Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

How do evaluate financial liquidity of a company (VIET)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.34 KB, 22 trang )

LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐÁNH GIÁ THANH KHOẢN TÀI CHÍNH
MỘT CƠNG TY SỬ DỤNG biệt thức
PHÂN TÍCH
Monika Bolek, tiến sĩ
Bartosz Grosicki, M.A.
Đại học Lodz, Khoa Kinh tế và Xã hội học, Lodz, Po
trừu tượng
Trong bài báo này tác giả phân tích các vấn đề của việc đánh giá tính thanh khoản trong
một
cơng ty và đi đến kết luận rằng có rất nhiều cách tiếp cận này
hiện tượng và rất khó để kết luận nếu tình hình cơng ty này
lĩnh vực là tốt hay khơng. Các nhà quản lý có thể chờ đợi cho đến thời điểm phá sản khi

được biết chắc chắn rằng có thanh khoản khơng có trong một cơng ty hoặc họ có thể
kiểm tra xem nó
và hành động trước đó. Nhiều cơng ty đang giảm và nhiều người đang hoạt động trên
cạnh từ nhà quản lý không thể tập trung vào mọi khía cạnh thanh khoản
đồng thời. Với mơ hình đề xuất trong bài báo này, dựa trên
phân tích biệt, nó có thể đánh giá tính thanh khoản của cơng ty
tình hình và cải thiện nó nếu cần thiết.
Từ khóa: thanh khoản, phân tích biệt, lợi nhuận
Giới thiệu
Thanh khoản là một hiện tượng phức tạp và phức tạp liên quan
cấu trúc thời gian của tài sản, hiệu quả hoạt động và lợi nhuận. Thông thường
Vấn đề này không được thảo luận một cách phức tạp kết nối đến lợi nhuận,
chi phí vốn và rủi ro liên quan đến quản lý vốn lưu động.
quản lý thanh khoản và mối quan hệ của nó đến lợi nhuận, nợ và đầu tư
làm cho nó một trong những lĩnh vực chính mà quyết định quan trọng được đưa ra cho
các
doanh nghiệp. Trong các tài liệu chúng tơi có thể phân biệt một vài phương pháp để
thanh khoản. Phân tích cơ cấu tài sản cho phép để xác định mức độ


thanh khoản trong điều kiện như thế nào tài sản có thể dễ dàng được chuyển đổi thành
tiền mặt, trong đó
tiền mình có một mức độ cao nhất của thanh khoản. Phương pháp thứ hai là
để phân tích các tỷ lệ tài sản hiện tại để nợ ngắn hạn, có tính
mức vốn lưu động ròng. Cách tiếp cận này được coi là nhất
cổ điển và cũng được sử dụng cho việc đánh giá tình trạng của cơng ty
và nguy cơ phá sản. Một cách khác là để đánh giá việc chuyển đổi tiền mặt
chu kỳ như một biện pháp năng động liên quan đến tốc độ lưu thông tiền mặt
hanh khoản cũng có thể được đo lường như dịng tiền từ hoạt động kinh doanh.
đánh giá tính thanh khoản là có thể liên quan đến các mục tiêu của công ty.
Một trong số đó là để đạt được một lợi nhuận như vậy, trong đó bao gồm các chi phí
vốn và tạo ra giá trị gia tăng. Lấy vốn với giá rẻ nhất trên
thị trường, quyết định đầu tư chính xác, cả về tài sản cố định và làm việc
vốn là những yếu tố quan trọng của quản lý thanh khoản.
Các phương pháp tiếp cận khác nhau để xác định và đo lường tính thanh khoản và nó


bản chất trong quản lý tài chính của các doanh nghiệp dẫn đầu các tác giả để phát triển
như một biện pháp mà sẽ đưa vào tài khoản của tất cả các phương pháp nêu trên
thanh khoản trong một mét định thanh khoản là tốt hay xấu. Mục đích của
bài viết này là để phân tích các khái niệm về thanh khoản và cách thức để đo lường nó
trong
về lợi nhuận. Altman mơ hình Z-score đã lấy cảm hứng từ việc xây dựng
các chỉ thị, cho phép để xác định tình trạng thanh khoản của cơng ty
thơng qua các biện pháp khác nhau liên quan đến lợi nhuận và chi phí vốn.
Do đó, giả thuyết sẽ được xác nhận ở đây rằng các biện pháp dựa trên
mơ hình biệt thức thỏa đáng có thể cho thấy thanh khoản của cơng ty,
và mức độ thanh khoản có thể được định nghĩa là tốt hay xấu trong quan hệ với các
lợi nhuận so với chi phí vốn bình qn gia quyền.
vấn đề Tổng quan

Các viện sĩ đã cố gắng để xác định thanh khoản và
quản lý sử dụng kỹ thuật đề xuất để làm cho các cơng ty đủ để có lợi nhuận
Shilling (1991) nên chu kỳ chuyển đổi tiền mặt như tính thanh khoản tốt nhất
đo gọi đó là thanh khoản nổi Net bởi vì nó đo phao
kết hợp với thời gian mà tài ngun cơng ty (ví dụ: tiền mặt) được đầu tư vào
Tài sản lưu động bù đắp bằng phao gắn liền với thời gian mà việc đầu tư
được tài trợ bởi tín dụng thương mại. Nobanee và AlHajjar (2009b)
khuyến cáo các biện pháp chính xác hơn về quản lý vốn lưu động, chẳng hạn
là chu kỳ chuyển đổi tiền mặt tối ưu, chu kỳ hoạt động tối ưu, và
chu kỳ thương mại ròng tối ưu, dựa trên các kết quả nghiên cứu của họ cho thấy một
tác động tiêu cực đáng kể của chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và các khoản phải trả
thời gian trì hỗn đến lợi nhuận của cơng ty. Điều này có thể bao hàm sự kéo dài đó
các khoản phải trả khoảng thời gian trì hỗn đau tín dụng danh tiếng của cơng ty và có lẽ
làm giảm các nhà cung cấp của nó, do đó làm giảm doanh thu và lợi nhuận của nó. trên
Mặt khác, đã có một tác động đáng kể và tích cực của các khoản phải thu
thời gian chuyển đổi và thời gian chuyển đổi hàng tồn kho trên lợi nhuận, trong
tương phản với đa số các nghiên cứu. Điều này có thể ngụ ý rằng bằng cách rút ngắn
Thời hạn chuyển đổi hàng tồn kho, các chứng khốn ra chi phí hàng tồn kho có thể làm
tăng,
do đó, doanh số bán hàng sẽ giảm và lợi nhuận sẽ được giảm. giảm
Thời hạn chuyển đổi các khoản phải thu sẽ làm giảm cũng trong công ty của
lợi nhuận, bởi vì cơng ty có thể bị mất khách hàng tín dụng tốt của nó,
do đó nó sẽ có doanh thu ít hơn, giảm doanh thu và lợi nhuận ít hơn. hơn thế nữa
tỷ lệ nhanh chóng được tiêu cực liên quan đến lợi nhuận. McCell và Lipman
(1986) đã đưa ra một định nghĩa chính xác của tính thanh khoản về thời gian cho đến khi
một
tài sản được đổi thành tiền. Trong khi đó, các nhà kinh tế học khơng có
một định nghĩa về thanh khoản là một khái niệm đo lường được, người lao động khác
trong khu vực
tình cờ trả lời rằng tính thanh khoản là chiều dài của thời gian để bán một tài sản.

Mặc dù đã có rất nhiều cách tiếp cận từng người là quan trọng và đó là lý do tại sao
tác giả của bài báo này quyết định sử dụng đo lường tính thanh khoản đã được xác định
để đánh giá khả năng thanh tốn của một cơng ty.


Các vấn đề về thanh khoản tương ứng với sự phá sản. John (1993)
khẳng định một quan điểm chung của khủng hoảng tài chính là nó kết quả từ khơng phù
hợp
giữa các tài sản hiện có và các nghĩa vụ tài chính của mình. cơ chế
để đối phó với khủng hoảng tài chính khắc phục khơng phù hợp bằng xây dựng lại
tài sản cấu trúc hoặc hợp đồng nghĩa vụ. Điểm Altman Zeta (2000) giao dịch
với xác suất thất bại của cơng ty do đó giải pháp này lấy cảm hứng
tác giả của nghiên cứu này sử dụng phương pháp Altman cho thanh khoản
thẩm định, lượng định, đánh giá.
Chúng ta phải nhớ rằng, thanh khoản đó là khơng chỉ kết nối với
phá sản mà cịn cho phép các cơng ty phát triển. Almeida et al. (2004)
mơ hình theo u cầu của một công ty cho thanh khoản để phát triển một thử nghiệm mới
về hiệu quả của
chế tài chính về chính sách của cơng ty. Hiệu quả của chế tài chính
được chụp bởi xu hướng của cơng ty để tiết kiệm tiền mặt ra khỏi lưu chuyển tiền tệ (tiền
mặt
chảy nhạy cảm của tiền mặt)
Lợi nhuận được công nhận là một mục tiêu của hoạt động công ty (các
khái niệm cổ điển). Có rất nhiều giấy tờ phân tích mối quan hệ giữa
thanh khoản và lợi nhuận. Filbeck và Krueger (2005) đã kiểm tra
làm việc quản lý vốn giữa các ngành công nghiệp và thấy rằng lợi nhuận
tăng do chi phí tài chính thấp hơn đã xảy ra bởi vì các công ty
giảm tài sản hiện tại của họ, như một phương tiện để hỗ trợ mở rộng của họ thay vì
phát hành thêm nợ. Garcia-Teruel và Martinez-Solano (2007) đã kiểm tra
những ảnh hưởng của việc quản lý vốn trên lợi nhuận. Kết quả của họ

chỉ ra rằng khi các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt đã được giảm xuống của công ty
lợi nhuận tăng lên. Các nhà quản lý có thể làm tăng giá trị cơng ty của họ và họ
lợi nhuận bằng cách giảm hàng tồn kho và số lượng tài khoản ngày
thu là xuất sắc, do đó, giảm các khoản phải thu và tiền mặt của họ
chu kỳ chuyển đổi. Chakraborty (2008) đã kiểm tra mối quan hệ giữa
làm việc quản lý vốn và lợi nhuận vững chắc cho một mẫu của Ấn Độ
các cơng ty. Ơng phát hiện ra rằng vốn lưu động có liên quan đến tiêu cực
lợi nhuận và đầu tư vào vốn lưu động cần thiết để giữ
điều hành cơng ty, do đó có một mối quan hệ tích cực giữa vốn lưu động
và lợi nhuận công ty. Singh (2008) được hỗ trợ phát hiện bởi tuyên bố rằng
hàng tồn kho là những biến quan trọng nhất trong vốn lưu động
quản lý và lợi nhuận của cơng ty, vì vậy họ cần được quản lý
cẩn thận và hiệu quả. Mặt dưỡng và Hanuman (2009) nêu trong nghiên cứu của họ
rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa thanh khoản được biểu diễn bằng
tỷ lệ hiện hành và lợi nhuận được biểu diễn bằng lợi nhuận
tỷ lệ ký quỹ.
Nobanee và AlHajjar (2009a) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa làm việc
quản lý vốn đại diện của các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt,
chắc chắn
lợi nhuận đại diện bởi thu nhập hoạt động với tỷ lệ bán hàng và điều hành
lưu chuyển tiền tệ được đo bằng tiền mặt hoạt động chảy vào tỷ lệ bán hàng. họ tìm thấy


rằng có một mối quan hệ có ý nghĩa và tiêu cực giữa tiền mặt
chu kỳ chuyển đổi và lợi nhuận của công ty, cũng như với các khoản phải thu
thời gian chuyển đổi và lợi nhuận. Có một ý nghĩa và tích cực
mối quan hệ giữa các giai đoạn tồn kho chuyển đổi và lợi nhuận, mà
ngụ ý rằng là thời kỳ chuyển đổi hàng tồn kho tăng, điều hành
thu nhập tỷ lệ doanh thu tăng và ngược lại. Giảm doanh số có thể gây ra
doanh thu thấp, lợi nhuận do đó thấp hơn. Cũng có một bất ngờ

Kết quả, khơng phù hợp với những gì mà tác giả đưa ra giả thuyết. các khoản phải trả
thời gian trì hoãn được tiêu cực và đáng kể liên quan đến cơng ty
lợi nhuận, thay vì các mối quan hệ tích cực với dự kiến. Điều này ngụ ý rằng
bằng cách trì hỗn để trả các tài khoản của mình phải trả, cơng ty bị thiệt hại tín dụng của

danh tiếng và kết thúc với hiệu suất kém và lợi nhuận thấp.
Về mối quan hệ giữa các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và hoạt động của cơng ty
dịng tiền đã có một mối quan hệ tiêu cực. Việc chuyển đổi các khoản phải thu
Giai đoạn này cũng đã có một tác động tiêu cực đến dòng tiền hoạt động, cũng như các
Phải trả trì hỗn thời gian, trong khi thời gian tồn kho chuyển đổi đã có một
tác động tích cực. Nobanee và AlHajjar (2009c) đã nghiên cứu mối quan hệ
giữa các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và lợi nhuận và họ tìm thấy nó
tiêu cực. Nói cách khác, để tăng lợi nhuận của công ty trong
chu kỳ chuyển đổi tiền mặt nên được giảm, hoặc bằng cách rút ngắn
Thời hạn chuyển đổi các khoản phải thu hoặc thời gian tồn kho chuyển đổi, hoặc bằng
cách
kéo dài thời gian trì hỗn các khoản phải trả. Biến lợi nhuận, lợi nhuận
đầu tư (ROI), đã được tiêu cực liên quan đến các khoản phải thu và
thời gian tồn kho chuyển đổi cũng như chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và
tích cực liên quan đến các khoản phải trả khoảng thời gian trì hỗn. Các tác giả kết luận
rằng
các cơng ty Nhật Bản là hiệu quả hơn trong việc quản lý vốn lưu động của họ.
Desai và Joshi (2011) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn lưu động
quản lý và lợi nhuận vững chắc cho một mẫu của các công ty Ấn Độ. Như một
biện pháp quản lý vốn lưu động mà họ sử dụng các chuyển đổi tiền mặt
chu kỳ. Họ áp dụng phân tích hồi quy và thấy rằng có tồn tại một mạnh mẽ,
mối quan hệ tiêu cực giữa các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và
lợi nhuận. Vì vậy, các nhà quản lý của cơng ty nên cố gắng giảm độ dài
của chu kỳ chuyển đổi tiền mặt của công ty của họ để tăng lợi nhuận
và cuối cùng, tạo ra giá trị cho công ty của họ bằng việc có một mức tối ưu tiền mặt

chu kỳ chuyển đổi. Eljelly (2004) trong nghiên cứu của mình thực nghiệm kiểm tra
mối quan hệ giữa lợi nhuận và tính thanh khoản, được đo bằng tỷ lệ hiện hành và
khoảng cách tiền mặt (tiền mặt chu kỳ chuyển đổi). Sử dụng sự tương quan và phân tích
hồi quy
nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa lợi nhuận của cơng ty
và mức độ thanh khoản của nó, được đo bằng tỷ lệ hiện hành. Mối quan hệ này là hơn
rõ ràng trong các doanh nghiệp có tỷ lệ cao hiện hành và các chu kỳ chuyển đổi tiền mặt
lâu hơn.
Tuy nhiên, ở cấp ngành công nghiệp, nghiên cứu cũng kết luận rằng


khoảng cách tiền là quan trọng hơn như một biện pháp thanh khoản so với tỷ lệ hiện tại
có ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Kim et al (1998) mơ hình quyết định của công ty để đầu tư vào chất lỏng
tài sản. Họ nói rằng mức độ tối ưu của thanh khoản được xác định bởi một
sự cân bằng giữa lợi nhuận thấp trên tài sản lưu động và lợi ích về giảm thiểu
tốn kém tài chính bên ngồi. Họ đề xuất một mơ hình dự đốn rằng tối ưu
đầu tư thanh khoản ngày càng tăng trong chi phí tài trợ từ bên ngồi,
phương sai của dịng tiền trong tương lai, và lợi tức đầu tư trong tương lai
cơ hội, trong khi nó đang giảm dần trong sự khác biệt giữa lợi nhuận
công ty của tài sản vật chất và tài sản lưu động. Vấn đề này cũng đã được thảo luận bởi
Huberman (1984). Một nghiên cứu về thị trường thủ đô Ba Lan (Bolek và Wolski
2012) chỉ ra rằng các nhà đầu tư thích lợi nhuận hơn so với thanh khoản và do đó
quản lý nên đưa thơng tin này khi đưa ra quyết định
liên quan đến thanh khoản. Các biện pháp thanh khoản và lợi nhuận rất
khác nhau trong mỗi nghiên cứu rằng rất khó để so sánh kết quả giữa
quốc gia và phát triển các mơ hình quản lý thanh khoản toàn cầu
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả của bài báo này đề xuất một giải pháp thực tế và trình bày
mơ hình dựa trên phân tích biệt để chỉ ra tính thanh khoản là xấu hay tốt

kết nối nó với lợi nhuận đo bằng lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) ít hơn
Weighted Chi phí trung bình của vốn. Nếu một công ty tạo ra ROA cao hơn
Weighted Average Cost of Capital nó có nghĩa là quản lý thanh khoản dựa
về các tỷ lệ lựa chọn là tốt kể từ khi cơng ty có thể trang trải chi phí vốn.
Mặt khác, nếu trở lại thấp hơn so với chi phí vốn nó có nghĩa là
sự mong đợi của các nhà đầu tư và các yêu cầu của khách nợ khơng hài lịng
và lý do có thể là thanh khoản kém.
Các nguồn cảm hứng để xây dựng một mô hình đánh giá tính thanh khoản của cơng ty
đến từ các mơ hình phá sản. Các phân tích biệt đã được đề xuất
bởi Altman (1968) để khắc phục chủ quan tỷ lệ phân tích kết nối với
hiệu suất cơng ty. Mục đích của bài Altman là để cố gắng một
đánh giá phân tích tỷ lệ chất lượng như là một kỹ thuật phân tích trong việc đánh giá
tiềm năng phá sản của cơng ty. Ơng nhận thấy rằng các tác phẩm của Foulke (1961),
Smith và Winakor (1933), Hickman (1958), Merwin (1942), Beaver (1967)
và Tamari (1966) thành lập một số khái quát quan trọng liên quan đến
hiệu suất và xu hướng của các phép đo cụ thể. Việc áp dụng
kết quả của họ để đánh giá tiềm năng phá sản của các công ty, cả về mặt lý thuyết
và thực tế là có vấn đề. Phân tích tỷ lệ riêng biệt có thể gây nhầm lẫn
mang tín hiệu rằng họ là những mâu thuẫn và chúng ta thường khơng biết
trong đó tỷ lệ là quan trọng hơn và làm thế nào các trọng cần được quan
thành lập. Cùng một vấn đề là với các chỉ số thanh khoản trong khi chúng ta làm không
biết được tỷ lệ là quan trọng nhất đối với các quyết định quản lý.
Các phân tích biệt nhiều (MDA) đã được lựa chọn bởi Altman như
các kỹ thuật thống kê thích hợp đã được sử dụng trong một loạt các
kỷ luật từ ứng dụng đầu tiên của nó. Walter (1959) sử dụng mơ hình MDA
để phân loại các công ty tỷ lệ thu nhập giá cao và thấp, Smith (1965) áp dụng


kỹ thuật trong việc phân loại của các công ty vào các mục đầu tư tiêu chuẩn.
Có một số chi tiết các ứng dụng MDA rằng thời gian: Wall và Duning

(1928), Danh bạ (1964) và Myers và Forgy (1963). Trong thời gian gần đây
MDA cũng được sử dụng bởi Altman et al (1994) để phân tích so sánh
giữa các phương pháp thống kê truyền thống để phân loại suy và
dự đốn, tức là, tuyến tính biệt thức (LDA) hay logit phân tích, với một nhân tạo
thuật tốn thơng minh gọi là mạng nơron (NN). Blum (1974)
xây dựng mơ hình Cơng ty Rơi để hỗ trợ trong việc đánh giá xác suất
kinh doanh thất bại. Taffler (1982) đã xác định các cơng ty Anh có nguy cơ thất bại
và nêu ra một số vấn đề liên quan đến việc sử dụng đa biến thống kê
kỹ thuật trong lĩnh vực tài chính. Ramanujam et al. (1986) đã sử dụng
phân tích biệt để đánh giá khả năng của các quy định trong giấy
kích thước để phân biệt giữa các hệ thống lập kế hoạch hơn và kém hiệu quả,
sử dụng ba tiêu chí khác nhau về hiệu quả quy hoạch. Mơ hình MDA là
được sử dụng bởi Koh và Killough (1990) trong đánh giá của đi-quan tâm
tình trạng của một khách hàng kiểm tốn. Tác giả xây dựng một mục tiêu, thống kê
mơ hình phân loại và chứng minh như thế nào mơ hình này có thể giúp các cơng ty kiểm
tốn trong
làm cho bản án sẵn có. Barnes (1990) tập trung vào những dự đoán của
mục tiêu tiếp quản ở Anh bằng phương tiện của nhiều phân tích biệt. Anh ta
nói rằng việc sử dụng các dữ liệu kế toán cho mục đích dự báo là trung tâm của
quyết định tài chính đặc biệt là trong trường hợp các dự báo thất bại. Barnes (2000)
trong nghiên cứu tiếp theo của mình kiểm tra xem mơ hình đa biến bằng cách sử dụng
cơng bố
dữ liệu tài chính có độ chính xác dự đốn để xác định thành cơng các mục tiêu,
do đó thu nhập dư thừa trở lại thị trường chứng khoán.
MDA là một kỹ thuật thống kê được sử dụng để phân loại một quan sát vào
một trong nhiều nhóm, phụ thuộc vào cá nhân của quan sát
đặc điểm và kết quả xuất hiện như bị phá sản không bị phá sản hoặc tốt và
thanh khoản xấu trong đề xuất của chúng tơi. Sau khi nhóm được thành lập, dữ liệu
thu thập trong nhóm và MDA cố gắng để lấy được một sự kết hợp tuyến tính của
những đặc điểm phân biệt đối xử tốt nhất giữa các nhóm được thành lập.

Có một số lợi thế của MDA: kỹ thuật xem xét tồn bộ một
thơng tin về đặc điểm chung của các cơng ty có liên quan, cũng như các
tương tác giữa các thuộc tính, làm giảm các chiều khơng gian của nhà phân tích.
Các chức năng biệt thức biến đổi giá trị biến cá nhân với một đơn
điểm phân biệt với các cơng việc cơ bản của Altman nó được cho bởi
phương trình:
Z = v x + v x + ... + v x
1
1
2
2
n
n
(1)


. Trong đó: v - hệ số biệt thức, các biến độc lập x-.
MDA tính các hệ số biệt thức, trong khi
biến độc lập là những giá trị thực tế. Trong khi xây dựng các mơ hình đó là
cần lựa chọn các biến dự đốn một cách cẩn thận. Đó là một lợi thế
của mơ hình này là số tỷ lệ được giới hạn và hạn chế đến
số lượng người đáng kể. Kết hợp của các tỷ lệ có thể được phân tích với nhau
để loại bỏ misclassifications quan sát thấy trong phân tích truyền thống.
MDA đã bị chỉ trích bởi Joy và Tollefson (1975) và Eisenbeis
(2012), người nói rằng nó bị vấn đề về phương pháp luận hay thống kê
làm hạn chế tính hữu dụng thực tế của các kết quả của họ. Đó là bởi vì các tài chính
dữ liệu mà có vẻ là nhiều vấn đề và lý do là: phân phối
của các biến, các dạng phân tán nhóm, việc giải thích ý nghĩa của
biến số cá nhân, việc giảm chiều, các định nghĩa của
nhóm, lựa chọn thích hợp một xác suất tiên nghiệm

và chi phí
phân loại sai, ước tính tỷ lệ lỗi phân loại. Nó sẽ được
lưu ý rằng các biến được sử dụng trong phân tích biệt nên có một
phân phối bình thường (Eisenbeis, 1977). Các tác giả sử dụng một cơ sở dữ liệu của hơn
hơn 1000 quan sát giả định một cách tiên mà các giá trị của chung
dân số có một phân phối bình thường như các mẫu được chọn từ
dân số.
Tác giả của nghiên cứu này sử dụng phương pháp luận của Altman để đánh giá
thanh khoản của công ty và xây dựng một biện pháp thanh khoản. Quá trình
lựa chọn các biến cuối cùng để phân biệt thức đối với
sự khác biệt ROA-WACC được dựa trên một loạt các yếu tố lựa chọn. Các
tác giả đã phân tích mức độ của từng chỉ tiêu tương quan với một
sự khác biệt của ROA-WACC, sau đó họ đưa vào tài khoản quan trọng của
sự khác biệt trong mức độ trung bình của chỉ số trong các nhóm phân tích (dựa trên
sự bình đẳng của lambda phương tiện kiểm tra nhóm Wilks '). Ngồi ra, theo các
tác giả, nhóm được lựa chọn của các biến nên kết hợp tất cả có thể
thơng tin liên quan đến thanh khoản của công ty. một xây dựng mơ hình như vậy
cho phép suy luận dựa trên tất cả các khía cạnh của tính thanh khoản tài chính của cơng
ty,
cho phép tạo ra một biện pháp phổ quát của thanh khoản. Các tác giả cũng đã cố gắng để
tránh hợp tuyến tính của các biến được lựa chọn cho các mơ hình dựa trên sự phân tích
tương quan lẫn nhau của họ dựa trên các hệ số tương quan Pearson.
Các biến liên quan chặt chẽ với nhau (tương quan tiêu cực <-0.6 và
mối tương quan tích cực> 0,6) là
từ chối.
Tuy vậy,
xây dựng
chỉ số thường có nghĩa là một mẫu số chung hàm ý một mức độ nhất định
liên kết. Theo những gì Welfe (2009) tuyên bố, việc xây dựng một mơ hình
theo cách này là có thể, nhưng khả năng giải thích các ước tính

các thơng số cho các biến ngoại sinh với các khoản ceteris tố khác không đổi nên
bị từ chối. Các mối đe dọa của loại hợp tuyến tính, trong nhóm được lựa chọn thức


biến xảy ra trong trường hợp tỷ số Cơ cấu tài sản và tiền mặt
Tỷ lệ, bởi vì cấu trúc của họ có chứa một mẫu số chung. Đã chọn
chỉ số này được tính như sau.
Năng thanh tốn nhanh (QR) được cho bởi công thức :.
𝑄𝑄 =
(𝑄𝑄 - 𝑄 - 𝑄𝑄)
𝑄𝑄
(2)
Trong đó: CA - Tài sản hiện tại, tơi - hàng tồn kho, SP - Trả trước ngắn hạn,
SL - Nợ ngắn hạn.
Tỷ lệ cơ cấu tài sản (ASR) được cho bởi công thức:
𝑄𝑄 𝑄 =
𝑄𝑄
𝑄𝑄
(3)
nơi: AT - tổng tài sản.
Vốn Tỷ số tổng tài sản (WAR) được cho bởi công thức:
𝑄 𝑄𝑄 =
𝑄𝑄 𝑄
𝑄𝑄
(4)
nơi: WCN - vốn lưu động rịng, TA - tổng tài sản.
Nợ ngắn hạn hỗn thời kỳ (DSL) được cho bởi công thức:
𝑄𝑄 𝑄 = * 365
𝑄𝑄
𝑄

(5)
𝑄𝑄𝑄 =
𝑄
𝑄𝑄
(6)
Trong đó: C - tiền mặt và các khoản đầu tư ngắn hạn.
Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) được cho bởi công thức:
𝑄𝑄𝑄 =
𝑄
𝑄𝑄 𝑄
* 365 + * 365 𝑄𝑄
𝑄
𝑄𝑄
𝑄𝑄 𝑄
* 365
(7)
Trong đó: AR - tài khoản phải thu, COG - giá vốn hàng bán.


Vì có một số phương pháp để tính tốn tỷ lệ CCC và doanh thu
chính nó, nợ ngắn hạn hỗn thời gian DSL đã được tính tốn với doanh số như
mẫu số nhưng các biện pháp tương tự, như một thành phần của CCC, đã được tính tốn
với chi phí vốn hàng bán. kết hợp khác nhau được phân tích và những
tỷ lệ nơi tương quan đáng kể đến lợi nhuận trong mơ hình của chúng tơi.
Các kết quả
Để xác minh những cân nhắc về mặt lý thuyết, nghiên cứu trên
Warsaw chứng khoán đã được thực hiện. Nghiên cứu này được thực hiện bằng
dữ liệu từ các công ty phi tài chính trong giai đoạn 2004-2012. Bước đầu tiên
là để tính tốn các chỉ số thanh khoản quan trọng tiềm năng cho các
phát triển lợi nhuận của công ty. Bước tiếp theo là để tính tốn chi phí

vốn chủ sở hữu sử dụng CAPM (beta có nguồn gốc từ các cơ sở dữ liệu Damodaran).
Cho
tỷ lệ rủi ro lợi nhuận cho lãi suất tín phiếu kho bạc 52 tuần đã được đưa vào
tài khoản, trong khi tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng trên thị trường đã được thực hiện như là 10
năm
Tỷ lệ trung bình trở lại của chỉ số thị trường tóc giả. Chi phí của khoản nợ đã được tính
tốn như
tỷ lệ lãi suất cho các khoản nợ chịu lãi. Vì chi phí của nợ
chúng tơi giả định các chi phí tài chính của báo cáo thu nhập của cơng ty, rịng
tổn thất về bán các khoản đầu tư và mất lệch đánh giá lại các khoản đầu tư. Trận chung
kết
bước là để tính tốn các chỉ số ROA cho mỗi quan sát và tính tốn
Sự khác biệt giữa ROA và WACC. Sau khi loại bỏ cuối cùng của
quan sát mà nó đã khơng thể để tính tốn các chỉ số khác nhau hoặc
có thiếu chi phí vốn, 1.132 quan sát từ 293 công ty
bị bỏ và để xét.
Trên cơ sở các số liệu trình bày trong Bảng 1 cũng cần lưu ý rằng
giá trị trung bình của chỉ số thanh khoản khác nhau rõ ràng trong lợi nhuận và
cơng ty khơng có lợi nhuận.
Bảng 1. Tỷ số trung bình
Nhóm
QR
ASR
WAR
DSL
Xe hơi
CCC
ROA - WACC <0
0,926
1,158

0.
003
182.
2


25
0,309
42.
438
ROA - WACC> 0
1,851
1,296
0,235
74.
32
9
0,777
57.
03
7
Tất cả các
1,389
1.227
0,116
128,2
77
0,543
7.29
9


Group

Table 1. Average ratio values
QR
ASR
WAR
DSL

CaR

CCC

ROA – WACC <0

0.926

1.158

-0.003

182.225

0.309

-42.438

ROA – WACC >0

1.851


1.296

0.235

74.329

0.777

57.037

All

1.389

1.227

0.116

128.277

0.543

7.299


Cần lưu ý rằng chỉ có giá trị trung bình của CCC là cao hơn trong
nhóm các cơng ty với một sự khác biệt tích cực ROA-WACC và cao hơn
CCC có nghĩa là thanh khoản thấp. Các yếu tố khác cho thấy thanh khoản thấp trong một
nhóm

cơng ty của thua lỗ. Theo mục đích của các tác giả nghiên cứu
gán giá trị 1 cho một sự khác biệt tích cực trong ROA và WACC và 0 cho
chênh lệch âm.
Bằng cách giới hạn phạm vi của các biến để 0-1, và mang trong tâm trí
chất đa chiều của các liên kết giữa các biện pháp thanh khoản,
tác giả quyết định sử dụng các phân tích biệt để xác định mối quan hệ
giữa thanh khoản và lợi nhuận. phân tích đồng thời thanh khoản tất cả
biện pháp cho phép ước lượng trọng lượng cho từng chỉ tiêu. Các
mơ hình xây dựng bao gồm các chỉ số thanh khoản gia quyền phân biệt đối xử,
và do đó trở thành một biện pháp phổ quát tính đến tất cả các khía cạnh của
thanh khoản của cơng ty. Mục đích của tác giả là một dấu hiệu của
mơ hình ngưỡng phân biệt đối xử, mà nó sẽ có thể để đánh giá
thanh khoản. Đối với cấp "tốt" của tác giả thanh khoản giả định như một
cấu hình các tỷ lệ thanh khoản mà ROA - WACC sẽ được tích cực.
Tương tự như vậy, đối với các mức độ "xấu" của tác giả thanh khoản sẽ có một cấu hình
cho
trong đó các giá trị của ROA - WACC sẽ được tiêu cực. Cuối cùng, như một nỗ lực để
xây dựng các chỉ số dựa trên phân tích biệt 180 cơng ty được lựa chọn:
90 với tích cực ROA-WACC (nhóm "1") và 90 với ROA tiêu cực WACC (nhóm "0"). Tất cả các chỉ số được sử dụng được đặc trưng bởi
sự khác biệt đáng kể trong giá trị trung bình trong nhóm các cơng ty với
tích cực và tiêu cực ROA-WACC. Điều này có nghĩa rằng nhóm này các chỉ số
là một phân loại tốt tiềm năng cho các nhóm mơ tả. discriminant
phân tích để phân loại các quan sát theo các tiêu chí ROA-WACC là
chạy và chúng tơi thu được mơ hình phân loại sau:
𝑄𝑄 1 = - 0. 503-0. 563 * 𝑄 + 0. 166 * 𝑄 - 1. 798 * 𝑄 + 0. 008 * 𝑄
(
)
1
2
3

4
+
0
.
517
* 𝑄 + 0. 001 * 𝑄
5
6
Ở đâu:
𝑄
1


Type
Number
%

able 2. Classicification results LS(1)
Group afiliation in forecast
Group
0
1
0
66
24
1
20
70
0
73.3

26.7
1
22.2
77.8
Source: own study

Total
90
90
100
100

- QR,
𝑄
2
- ASR,
𝑄
3
- WAR,
𝑄
4
- DSL,
𝑄
5
- Xe hơi,
𝑄
6
- CCC.
Việc chuyển nhượng của một quan sát để một trong những nhóm được dựa trên
Kết quả của LS (1). Điểm thấp hơn 0 gán xét đến các nhóm "1",

kết quả của sự quan sát của zero trên gán nó vào nhóm "0".
Bất chấp việc khơng thể giải thích các thơng số ceteris tố khác không đổi, chúng tôi
nên chú ý đến các dấu hiệu phải đối mặt với những chỉ số riêng biệt. Trong
Về nguyên tắc, việc phân loại các quan sát theo các giá trị của
chức năng LS (1) cho thấy thấp hơn giá trị tổng thể của chức năng này,
giá trị cao hơn ROA-WACC quan sát đã cho nên có
B
Dựa trên kết quả thể hiện trong Bảng 2 cũng cần lưu ý rằng chỉ có
75,55% của các quan sát đã được phân loại chính xác. Mối quan hệ
giữa một thuộc một nhóm và giá trị của một hàm LS (1) được cho vào một
Sơ đồ 1.Sơ đồ 1. Số quan sát và giá trị của LS (1) chức năng
Nhóm "0" được đưa ra bởi một màu đỏ trong khi nhóm "1" bởi màu xanh
một. Như có thể thấy một phần lớn của các quan sát kết hợp với nhóm
"0" được đặc trưng bởi một giá trị tiêu cực của LS (1) chức năng, mà phải là
tích cực. Điều này có nghĩa rằng các công ty này được đặc trưng bởi tương đối
giá trị thấp của chỉ số DSL và CCC và các giá trị tương đối cao của QR và
WAR, cho thấy tính thanh khoản cao, có thể được đặc trưng bởi tính thanh khoản kém
trong
bối cảnh lợi nhuận. Kết quả cho thấy mối quan hệ của các nhân vật
với các thông số ước tính cho các chỉ số thanh khoản khác nhau.
Để xác định vấn đề này, nó đã được quyết định lặp lại các thử nghiệm của


ba nhóm khác nhau của các quan sát được lựa chọn. Trong bước đầu tiên, một bộ phận
của
các quan sát với mức thanh khoản cao và thấp đã được thực hiện. Các quan sát
đặc trưng bởi giá trị tương đối cao của QR, ASR, WAR và xe hơi và các
giá trị tương đối thấp của DSL, và CCC đã được giao cho "thanh khoản cao".
Quan sát đặc trưng bởi giá trị tương đối thấp của QR, ASR, WAR và
Xe và các giá trị cũng cao của DSL và CCC được phân loại thành các nhóm

những người có tính thanh khoản thấp. Sau đó, một bộ phận quan sát thành 3 nhóm
theo khóa sau đã được thực hiện:
"0" - cơng ty tạo ra một âm ROA-WACC và đồng
thời gian được giao như các công ty với một mức độ thấp của thanh khoản.
"1" - cơng ty có giá trị tích cực của ROA-WACC, trong khi giao
như các cơng ty có thanh khoản tốt của mơ hình 1.
"2" - cơng ty có giá trị tiêu cực của ROA - WACC, trong khi
phân công như các công ty với một mức độ cao về tính thanh khoản.
phân chia như vậy được kết nối với thực tế là công ty overliquid
và các công ty có tính thanh khoản rất thấp khơng mang lại kết quả khả quan
các nhà đầu tư.
Tác giả trong bước tiếp theo chọn 60 quan sát từ mỗi nhóm trong
đặt hàng để xây dựng một mơ hình phân loại. Bảng 3 cho thấy giá trị trung bình
các lựa chọn các chỉ số thanh khoản trong ba nhóm quan sát như nó đã được
đã đề cập ở trên.
Tabele 3. Average ratio values

Bảng 3 cho thấy rằng mức độ trung bình của chỉ số lựa chọn khác nhau về
mỗi nhóm quan sát. Ngồi ra, cũng cần lưu ý rằng, như mong đợi,
các cấp độ của các chỉ số này chỉ với mức trung bình của thanh khoản tốt hơn và tốt hơn
trong nhóm tiếp theo. Do đó, dự kiến rằng các cơng ty của
nhóm "2" trên trung bình sẽ được đặc trưng bởi mức độ cao hơn của chỉ số CR,
WAR, ASR và xe hơn những người thuộc nhóm "1" và mức độ thấp hơn
các chỉ số CCC và DSL.
Dựa trên sự phân chia trình bày, các tác giả đã tiến hành hai hơn
phân tích phân biệt đối xử. Mục đích của các nghiên cứu này là để xác định những gì
mức độ nào đó là có thể chỉ định các cơng ty trong hai nhóm này là lợi nhuận và
khơng có lợi. Việc sử dụng các loại phân, phù hợp với chúng tôi
kỳ vọng, cho phép loại bỏ các lỗi quan sát bằng các
phân công của LS (1). Dựa trên quan sát được lựa chọn sau

chức năng phân biệt được tạo ra
Trong trường hợp của LS (2a) các chỉ số chức năng QR, ASR, WAR, và xe
có tác động tích cực đến lợi nhuận, trong khi DSL và CCC - tiêu cực. Kia là
kết quả này phù hợp với kỳ vọng và chỉ ra tính thanh khoản thấp như
nguyên nhân lợi nhuận thấp, và LS (2a)> 0 có nghĩa là ROA-WACC <0.
Hình thành các giá trị của LS (2a) trong nhóm phân tích của "0" và "1" là
đưa ra trên một sơ đồ 2.
Quan sát bên trái của đường ngang là các giá trị cho
"0" nhóm, trên tay phải - nhóm "1". Như có thể thấy, tổng số
tỷ lệ thanh khoản với hiệu quả rất cao gán quan sát đối với


lợi nhuận. Hiệu quả của mơ hình được trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4. Kết quả Classicification LS (2a)
Các phân tích cho thấy rằng mơ hình có thể sai lầm chỉ 11,7%
quan sát
trong
nhóm của
khơng có lợi
các cơng ty. Trong số
các
quan sát của ROA-WACC> 0 là khơng có sai lầm. Tổng cộng có 94,2%
những quan sát ban đầu nhóm được phân loại một cách chính xác. Điều này có nghĩa
rằng
so với LS (1), kết quả đạt được tốt hơn đáng kể. Trong
Ngồi ra, việc xác định các vấn đề của mơ hình phân loại LS (1) chứng minh
được chính xác.
-4
-2
0

2
4
6
va
l
u
e
o
f
LS
(
2a
)
LS (2a)
LS (2 ...

Khoa học châu Âu Tạp chí tháng 1 năm 2015 phiên bản vol.11, số 1 ISSN: 1857-7881
(Print) e - ISSN 1857- 7431
61
Trong một phân tích sâu hơn, chúng tơi đã vào tài khoản 120 quan sát trong
trong đó có các cơng ty thuộc nhóm "2" và "1". Dựa trên
quan sát được lựa chọn các chức năng phân biệt sau đây được tạo ra:
LS (2b) = - 1,453-0,532 * X_1-0.071 * X_2-2.952 * X_3-0.008 * X_40,184 * X_5-0.011 * X_6
LS (2b) <0, có nghĩa là ROA-WACC> 0


nơi: X_1 - QR, X_2 - ASR, X_3 - WAR, X_4 - DSL, X_5 - xe,
X_6 - CCC
Chúng ta nên chú ý đến các dấu hiệu của các thông số ước tính. Trong
trường hợp của LS chức năng (2a), tất cả các chỉ số có tác động tích cực đến

lợi nhuận. Chỉ trong trường hợp các chỉ số DSL và CCC các mối quan hệ
có vẻ là phù hợp với lý thuyết. Phân tích của các nhân vật khác với
các thơng số ước tính cho phần cịn lại của các chỉ số có thể gửi mâu thuẫn
tín hiệu. Để phân biệt hữu hiệu từ các công ty không sống được đặc trưng bởi
thanh khoản dư thừa, tầm quan trọng của các chỉ số này đang thay đổi. Điều này có nghĩa

mà trong trường hợp của các cơng ty khơng có lợi nhuận, chúng tơi có thể mong đợi
thanh khoản cao
kết hợp với một phương pháp tiếp cận thanh khoản năng động. Các cơng ty này
duy trì một mức độ tương đối thấp của hàng tồn kho và các khoản phải thu so với
doanh thu và may đồng thời được đặc trưng bởi tính thanh khoản tĩnh thấp
kết hợp với vốn lưu động. Hơn nữa, một chính sách như vậy hạn chế khả năng của
bán hàng mà có thể có một tác động trực tiếp đến lợi nhuận. Một cũng nên chú
chú ý đến mức độ tương đối thấp của các khoản nợ hiện tại so với
doanh thu. Đây là loại tình huống có thể chỉ ra sự thiếu tin tưởng vào các công ty và
dẫn đến vốn chủ sở hữu đắt tiền, trong đó có một tác động trực tiếp
lợi nhuận như mô tả của các tác giả như ROA - WACC.
Sơ đồ 2. Giá trị của LS (2b) chức năng
Sơ đồ 3 cho thấy sự hình thành các giá trị của LS (2b) đối với
thuộc về một nhóm "1" và "2". Quan sát bên trái của ngang
dòng đại diện cho chức năng ghi điểm cho một nhóm các cơng ty khơng có lợi nhuận
đặc trưng bởi một mức độ tương đối cao của thanh khoản. Cần lưu ý rằng
so với LS (2a), chức năng này có biến biên độ lớn hơn nhiều.
Điều này có thể có nghĩa là vấn đề thanh khoản quá mức phức tạp hơn
hơn so với thanh khoản thấp. Như đã đề cập trong đoạn trước, một lớn
ảnh hưởng đến sự phân công của công ty là các chỉ số của CCC và
DSL. lỗi phân công quan sát do đó có thể là kết quả của các
xuất hiện các trường hợp thanh khoản quá mức trong các kích thước ngồi
một năng động. Tuy nhiên, sự phân công của cấp độ quan sát tốt hơn trong
trường hợp của LS (1). Bảng sau đây cho thấy hiệu quả của các LS

(2b).
Bảng 5. Kết quả Classicification LS (2b)
Bảng này cho thấy rằng mơ hình chuyển nhượng có thể sai lầm đến 6,7% của
quan sát trong nhóm các cơng ty khơng có lợi nhuận và 11,7%
quan sát trong nhóm các cơng ty có lợi nhuận. Tổng cộng có 90,8% số
quan sát ban đầu nhóm được phân loại một cách chính xác.
Trên cơ sở thảo luận và kết quả trình bày, cần lưu ý,
rằng có một mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận. Đó là đa
chiều và có thể chỉ bao gồm trong phân tích kết hợp của tất cả các
kích thước của thanh khoản của cơng ty. Chúng ta nên chú ý đến các
tiến hóa của khả năng sinh lời khi đối mặt với thanh khoản chung quá thấp hoặc quá cao


(Được mô tả bằng các biện pháp thanh khoản khác nhau). Trong cả hai trường hợp, các
tiêu cực
tác động của mức cùng cực của thanh khoản trên lợi nhuận cần lưu ý.
Theo đó, các tác giả hy vọng rằng họ thành công để tạo ra một phổ quát
chỉ số thanh khoản gồm trọng, các biện pháp đa dạng. Điều này có thể
thực hiện theo hai cách. Cách đầu tiên là xác định phương trình của một trong
LS đã được ước tính (2a), LS (2b), cũng như các mơ hình phân biệt đối xử
tính riêng cho nhóm của "0" và "2". Bằng cách này chúng ta có thể tạo ra một
mơ hình mà sẽ cung cấp cho các cơ hội để đủ điều kiện quan sát chỉ là "tốt"
và "xấu" thanh khoản.
Phương pháp thứ hai liên quan đến việc thực hiện phân tích biệt cho
ba nhóm tất cả lại với nhau. Các mơ hình ước tính sẽ chỉ ra khoảng thời gian trong
đó là một quan sát được đặc trưng bởi quá thấp, quá cao, hoặc
hanh khoản tối ưu. Dựa trên sự phân chia trên thành các nhóm, các tác giả
phát triển các chức năng ghi bàn cuối cùng của thanh khoản. Nhân vật đứng bên
thông số chức năng sau đây là phù hợp, tức là, mỗi kích thước của
thanh khoản được mơ tả bởi tỷ lệ có tác dụng tương tự trên các hướng LS (2).

Điều này có nghĩa rằng các chức năng có thể thực hiện thành cơng các chức năng của
bảng xếp hạng
cho các công ty về thanh khoản được định nghĩa một cách rộng rãi.
𝑄𝑄 2 = - 0. 226-0. 336 * 𝑄 - 0. 009 * 𝑄 - 1. 664 * 𝑄 + 0. 009 * 𝑄
(
)
1
2
3
4
- 0. 231 * 𝑄 + 0. 007 * 𝑄
5
6
Ở đâu:
𝑄
1
- QR,
𝑄
2
- ASR,
𝑄
3
- WAR,
𝑄
4
- DSL,
𝑄
5
- Xe hơi,



𝑄
6
- CCC.
Người ta cho rằng đối với LS (2)> -1,28 và <0,74 Cơng ty có
thanh khoản tốt. Khi giá trị của chức năng là thấp hơn so với -1,28 sự
oveliquidity xảy ra và khi nó cao hơn 0,74 độ thanh khoản quá thấp là
được công nhận. Phạm vi này cho phép phân loại chính xác của các quan sát với
hiệu quả ở mức 92,22%. Trong số các công ty được xác định bởi
mơ hình là thuộc về nhóm "0", 96,6% đã được đặc trưng bởi một âm
giá trị ROA-WACC. Trong số các công ty được xác định bởi các mô hình như
thuộc nhóm "2", 94,2% đã được đặc trưng bởi một giá trị âm
ROA-WACC. do đó nó phải được lưu ý rằng mơ hình phân biệt đối xử thức
LS (2), cho phép để đạt được kết quả tốt nhất trong việc phân loại. Hơn nữa,
so với các mơ hình trước đó, với LS (2) chúng tơi có thể chính xác
chỉ ra tính thanh khoản quá cao hoặc quá thấp do đó có nghĩa là một thiếu đủ
lợi nhuận từ các quan điểm của các nhà đầu tư. Hiệu quả của
mô hình phù hợp được trình bày trong Bảng 6.
Bảng 6. Kết quả Classicification LS (2
Thử nghiệm mơ hình về dân số nói chung - 1.132 quan sát dẫn
cho việc chỉ định cơng ty có tính thanh khoản kém, trong đó 85,44%
được đặc trưng bởi một giá trị tiêu cực của ROA-WACC. Điều này có nghĩa rằng
mơ hình chỉ cơng ty đặc trưng bởi tính thanh khoản kém, cho sai
tín hiệu trong ít hơn 15% trường hợp. Nó sau đó có một phức tạp
mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận của công ty. Xấu
thanh khoản tại các công ty xuất hiện khi các chỉ số thanh khoản theo
lý thuyết chỉ ra tính thanh khoản cao, là tốt. Trong số 97 quan sát
trình độ của các mơ hình để "2", 69,07% là những người có một giá trị âm
ROA-WACC. do đó nó phải được kết luận rằng tính thanh khoản kém cũng có thể
phát sinh khi các chỉ số thanh khoản cao. Các giá trị tương đối cao của QR,

ASR, xe và WAR và giá trị tương đối thấp của CCC và DSL có thể
chỉ ra tính thanh khoản kém của cơng ty, và điều đó có nghĩa là một ROA- tiêu cực
WACC. Trong số 267 quan sát được phân loại theo các mơ hình để "0",
91,39% là những người có một giá trị tiêu cực của ROA-WACC. Cần lưu ý
rằng mơ hình xác định các quan sát với thanh khoản kém trong 91,39% trường hợp
một cách chính xác, và cũng xác định các vấn đề thanh khoản. giá trị tương đối thấp
QR, ASR, xe và WAR và các giá trị tương đối cao của CCC và DSL,
theo lý thuyết hàm ý thanh khoản kém và tiêu cực ROA-WACC.
Trên cơ sở những kết quả rõ ràng là có một mối quan hệ
giữa tính thanh khoản của cơng ty và lợi nhuận của họ. Thanh khoản và nó
đo lường phải được dựa trên một số chỉ tiêu cùng một lúc.
Các chỉ số được sử dụng trong các mơ hình thuộc các nhóm khác nhau của các biện pháp
thanh khoản.
Điều này cho phép tính phức tạp của việc phân tích và thành tựu của tối ưu
kết quả trong việc đánh giá tính thanh khoản. Cũng nên lưu ý rằng trên cơ sở
các chức năng ghi điểm LS (2) đặt ra trong bài viết này chúng ta có thể tạo ra các bảng
xếp hạng của


hoạt động tài chính tổng thể của doanh nghiệp, có tính mỗi
chiều lý thuyết của tính thanh khoản một cách có trọng để cung cấp cho rõ ràng
các kết quả.
Phần kết luận
Có nhiều phương pháp để thanh khoản và rất khó để kết luận
nếu tình hình cơng ty trong lĩnh vực này là tốt hay khơng. Có rất nhiều tỷ lệ, như
nó đã được trình bày, cho thấy tình trạng thanh khoản. Trong thực tế, nó là khó khăn để
liên kết tất cả chúng và tạo ra một chiến lược ngắn gọn cho việc quản lý thanh khoản.
Quản lý không đánh giá thanh khoản là xấu hay tốt và họ đối xử này
hiện tượng như là kết quả cuối cùng của quyết định đưa ra trong các phòng ban trong một
Cơng ty. Chúng ta có thể chờ đợi cho đến thời điểm phá sản khi chúng ta biết chắc chắn

rằng khơng có thanh khoản tại một cơng ty hoặc chúng tơi có thể kiểm tra nó và hành
động trước đó.
Khi cơng ty khơng có khả năng thanh tốn các nghĩa vụ, chúng tôi biết rằng đây là kết
thúc
nhưng thời điểm này là kết quả của các quyết định trước đó đã đăng ký trong tài chính
tài liệu, chúng ta có thể nhận ra tính thanh khoản ngày càng tồi tệ. nhiều công ty
đang giảm và nhiều người đang hoạt động trên các cạnh từ các nhà quản lý là không thể
tập trung vào mọi khía cạnh thanh khoản cùng một lúc. quản lý thanh khoản
phức tạp và không dễ dàng như người ta nói trong văn học.
Để đánh giá tính thanh khoản trong một tác giả cách phức tạp của bài viết này
đề xuất một mơ hình có thể được gọi là L-điểm để đánh giá tính thanh khoản
tình hình ở một công ty. ảnh hưởng xấu thanh khoản xác suất phá sản
nhưng cũng có thể làm cho các nhà đầu tư để thu hồi vốn nếu giá tỷ lệ
trở lại sẽ không được tạo ra bởi một công ty. Nó khơng phải là một vấn đề mặc định
vì khơng phù hợp với dòng tiền chỉ nhưng cũng thực tế, các cổ đơng
có thể khơng muốn đầu tư thêm vốn để mở rộng kinh doanh.
Mỗi thị trường là khác nhau và các chỉ số mơ hình sẽ phải
tìm. Các tỷ lệ đưa vào tài khoản có thể khác nhau, và kết quả hơn nữa
phụ thuộc vào sự tương quan giữa các chỉ số ROA-WACC và tỷ lệ thanh khoản.
Các nước phát triển đang có xu hướng thống nhất và thương mại quốc tế ảnh hưởng đến
quá trình này, nhưng vẫn là một mơ hình để đánh giá tính thanh khoản là một âm thanh
của tương lai.
Chúng tôi tin rằng phương pháp này để thanh khoản sẽ được thử nghiệm bởi các nhà
nghiên cứu khác
trên các thị trường khác để giúp các nhà quản lý trong việc đánh giá và ra quyết định
trong
lĩnh vực thanh khoản. Các nhà quản lý có thể đánh giá tình trạng của cơng ty kết nối với
thanh khoản bằng cách phân tích các tỷ lệ khác nhau hoặc các mơ hình đề xuất có thể
được sử dụng,
một số tỷ lệ đơn giản có thể được tính toán và kết quả là các nhà quản lý sẽ biết

nếu thanh khoản của công ty là tốt hay xấu. Nếu nó là xấu nó có thể là một khởi đầu
điểm cho tái cấu trúc và thay đổi trong sự năng động của các hoạt động và
quản lý vốn lưu động.
Quản lý có thể sử dụng LS (2) chức năng, tính tốn đề xuất của tác giả
tỷ lệ thanh khoản: số thanh toán nhanh (QR), vốn lưu động để tỷ lệ tổng tài sản (WAR),


tỷ lệ cơ cấu tài sản (ASR), tỷ lệ tiền mặt (CAR), ngắn hạn nợ hoãn
kỳ (DSL), chu kỳ chuyển đổi tiền mặt (CCC) và nếu kết quả là trong phạm vi
LS (2)> -1,28 và <0,74 nó sẽ chỉ ra tính thanh khoản tốt. Nếu giá trị là
cao hơn 0,74 so với thanh khoản được coi là quá thấp, và nếu nó là
thấp hơn so với -1,28 hơn nó là q cao dẫn đến lợi nhuận khơng che
chi phí vốn. Đó là ý tưởng rất đơn giản và rõ ràng như đề nghị Altman cho
dự báo phá sản.
Thanh khoản không phải là một vấn đề chủ đạo trong văn học nhưng nó là nguyên nhân
và kết quả của một cách tiếp cận kinh doanh rộng. Bán hàng và mua hàng ảnh hưởng đến
thanh khoản cũng giống như việc sản xuất. Các nhà đầu tư đưa vào tài khoản
lợi nhuận bị ảnh hưởng bởi chiến lược vốn lưu động và tính thanh khoản
chính sách quản lý nhưng họ cũng phân tích nguy cơ được kết nối với các
thanh khoản và indebtness mà lần lượt ảnh hưởng đến thanh khoản. Chúng ta có thể xem
xét các
thanh khoản như máu trong một cơng ty, nó là cần thiết để tồn tại và dịng chảy tối ưu
đảm bảo phát triển và cho phép đạt được các mục tiêu chiến lược.
Tài liệu tham khảo:
Almeida H., Campello M., Weisbach M.S., 2004m Các Cash Flow
Độ nhạy của Cash, Tạp chí Tài chính, 59 (4), 1777-1804, DOI:
10,1111 / j.1540-6261.2004.00679.x
Altman E.I., 2000, Dự đốn Distress tài chính của cơng ty: Xem xét lại
Z-Score và Mơ hình Zeta®, 1-54.
Altman E. I., Marco G., Varetto F., 1994, chẩn đoán suy doanh nghiệp:

So sánh sử dụng phân tích biệt tuyến tính và mạng thần kinh (các
kinh nghiệm Ý), Tạp chí Ngân hàng và Tài chính, 18 (3), 505-529
Apergis, N., Lyroudi, K., McCarty, D., 2007, Vai trò của thanh khoản trong Điều khoản
của lợi nhuận và Indebtness: Một Chỉnh cùng hội nhập và nhân quả
Phương pháp tiếp cận, Phi Châu Á Tạp chí Kinh tế và Kinh tế, 7 (1-2),
119.
Barnes P., năm 2000, xác định các mục tiêu tiếp quản ở Vương quốc Anh bằng cách sử
dụng cơng bố
số liệu kế tốn chi phí lịch sử Một số logit bằng chứng thực nghiệm so sánh
với phân tích biệt tuyến tính và chỉ số tài liệu với từng ngành
tỷ lệ tương đối, giá quốc tế về phân tích tài chính, 9 (2), 147-162.
Barnes P., 1990, Dự đoán của mục tiêu tiếp quản trong The Vương quốc Anh có phương
tiện
nhiều
discriminant
Phân tích, Tạp chí
Tài chính doanh nghiệp

Kế toán, 17 (1), 73-84, DOI: 10,1111 / j.1468-5957.1990.tb00550.x
Baumol W.J., 1952, Các giao dịch nhu cầu tiền mặt: Một hàng tồn kho
cách tiếp cận lý thuyết, The Quarterly Journal of Economics.
Baskin, J., 1987, thanh khoản của doanh nghiệp ở tầm của sức mạnh độc quyền, The


Đánh giá Kinh tế và Thống kê, 64, 312-319.
Beaver, W.H., năm 1989, kế tốn tài chính: một cuộc cách mạng kế toán,
Prentice - Hall Englewood Cliffs, N.J. Mỹ.
Beaver W.H., 1966, Chỉ số tài chính như dự báo về thất bại, thực nghiệm
Nghiên cứu Kế toán, nghiên cứu chọn lọc, 71-111.
Bernstein L.A., 1985, Một lần nữa bây giờ: Làm thế nào để đo lường dòng tiền từ

hoạt động? Các nhà phân tích tài chính Journal, tháng Tám, 74-77.
Blum M., 1994, Khơng phân tích cơng ty discriminant, Tạp chí
Nghiên cứu Kế tốn, 12 (1), 1-25.
Bolek M., Wolski R., 2012, lợi nhuận hoặc thanh khoản: ảnh hưởng tới thị trường
Giá trị. Trường hợp của Ba Lan, Tạp chí Quốc tế về Kinh tế và Tài chính,
4 (9), 182-190.
Chakraborty, K., năm 2008, vốn lưu động và lợi nhuận; một thực nghiệm
Phân tích các mối quan hệ của họ với sự tham khảo công ty được lựa chọn trong
Công nghiệp Ấn Độ Dược phẩm, Các ICFAI Tạp chí Quản lý
Nghiên cứu.
Cohran W.G., 1964, Trên Hiệu suất của biệt thức tuyến tính
Chức năng, Technometrics, 6, 179-190.
Dash, M. Và Hanuman, R., 2009, A Thanh khoản lợi nhuận-Thương mại-Tắt
Mơ hình cho cơng tác quản lý vốn. SSRN Working Paper Series.
Desai, J., Joshi, N., 2011, có hiệu lực của công tác quản lý vốn trên
Khả năng sinh lời của các doanh nghiệp tại Ấn Độ. SSRN Working Paper Series.
Eisenbeis R.A., năm 1977, những cạm bẫy trong các ứng dụng của biệt thức Anaysis
trong
Kinh doanh, Tài chính và Kinh tế, Tạp chí Tài chính, 32 (3), 875-901.
Eljelly, Abuzar M. A., năm 2004, thanh khoản - Lợi nhuận cân bằng: Một thực nghiệm
Điều tra Trong Một thị trường mới nổi, Tạp chí Thương mại quốc tế &
Sự quản lý. 14 (2), 48-61.
Emery G., 1984, đo thanh khoản ngắn hạn, Tạp chí Tiền
Quản lý, July / August, 25-32.
Filbeck, G., Krueger, T., 2005. Sự khác biệt nghiệp liên quan trong công tác
Quản lý vốn. Mid-American Journal of Busines. 20, 11-18.
Foulke R.A., 1961, thực hành báo cáo tài chính Anaysis, 5th Ed, McGrow
Hill.
Gallinger, G., Healey, P.B., 1987, Phân tích tính thanh khoản và quản lý,
biên tập Reading, Mass Addison -. Wesley Publishing Co ..

Gallinger G., 1997, Thả Tỷ lệ hiện tại - Pick Up CCC, Kinh doanh
Tín dụng. Có thể.
Garcia-Teruel, P.J., Martinez-Solano, P., 2007, ảnh hưởng của vốn lưu động
Quản lý về khả năng sinh lời SME. Tạp chí Quốc tế quản lý
Tài chính, 3 (2), 164-177.
Hagan M., Menhaj M., 1996, mạng lưới đào tạo feedforward với
Marquardt thuật toán, IEEE T. Neural Network, 5, 989-993.
Hager H.C., 1976, Quản lý tiền mặt và chu kỳ tiền mặt. Sự quản lý
Kế toán, 19-21.
Hickman W.B., năm 1958, lượng trái phiếu doanh nghiệp và kinh nghiệm đầu tư,


Princeton University Press.
Hush D., Horne B., năm 1993, Tiến bộ trong mạng lưới thần kinh có giám sát. Có gì
mới kể từ Lipmann ?. Tạp chí IEEE xử lý tín hiệu, 10 (1), 8-39.
John T.A., năm 1993, các biện pháp kế tốn của cơng ty Thanh khoản, địn bẩy,
và chi phí của Distress tài chính, quản lý tài chính, 22 (3), 91-100.
Johnson, J.M., Campbell, D.R., Wittenbach, J.L., năm 1980, vấn đề trong
Thanh khoản của cơng ty, tài chính điều hành, tháng Ba, 44-53.
Jose M. L., Lancaster C., Stevens J.L., 1996, Returns doanh nghiệp và tiền mặt
Chu kỳ chuyển đổi ,. Tạp chí Kinh tế và Tài chính, 20 (1), 35-48.
Joy O.M., Tollefson J.O., năm 1975, trên các ứng dụng tài chính của
Discriminant Phân tích, Tạp chí tài chính và phân tích định lượng.
Kamath, R., 1989, Làm thế nào hữu ích là biện pháp thanh khoản chung? Tạp chí
Quản lý tiền mặt, January / February, 24-28.
Kim C.S., Mauer D.C, Sherman A.E., 1998, yếu tố quyết định của doanh nghiệp
Thanh khoản: Lý thuyết và thực tiễn, Tạp chí tài chính và định lượng
Phân tích, 33, 335-359.
Koh H.C., Killough L.N., 1990, Sử dụng Nhiều phân tích biệt
The Đánh giá Tình trạng đi-Lo ngại của An Khách hàng kiểm tốn, Tạp chí

Tài chính Kinh doanh và Kế toán, 17 (2), 179-192.
Lippman S.A., McCall J.J., 1986, An Đo hoạt động của thanh khoản, The
Xem lại Mỹ Kinh tế, 76 (1), 43-55.
Lin C.T., Lee C.S., 1996, thần kinh hệ thống mờ. Một sự đồng bộ neuro-fuzzy để
hệ thống thông minh. Prentice Hall, New Jersey, Mỹ.
Lyroudi, K., McCarty D. năm 1993, An Empirical tra của Tiền
Chu kỳ chuyển đổi của các doanh nghiệp kinh doanh nhỏ, Tạp chí doanh nghiệp nhỏ
Tài chính, 2 (2), 139-161.
Lyroudi K., Lazaridis Y., 2000, Chu trình chuyển đổi tiền mặt và thanh khoản
phân tích của ngành cơng nghiệp thực phẩm ở Hy Lạp, papers.ssrn.com.
Maness T.S., Zietlow J., 2002, ngắn hạn quản lý tài chính. Thứ hai
Edition, Thomson Learning, 3-45.
Merwin C., năm 1942, Tổng cơng ty tài chính nhỏ, New York, Cục
Nghiên cứu kinh tế.
Miller M.H., Orr D., 1966, Một mơ hình nhu cầu cho tiền của các hãng,
The Quarterly Journal of Economics.
Moss, D.J. và B. Stine, 1993, Chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và Kích Firm: A
Nghiên cứu của các doanh nghiệp bán lẻ. Quản lý tài chính, 19 (8), 25-34.
Myers H., Forgy E.W., 1963, Phát triển Thẩm định tín dụng bằng số
Hệ thống, Tạp chí của Hiệp hội Mỹ thống kê, 50, 797-806.
Myers, S.C., Rajan, R.G., 2001, Nghịch lý của thanh khoản. The Quarterly
Tạp chí Kinh tế, August, 733-771.
Nobaneee, H., AlHajjar, M., 2009a. Quản lý vốn lưu động,
Operating Cash Flow và hiệu suất của doanh nghiệp. Báo cáo công việc SSRN
Loạt.
trang 12.
Nobaneee, H., AlHajjar, M., 2009b, Tối ưu hóa
Đang làm việc



Thủ đô
Sự quản lý. SSRN Working Paper Series.
Nobaneee, H. Và AlHajjar, M., 2009c, Một lưu ý về vốn lưu động
Quản lý và lợi nhuận doanh nghiệp của các doanh nghiệp Nhật Bản. SSRN làm việc
Giấy Series.
Nordgren, R.K., 1981, The Cornerstone phân tích thanh khoản: Cơng tác
Capital, Tạp chí Ngân hàng thương mại cho vay, tháng Tư, 11-19.
Ramanujam V., Venkatraman N., Camillus J.C., 1986, Multi-Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả của kế hoạch chiến lược: Một phân tích biệt
Phương pháp tiếp cận, Học viện Quản lý Tạp chí, 29 (2), 347-372.
Richards e.g., Laughlin E.J., 1980, Một cách tiếp cận chu trình chuyển đổi tiền mặt để
phân tích tính thanh khoản.
Tài chính Managment, 32-38.
Schilling G., năm 1996, làm việc vai trị thủ đơ trong việc duy trì tính thanh khoản của
cơng ty,
TMA Journal.
Shin, H., Soenen, L., 1998, hiệu quả của công tác quản lý vốn và
Khả năng sinh lời của công ty, thực hành và giáo dục tài chính. Fall / Winter, 3744.
Singh, P., 2008, hàng tồn kho và công tác CapitalManagement: An Empirical
Phân tích. Đại học ICFAI Tạp chí Nghiên cứu Kế toán.
Smith K.V., 1965, Phân loại chứng khoán đầu tư SỬ DỤNG MDA,
Viện giấy của Đại học Purdue.
Smith R.F., Winakor A.H., 1935, Những thay đổi trong cơ cấu tài chính của
Tổng công ty không thành công, Đại học Illinois, Cục Kinh doanh
Nghiên cứu.
Soenen L. A., 1993, Cash Conversion Cycle và lợi nhuận doanh nghiệp.
TMA Tạp chí, Tạp chí Quản lý tiền mặt, July / August, 53-57.
Taffler R. J., 1982, dự báo cơng ty thất bại ở Anh dùng
Phân tích biệt thức và Tỷ lệ tài chính dữ liệu, 145 (3), 342-358.
Tamari M. 1966, Chỉ số tài chính như một phương tiện dự báo phá sản,

Quản lý quốc tế Review, 4, 15-21.
Tường A., Duning W., 1928, Tỷ lệ Phân tích báo cáo tài chính, Harper
và Row, New York, p.159.
Walter J.E., 1959, A Hàm discriminant kiếm Chỉ số Lợi nhuận Giá
Lớn Tổng công ty công nghiệp, Báo Kinh tế và Thống kê, 41, 4452.
Welfe A., 2009, Ekonometria - Metody i zastosowanie, PWE, Warszawa,
150
155



×