu
chủ yếu là linalol, ngoài 2 cây rất quen biết là cây Linalol miền Đông (C.
camphora Subsp. formosana var. orientalis sub. var. linalola Hirota) và cây
Linalol miền Tây (C. Camphora Subsp. formosana var. occidentalis sub. var.
linalola Hirota), cịn có 9 thứ cây Long não khác được cơng bố là tinh dầu có
chứa một lượng lớn linalol:
1. Cây C. nominale var. linalia Fujita.Y. Fujita và các cộng sự đã xác
định trong tinh dầu của nó chứa tới 92% linalol [13].
2. Cây C. japonicum .Y. Fujita thấy tinh dầu của nó có chứa một tỷ lệ cao
linalol [13].
19


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

3. Cây C. reticulatum Hayata, một thứ cây Long não nhỏ, chỉ mọc ở vùng
Heng-chun ở Đài Loan. Y. Fujita và cộng sự đã nghiên cứu thấy tinh dầu lá
tươi của nó chứa tới 96,7% linalol, khơng có campho hoặc etephenol [16].
4. Cây C. tamala Nees et Eberm. Sood nghiên cứu thấy tinh dầu của nó
chứa chủ yếu là linalol [35].
5. Cây C. daphnoides.Y. Fujita thấy tinh dầu chứa 59 - 77% linalol [14].

6. Cây C. doederleini. Tinh dầu chứa 45% linalol [18].
7. Cây C. camphora var. linalolifera ở Trung Quốc. Tao Quangfu thơng
báo trong tinh dầu lá tươi có chứa 89,59% linalol [37].
8. Cây C. parthenoxylon ở Trung Quốc cũng chứa 81,41% linalol trong
tinh dầu [37].
9. Cây C. termipilis ở Trung Quốc. Xuejian Yu phát hiện trong tinh dầu
chứa 97,51% linalol [38].
Một số nghiên cứu về sự biến dị của các cây Long não mọc từ hạt đã
được công bố: hạt của cây Long não cho nhiều linalol khi mọc lại cho những
cây con có thành phần chủ yếu là xineol hoặc safrol hoặc campho hoặc linalol
[29].
Trong 64 cây Long não (loại có tỷ lệ xineol cao) lại có 21% số cây
chứa tỷ lệ cao tecpineol, 51% số cây chứa linalol và campho, còn khoảng 4%
số cây chứa safrol [32]. Song những nghiên cứu của A. K. S. Baruah lại cho
thấy tỷ lệ xineol trong những cây Long não nhập từ Đài Loan vào vùng Assam
(Ấn Độ) lại không thay đổi [11].
Sự phong phú về thành phần tinh dầu của cây Long não còn thấy được
qua một số kết quả nghiên cứu như:
- B. M. Lawrence nghiên cứu thấy tinh dầu cây C. mercadoi ở Philippin
chứa safrol (30,3 %), 1,8-xineol (29,4%), cả eugenol (15,4%). Còn cây
C.mindanae chứa eugenol (39,3%), linalol (19,4%) và safrol (15%) [30].
20


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận


- Y. Fujita (1960) thấy tinh dầu cây C. kanahirai có chủ yếu là tecpineol,
cịn cây C. micranthum lại có thành phần chủ yếu trong tinh dầu là
dexylandehit và pentadexylandehit [12].
- Tinh dầu long não của Pakistan lại chứa 0,6% campho [36] và tinh dầu
cây C. reticulatum lại hồn tồn khơng có campho [16].
Các kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ cũng như ở
nước ta về các thành phần chủ yếu của tinh dầu long não đã chia chúng thành
những dạng hoá học sau:
- Long não chứa campho (campho type) - trong tinh dầu chứa campho
chiếm từ 70 - 90%.
- Long não chứa linalol (linalol type) - trong tinh dầu chủ yếu chứa linalol
(80 - 90%), ngoài ra còn metylisobutylketon, -pinen, limonen, difenten,
geraniol, xitral, campho, -caryophylen, -selinen, -ylangen, -elemen,
humulen và -calacoren ...
- Long não chứa xineol (xineol type) - trong tinh dầu chứa chủ yếu là 1,8xineol (76%), các thành phần cịn lại có hàm lượng đáng lưu ý là limonen, pinen, - tecpineol, caryophylen và -selinen...
- Long não chứa secquitecpen (secquitecpen type) - trong tinh dầu chứa
chủ yếu là nerolidol (40 – 60%), các thành phần khác có hàm lượng đáng chú
ý là -pinen, limonen, 1,8-xineol, p-xymen, linalol, geraniol, campho, ylangen, -elemen, caryophylen, -humulen, -selinen, caryophylenoxit, xyperon...
- Long não chứa safrol (safrole type) - trong tinh dầu chứa chủ yếu là
safrol (80%), các thành phần còn lại đáng chú ý là -pinen, -pinen, limonen,
1,8-xineol, sabinen, campho , linalol, caryophylen...
- Long não chứa -phelandren (-phelandrene type) - trong tinh dầu có
thành phần chính là -phelandren (60%), các thành phần cịn lại có hàm lượng
21


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng


Vận

đáng kể là -thujen, -pinen, sabinen, linalol, campho, -tecpineol, carvacrol,
-caryophylen, -selinen...
- Long não chứa iso-nerolidol (iso-nerolidol type) - thành phần chủ yếu
trong tinh dầu là iso-nerolidol (57,7%), các thành phần khác là -tecpineol,
linalol, tecpine-4-ol, bocneol, - caryophylen...
- Long não chứa bocneol (bocneol type) - thành phần chính trong tinh dầu
là bocneol (81,8%), các thành phần còn lại là campho, -pinen, 1,8-xineol,
limonen, camphen, myrcen, -caryophylen...
- Long não chứa campho - secquitecpen (campho - secquitecpen type).
- Long não chứa campho - 1,8- xineol (campho - 1,8- xineol type).
Nhiều tài liệu đã công bố ở Đài Loan,Trung Quốc cũng như ở nước ta đã
định loại thứ Long não chứa linalol (linalol type) là C. camphora var.
linalolifera.
Ở nước ta cũng đã có thứ Long não mà trong tinh dầu lá chứa chủ yếu
là linalol (91,1%), các thành phần khác gồm 4-metyl-2-pentanol (vết), -pinen
(vết), myrcen (vết), 1,8-xineol (0,3%), limonen (vết), an-oximen (vết), cislinalol oxit (0,2%), trans - linalol oxit (0,5%), campho (2,3%), -tecpineol
(1,8%), safrol (vết), -copaen (vết), cis-sabinol (0,1%), -caryophylen
(0,2%), - humulen (0,1%) và (z)-nerolidol (0,6%) (Nguyễn Xuân Dũng và
cộng sự 1995) [6].
Nghiên cứu các thành phần hoá học của tinh dầu trong gỗ, thân, lá và
hoa của từng cá thể Long não riêng biệt, sinh trưởng ở Hà Nội và nhiều tỉnh
miền núi nước ta, Phạm Văn Khiển (1992) [8] đã cho rằng loài Long não (C.
camphora) hiện đang sinh trưởng ở nước ta có thể bao gồm ít nhất 6 dạng
hoặc 6 nịi hố học (chemotype) bao gồm:

22



Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

- Nhóm 1: Thành phần chính trong tinh dầu của gỗ thân và lá đều là
campho (tỷ lệ campho trong tinh dầu gỗ thân là 67,65  2,42% trong tinh dầu
lá là 74,06  1,33%).
- Nhóm 2: Thành phần chính của tinh dầu gỗ thân là campho (69,11 
0,71%), song tinh dầu lá lại có thành phần chính là các secquitecpen (53,14 
2,48%).
- Nhóm 3: Thành phần chính của tinh dầu gỗ thân là hỗn hợp campho xineol, trong đó campho chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với xineol (42,08  4,36%
so với 25,23  4,32%). Thành phần chính trong tinh dầu lá lại là các
secquitecpen (74,28  5,31%).
- Nhóm 4: Thành phần chính trong tinh dầu gỗ thân là hỗn hợp campho xineol, trong đó tỷ lệ xineol nhiều hơn (campho: 27,21  2,76%; xineol: 41,76
 3,6%). Tinh dầu lá lại chứa chủ yếu là xineol (52,74  3,03%).
- Nhóm 5: Thành phần chính trong tinh dầu lá là linalol với tỷ lệ là
90,23  0,61% (gổ chưa có điều kiện nghiên cứu).
- Nhóm 6: Thành phần chính của tinh dầu lá là phelandren (khoảng
60%).
Nếu chỉ xét riêng tinh dấu lá cây Long não Việt Nam có thể được chia
làm 5 nhóm:
- Nhóm 1: Gồm những cây Long não có thành phần tinh dầu lá chủ yếu
là Campho (70-80%).
- Nhóm 2: Gồm những cây Long não có thành phần chủ yếu trong tinh
dầu lá là xineol (50 - 55%), campho tồn tại với một lượng khơng đáng kể.
- Nhóm 3: Gồm những cây có thành phần chủ yếu là trong tinh dầu lá là
các secquitecpen (65 - 80%), campho và xineol tồn tại với một lượng không
đáng kể.


23


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

- Nhóm 4: Gồm những cây Long não có thành phần chính trong tinh
dầu lá là linalol (90,23  0,61%) với một lượng nhỏ các secquitecpen, còn
campho và xineol tồn tại với một lượng nhỏ khơng đáng kể.
- Nhóm 5: Gồm những cây có thành phần chính trong tinh dầu lá là
phelandren (khoảng 60%).

24


Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Hữu cơ

Đinh Trọng

Vận

Phần 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phƣơng pháp lấy mẫu
Trong một năm, hàm lượng tinh dầu không phải lúc nào cũng như nhau
mà nó thay đổi tuỳ thuộc vào khí hậu, thời tiết, và các điều kiện ngoại cảnh
khác, cụ thể: tỷ lệ campho trong tinh dầu long não trong một năm tăng lên từ

tháng 1 đến tháng 6, giảm đi từ tháng 7 và sau đó lại tăng lên từ tháng 9
...[26].
Do vậy, để thu được hàm lượng tinh dầu (hay các thành phần mong
muốn trong tinh dầu) cao thì cần phải thu hái vào những thời điểm thích hợp
trong năm.
Việc lấy và bảo quản mẫu có ảnh hưởng đến chất lượng và hàm lượng
tinh dầu. Tuỳ vào loại cây, có loại cần phải cất lúc tươi, không được để khô,
nhưng cũng có loại cần phải ủ vài ba ngày hoặc để khơ thì nhiều tinh dầu hơn.
Nhiệt độ và ánh sáng cũng làm thay đổi hàm lượng và tính chất của một số
tinh dầu, vì vậy tốt nhất mẫu cây phải được thu hái vào buổi sáng hoặc lúc
chiều tối (khi trời mát mẻ). Nên lấy những mẫu sạch để khi cất không cần phải
rửa. Trường hợp mẫu bẩn quá hoặc phải lấy cả rể thì phải rửa sạch để khơ nơi
thống mát hoặc sấy khơ ở 400 C (chú ý: khi lấy mẫu và khi rửa phải cẩn thận
không làm dập nát. Vì trong cây, tinh dầu ở trạng thái tự do, nó có thể được
tạo thành và tập trung những tế bào giống như tế bào khác của cây hoặc lớn
hơn, nhưng thường tinh dầu ở trạng thái tự do, được tập trung cao ở cơ quan
bài tiết, chẳng hạn ở lông bài tiết của các cây thuộc họ hoa môi, tập trung dưới
lớp Cution trong túi bài tiết liệt sinh ở các cây họ cúc... Nếu chúng ta làm dập
nát thì một phần tinh dầu sẽ hồ lẩn vào nước khi rửa, vì thế mà hàm lượng
tinh dầu sẽ giảm).

25


×