Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Nghiên cứu một vài khía cạnh của lý thuyết tập thô và ứng dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******************************

Nguyễn Việt Khoa

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC - NGỮ NGHĨA

CỦA TÊN NGƯỜI ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC

Chun ngành: Lý luận ngơn ngữ
Mã số: 50408

Hà Nội – 2002


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******************************

Nguyễn Việt Khoa

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC - NGỮ NGHĨA

CỦA TÊN NGƯỜI ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ


Mã số: 50408

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN KHANG

Hà Nội - 2002


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU

3

0.1

Đề tài, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3

0.2

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

4


0.3

Tƣ liệu sử dụng trong luận văn

5

0.4

Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5

0.5
Cấu trỳc của luận văn
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN VĂN

6

1.1

Tờn riờng và danh từ chung

7

1.1.1

Danh xƣng học với việc nghiên cứu tên riêng

7


1.1.2

Đặc điểm về chức năng, ý nghĩa và ngữ phỏp của tờn riờng

8

1.1.2.1

Chức năng của tên riêng

8

1.1.2.2

í nghĩa của tờn riờng

10

1.1.2.3

Ngữ phỏp của tờn riờng

14

1.2

Khái niệm về tên ngƣời (nhân danh)

15


1.2.1

Mụ hỡnh chung về tờn ngƣời

15

1.2.2

Sự chuyển dịch của tên ngƣời qua các vùng địa lí

18

1.2.3

Những vấn đề ngơn ngữ - xó hội liờn quan đến tên ngƣời

23

1.2.3.1

Vấn đề đặt tên

23

1.2.3.2

Vấn đề kiêng kị khi đặt tên

27


1.2.3.3

Vấn đề tên tạm

29

1.2.3.4

Vấn đề tên họ

30

1.2.3.5

Vấn đề thay đổi tên

34

1.2.3.6

Tên ngƣời và giới tính

36

1.2.3.7

Khía cạnh pháp lí của tên ngƣời

38


1.3

Tỡnh hỡnh nghiờn cứu tờn ngƣời Anh

41

Chương II
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TÊN NGƢỜI ANH
2.1

Đặt vấn đề

45


2.2

Đặc điểm cấu tạo của tên ngƣời Anh

45

2.2.1

Thống nhất về thuật ngữ

45

2.2.1.1


Tổ hợp định danh

45

2.2.1.2

Danh tố

46

2.2.2

Các danh tố trong cấu trúc tên ngƣời Anh

48

2.2.2.1

Danh tố tờn cỏ nhõn

48

2.2.2.2

Danh tố họ

59

2.2.2.3


Danh tố đệm

69

2.2.3

Cỏc mụ hỡnh cấu trỳc tờn ngƣời Anh

73

2.2.3.1

Mụ hỡnh chung

73

2.2.3.2

Cỏc mụ hỡnh cụ thể

75

2.3
Tiểu kết
Chương III
ĐẶC ĐIỂM Ý NGHĨA CỦA TÊN NGƢỜI ANH

89

3.1


Những vấn đề chung

92

3.1.1

Đặt vấn đề

92

3.1.2

Vấn đề ý nghĩa của tên ngƣời Anh

92

3.2.3

Vài nét về đặc điểm lịch sử tên ngƣời Anh

94

3.2

Phân loại tên ngƣời Anh từ góc độ ý nghĩa

99

3.2.1


Phõn loại ý nghĩa tờn họ

99

3.2.1.1

Nhận định chung

99

3.2.1.2

Tỡnh hỡnh biến đổi của tên họ ngƣời Anh

100

3.2.1.3

Phân loại tên họ ngƣời Anh từ góc độ ý nghĩa

104

3.2.2

Phõn loại ý nghĩa tờn cỏ nhõn

112

3.2.2.1


Nhận định chung

112

3.2.2.2

Phân loại tên cá nhân ngƣời Anh từ góc độ ý nghĩa

113

3.2.3

Phõn loại tờn đệm ngƣời Anh từ góc độ ý nghĩa

133

3.2.3.1

Nhận định chung

133

3.2.3.2

Phân loại tên đệm ngƣời Anh từ góc độ ý nghĩa

134

3.3


Tiểu kết

136
KẾT LUẬN

139

TÀI LIỆU THAM KHẢO

142

2


MỞ ĐẦU
1. Đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tên ngƣời là một trong những mảng quan trọng bậc nhất trong hệ thống tên
riêng, thuộc thành phần đặc biệt trong hệ thống từ vựng của một ngơn ngữ. Tên
ngƣời mang trong nó cả lịch sử, truyền thống, văn hoá cũng nhƣ tất cả những gỡ
đặc trƣng cho mỗi cộng đồng dân tộc nhất định. Chính vỡ lớ do đó, đó từ lõu tờ n
ngƣời là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xó hội khỏc nhau nhƣ
ngơn ngữ học, tâm lí học, xó hội học, dõn tộc học, triết học, gia phả học...v.v.
Trong ngụn ngữ học, bộ mụn chuyờn nghiờn cứu về tờn riờng là Danh xƣng
học (Onomastics) với hai chuyờn ngành Nhõn danh học (Anthroponomastics) –
nghiên cứu tên về ngƣời và Địa danh học (Toponomastics) – nghiên cứu về tên
đất.
Tên ngƣời là đối tƣợng nghiên cứu trực tiếp của chuyên ngành nhân danh học.
Nhiệm vụ chủ yếu của nhân danh học là phát hiện ra những qui luật cơ bản về
phân bố, nguồn gốc cũng nhƣ quá trỡnh biến đổi, phát triển của hệ thống tên

ngƣời trong các ngôn ngữ.
Việc nghiên cứu tên ngƣời trên quan điểm của ngành nhân danh học không
chỉ đƣa tới những thành tựu mang tớnh chất ngụn ngữ học mà cũn đem lại những
lợi ích vƣợt ra khỏi khn khổ của ngơn ngữ học, từ đó nâng cao sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc.
Vấn đề nghiên cứu tên riêng chỉ ngƣời trên thế giới đó cú lịch sử từ thời Hy
Lạp cổ đại. Tên ngƣời Anh cũng đó đƣợc nghiên cứu từ thế kỉ XVII (William
Camden 1623) và đó đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt là sau khi có sự
ra đời của chuyên ngành nhân danh học.
Trong luận văn này, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu tên ngƣời Anh trên
hai phƣơng diện cấu trúc và ý nghĩa và đặt chúng trong mối liên hệ với tên ngƣời
Việt. Trong hệ thống tên ngƣời, tên riêng mà cụ thể là chính danh (tức là tên khai
sinh, tên chính thức) giữ một vai trũ quan trọng vỡ chỳng phản ỏnh đƣợc đầy đủ
nhất các đặc trƣng ngơn ngữ - văn hố của một cộng đồng nhất định. Do vậy,
trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tơi chỉ có thể tiếp cận chính danh
3


của ngƣời Anh và tạm thời không đề cập tới các tên gọi khác. Chúng tôi hy vọng
sẽ đƣợc trở lại đề tài này ở một bỡnh diện sõu rộng hơn.
Nhƣ chúng ta đều biết, Vƣơng quốc Anh (UK) là một quần đảo mà trên đó,
ngồi dân tộc Anh (English) ra cũn nhiều dõn tộc khỏc sinh sống. Bờn cạnh đó,
về mặt địa lí và hành chính, Vƣơng quốc Anh cũn là một liờn hiệp gồm bốn đơn
vị là: Anh (England), Xcốt-len (Scotland), xứ Uên (Wales) và Bắc Ai-len
(Northern Ireland). Do vậy, trong luận văn này, đối tƣợng nghiên cứu cụ thể của
chúng tơi là tên riêng (tên chính gồm các yếu tố Họ - Đệm - Tên cá nhân) của
ngƣời Anh (English) sinh sống tại nƣớc Anh (England). Trong khi xem xét tên
ngƣời Anh, chúng tôi thƣờng liên hệ với tên ngƣời Việt mà cụ thể là tên riêng của
dân tộc Kinh sinh sống trên lónh thổ Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Theo lí thuyết định danh, tên riêng (trong đó có tên ngƣời) cùng với từ và cụm
từ là các đơn vị định danh. Tuy nhiên, tên ngƣời là một dạng định danh đặc biệt
và có nội dung hồn tồn khác với các đơn vị định danh khác.
Với tƣ cách là một tín hiệu ngôn ngữ, tên ngƣời thể hiện vai trũ của mỡnh
trong việc gọi tên một đối tƣợng duy nhất và cá biệt để phân biệt với những đối
tƣợng khác. Tuy nhiên, khơng chỉ có chức năng trong việc gọi tên, tên ngƣời cũn
chứa đựng trong đó những giá trị biểu trƣng hay nghĩa hàm chỉ nhất định. Ngoài
ra, vỡ là hiện tƣợng xó hội, nờn quỏ trỡnh ra đời và phát triển của tên ngƣời cũng
phản ánh chân thực và rừ nột cỏc biến động của xó hội lồi ngƣời.
Do vậy, mục đích của luận văn là tiếp cận bản chất ngôn ngữ học của tên
ngƣời Anh trên cơ sở liên hệ với tên ngƣời Việt. Để đạt đƣợc mục đích trên,
chúng tôi tiến hành giải quyết các nhiệm vụ cụ thể mà luận văn đặt ra:
-

Xác định và miêu tả đặc điểm cấu tạo về mặt hỡnh thức của tờn ngƣời Anh,
sau đó sẽ tiến hành phân tích, miêu tả và mô hỡnh hoỏ đặc điểm cấu tạo của
tên ngƣời Anh trong mối liên hệ với với tên ngƣời Việt.

4


-

Phõn loại ý nghĩa tờn ngƣời Anh theo các yếu tố tên họ, tên cá nhân và tên
đệm, qua đó miêu ý nghĩa của chớnh danh ngƣời Anh trong sự liên hệ với ý
nghĩa tờn ngƣời Việt.

3. Tư liệu sử dụng trong luận văn
Hầu hết cỏc tên ngƣời Anh đƣợc chúng tơi xử lí để làm rừ nội dung nghiờn
cứu của luận văn đƣợc khai thác từ các tài liệu điện tử của chính phủ Anh nhƣ

danh bạ điện thoại trực tuyến, danh sách cử tri, danh sách danh nhân ngƣời Anh,
danh sách nghị sĩ, v.v. Ngoài ra, chúng tụi cũn thống kờ số liệu từ cỏc loại từ điển
tên ngƣời Anh nhƣ các từ điển tên ngƣời in trên giấy, các từ điển tên ngƣời là
sách điện tử, các phần mềm từ điển tên ngƣời, các bách khoa toàn thƣ trên đĩa CD
cũng nhƣ các từ điển tra cứu tên ngƣời Anh trực tuyến. Con số các tên họ, tên cá
nhân và tên đệm của ngƣời Anh mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là vào
khoảng gần 1.000.000 tên.
Về tên ngƣời Việt, ngoài việc tham khảo các số liệu về tên ngƣời đó đƣợc
cơng bố trong các tài liệu, chúng tôi cũng sử dụng nhiều tên ngƣời thân, bạn bè,
đồng nghiệp và khoảng hơn 6000 tên chính của sinh viên các khoá K44 và K45 –
trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội.
Các tƣ liệu nêu trên đƣợc chúng tơi thu thập, kiểm chứng, chỉnh lí và bổ sung
sao cho phù hợp với nội dung và yêu cầu của luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp
phân tích, miêu tả diễn dịch và qui nạp thông qua các thủ pháp nhƣ thống kê, so
sánh, phân loại và mô hỡnh hoỏ đối tƣợng nghiên cứu. Để tỡm ra cỏc đặc điểm
riêng cũng nhƣ những nét khu biệt của đối tƣợng, luận văn thƣờng sử dụng
phƣơng pháp so sánh tƣơng phản.
Cách tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu của luận văn cơ bản là dựa trên các đặc
điểm đƣơng đại của đối tƣợng. Tuy nhiên, luận văn vẫn cố gắng tiếp cận vấn đề
cần nghiên cứu trên cả hai quan điểm đồng đại và lịch đại, qua đó có đƣợc cái
5


nhỡn xuyờn suốt và tƣơng đối toàn diện về tên ngƣời Anh. Song, do gặp nhiều
khó khăn về nguồn tài liệu tham khảo, luận văn chƣa thể đi sâu phân tích và miêu
tả tên ngƣời Anh trên tất cả các bỡnh diện liờn quan.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng

chính sau:
Chương I

: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN VĂN

Chương II

: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TÊN NGƢỜI ANH

Chương III

: ĐẶC ĐIỂM í NGHĨA CỦA TấN NGƢỜI ANH

6


Chƣơng I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN VĂN
1.1. Tờn riờng và danh từ chung
1.1.1 Danh xƣng học với việc nghiên cứu tên riêng
Ngành khoa học nghiờn cứu tờn riờng trờn tất cả cỏc bỡnh diện đƣợc gọi là
ngành Danh xưng học (Onomastics). Phạm vi nghiên cứu của ngành Danh xƣng
học là rất rộng bởi vỡ gần nhƣ mọi thứ đều có tên và cũng bởi vỡ về mặt lớ
thuyết, việc nghiờn cứu về tờn bao gồm tất cả cỏc ngụn ngữ, ở tất cả cỏc vựng địa
lí, văn hóa và các thời đại lịch sử khỏc nhau.
Dựa trên mục đích thực tế, ngƣời ta có thể chia phạm vi nghiên cứu của Danh
xƣng học thành những nhóm nhỏ nhƣ theo ngơn ngữ (ví dụ: nghiên cứu tên riêng
trong tiếng Hy Lạp...), hoặc theo tiêu chí địa lí, lịch sử (ví dụ: nghiên cứu tên
riêng tại Trung Quốc, nghiên cứu tên riêng chỉ ngƣời thời Đế chế La Mó...)
Dựa trên đặc điểm của tên riêng, ngƣời ta chia khoa học nghiên cứu về tên

riêng thành 2 chuyên ngành là Nhõn danh học (Anthroponomastics) và Địa danh
học (Toponomastics). Nhõn danh học là khoa học nghiên cứu về tên riêng chỉ
ngƣời hoặc tên ngƣời. Địa danh học là khoa học nghiên cứu về tên đất, tên địa
điểm. Tuy nhiên, hiện nay ngƣời ta thƣờng dùng thuật ngữ “onomastics” để chỉ
khoa học nghiên cứu về tên riêng và thuật ngữ “toponomy” để chỉ ngành khoa học
nghiên cứu địa danh.
Thuật ngữ “địa danh học” (toponomy) có thể đƣợc hiểu theo 2 cách: theo
nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ này chỉ ngành khoa
học nghiên cứu tên đất, tên đƣờng, tên nhà, tên đất nƣớc, tên núi non, tờn sụng,
tờn hồ, tờn biển cả, tờn cỏc vỡ sao... Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này chỉ ngành
khoa học nghiờn cứu tờn địa điểm nhƣ tên thành phố, tên thị trấn, tên làng mạc...
Việc phân chia ngành danh xƣng học thành nhân danh học và địa danh học là
để thuận tiện hơn trong quá trỡnh nghiờn cứu tờn riờng. Tuy vậy, để đạt đƣợc kết
quả nghiên cứu tốt nhất, ngƣời ta thƣờng nghiên cứu tên ngƣời và tên đất cùng
nhau, bởi vỡ giữa 2 đối tƣợng này thƣờng xẩy ra chuyển đổi. Chẳng hạn, nhiều
7


tên đất có nguồn gốc từ tên ngƣời nhƣ “thành phố Hồ Chí Minh”, “thủ đơ
Washington”, tên các hành tinh theo thần thoại Hy Lạp – La Mó... và nhiều tờn
ngƣời có nguồn gốc từ địa danh nhƣ “Thành Nam”, “Hoà Bỡnh”, “Kỳ Anh”...
trong tiếng Việt hoặc “French”, “Scott”... trong tiếng Anh.
1.1.2 Đặc điểm về chức năng, ý nghĩa và ngữ phỏp của tờn riờng
Trong luận văn này, chúng tôi dùng thuật ngữ “tên riêng” để chỉ tên gọi cá thể
hoá hay tên cá thể. Tên riêng bao gồm hai loại: nhân danh và địa danh. Nhân danh
liên hệ đến một ngƣời hay một nhóm ngƣời (nhƣ anh Xũn, họ Huỳnh của ngƣời
Việt; cô Mary, dũng họ Curtis của ngƣời Anh). Địa danh đề cập tới một vùng
vùng lónh thổ nhất định (nhƣ Hà Nội, London).
Tuy nhiên, trong vấn đề tên riêng vẫn cũn nhiều điều cũn bỏ ngỏ, nhất là khi
đi vào khảo sát các nội dung cụ thể nhƣ tiêu chí phân biệt tên riêng và tên chung,

các kiểu loại tên riêng, đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, phạm vi hành chức chủ
yếu...
Dƣới đây, chúng tôi xin giới thiệu ba bỡnh diện cơ bản của tên riêng: chức
năng, ý nghĩa và ngữ phỏp.
1.1.2.1 Chức năng của tên riêng
Một danh từ chung có thể đƣợc dùng để chỉ một nhóm thực thể và cũng có thể
đƣợc dùng để chỉ một cá thể đơn nhất. Tức là, danh từ chung vừa có nội dung ngữ
nghĩa nhất định vừa chỉ một đối tƣợng hiện thực. Ví dụ, ngƣời dân ở bói An
Dƣơng (Quận Tây Hồ - Hà Nội) nói “Đi bơi đi nhƣng ở bể bơi chứ không phải ở
sông đâu nhé” thỡ rừ ràng từ “sụng” ở đây đó hàm chỉ tới một cỏ thể duy nhất,
một dũng sụng duy nhất, đó là sơng Hồng. Tuy nhiên, điều này khơng làm cho tên
riêng của dũng sông này mất đi. Rừ ràng từ “sụng” ở đây là một danh chung
nhƣng với một ngữ cảnh ngơn ngữ đặc biệt, nó đó chuyển sang chỉ một thực thể
duy nhất. Trong khi đó, tên riêng chỉ có một chức năng là chức năng biểu đạt.
Chức năng này giúp phân biệt, nhận biết đƣợc sự vật, hiện tƣợng, con ngƣời mà
khơng chỉ ra đặc tính phẩm chất của các đối tƣợng đƣợc gọi tên đó. Một số danh
8


từ chỉ tên dƣờng nhƣ thuộc về nhóm danh từ chung nhiều hơn là nhóm danh từ chỉ
tên riêng nhƣ trƣờng hợp “Sài Gũn” trong “sụng Sài Gũn”. Vớ dụ các tên riêng
nhƣ “Gũ Cụng”, “Rạch Rỏ”, “Bến Tre”, “Hà Nội”... cú lẽ là bắt nguồn từ việc sử
dụng danh từ chung một cỏch riờng biệt. Nếu cõu “Chỳng tụi đi bơi ở cái hồ phía
tây chứ khơng khơng phải phía đơng” đƣợc lặp lại nhiều lần, thỡ cú thể cỏi tờn
“Hồ Tây” hoặc “Tây Hồ” sẽ đƣợc hỡnh thành với tƣ cách là một danh từ chỉ tên
riêng. Những tên riêng đƣợc hỡnh thành nhƣ cách ở trên phần lớn là những tên
mang đặc điểm mô tả.
Khi đề cập tới một đối tƣợng cụ thể, đơn nhất trong cả thế giới hiện thực hay
tƣởng tƣợng, tên riêng thể hiện đƣợc đầy đủ nhất chức năng gọi tên sự vật của
mỡnh. Chức năng này đó giỳp tờn riờng trở thành phƣơng tiện nhận biết tốt nhất.

Chẳng hạn, khi ngƣời ta nói: “Hemingway đó nhận giải thƣởng Nobel văn học
năm 1954” thỡ ai cũng biết đó là nhà văn nổi tiếng ngƣời Mỹ Ernest Hemingway,
ngƣời đó viết cỏc tiểu thuyết “Chuụng nguyện hồn ai”, “ễng già và biển cả”...
Sự khác biệt giữa danh từ chỉ tên và danh từ chung thƣờng khơng khó xác
định: danh từ chỉ tên đƣợc dùng để chỉ một đối tƣợng duy nhất, danh từ chung
đƣợc dùng để chỉ tất cả các đối tƣợng trong cùng một nhóm hoặc là bất cứ một
đối tƣợng nào đó trong nhóm (ví dụ nhƣ sơng, núi, đàn ơng, đàn bà, cái xe, cái
bàn...). Tuy nhiên, cũng có trƣờng hợp mà ranh giới xác định tỏ ra khơng hồn
tồn rừ ràng. Vớ dụ “ngƣời Anh”, “ngƣời Việt”, “ngƣời Nga” thỡ đƣợc coi là
danh từ chỉ tên, nhƣng cũng có những nhóm ngƣời khác thỡ lại khụng đƣợc coi là
danh từ chỉ tên và do vậy các từ ngữ nhƣ “chiến sĩ”, “thuỷ thủ”, “giới nghệ sĩ”...
lại là danh từ chung. Ngoài ra cũn nhiều danh từ khỏc rất khú xỏc định là danh từ
chung hay danh từ chỉ tên. Chẳng hạn, nếu tất cả xe máy do ông Honda sản xuất
thỡ liệu “Honda” cú cũn là tờn nữa khụng? Nếu vẫn là danh từ chỉ tờn thỡ liệu nú
cú cũn giữ đƣợc đầy đủ những chức năng khu biệt với danh từ chung không?
Thực tế cho thấy, những tên loại này thƣờng mất dần đi tính chất của danh từ chỉ
tên và chuyển thành danh từ chung. Ví dụ, sau khi thống nhất đất nƣớc, rất nhiều
xe máy Honda đƣợc mang ra ngoài miền Bắc và ngƣời miền Bắc cú thúi quen gọi
tất cả cỏc loại xe mỏy là Honda. Hoặc hóng Sony đó rất thành cụng với loại mỏy
9


nghe nhạc bỏ tỳi Walkman đến nỗi ngƣời phƣơng Tây có thói quen gọi tất cả các
máy nghe nhạc loại này Walkman mà không quan tâm tới tên thƣơng hiệu của
chúng là gỡ. Những tờn nhƣ “Roman Catholic Church” (Nhà thờ Cơ đốc giáo La
Mó), “Mexico City” (thành phố Mexico) vừa cú biểu hiện của danh từ chung vừa
cú tớnh chất của danh từ chỉ tờn. Tỡnh trạng khụng rừ ràng này là kết quả của
việc viết hoa hay khụng viết hoa cỏc thành tố trong các ngôn ngữ khác nhau. Vấn
đề này đó cú lịch sử lõu dài và đƣợc phản ánh trong hệ thống thuật ngữ hiện đại.
Ngƣời Hy Lạp dùng thuật ngữ danh từ (onoma) để chỉ cả danh từ chung và danh

từ chỉ tên và khi muốn phân biệt, họ gọi danh từ chỉ tờn là danh từ riờng (onoma
kyrion). Chính là từ truyền thống này mà ngƣời Anh dùng thuật ngữ “danh từ
riờng” (proper noun) hoặc “tờn riờng” (proper name) để chỉ các danh từ chỉ tên
và “danh từ chung” (common noun) để chỉ các danh từ khơng chỉ tên riêng
(appellative).
Ngồi chức năng gọi tên sự vật, tên riêng cũn cú chức năng ngữ dụng, tức là
chúng đƣợc dùng nhƣ một phƣơng tiện biểu hiện tỡnh cảm, quan hệ hay đánh giá
đối tƣợng đƣợc gọi tên. Điều này đƣợc thể hiện rất rừ ở tớnh đặc thù trong sử
dụng tên riêng ở mỗi dân tộc, mỗi ngôn ngữ. Chẳng hạn, việc gọi tên một ngƣời
Anh theo tên cá nhân, theo tên họ, theo tên đầy đủ khơng có tên đệm, theo tên đầy
đủ với yếu tố tên đệm cũng phản ánh rừ mối quan hệ thõn, sơ, hay kính trọng
cũng nhƣ địa vị xó hội của ngƣời ngƣời đƣợc gọi tên và ngƣời gọi tên. Ở ngƣời
Việt cũng vậy, thông thƣờng ngƣời ta gọi nhau bằng tên tên nhƣ “anh Bỡnh”, “chị
Mai”, “bà Hoà” v.v... nhƣng trong những bối cảnh giao tiếp mang tính hành chính
lại cần thiết phải gọi cả họ tên đầy đủ (anh Nguyễn Văn Bỡnh, chị Hoàng Thu
Mai, bà Trần Thị Hồ).
Nhƣ vậy, có thể thấy tên riêng có một số chức năng quan trọng sau: chức năng
gọi tên, chức năng nhận biết, chức năng biểu đạt và chức năng ngữ dụng.
1.1.2.2 í nghĩa của tờn riờng
Câu hỏi chung quanh vấn đề tên riêng có nghĩa hay khơng có nghĩa đó cú từ
khi con ngƣời biết đặt tên và cho đến nay vẫn là vấn đề thời sự trong nghiên cứu
10


tên riêng. Vấn đề nghĩa của tên riêng luôn gắn liền với bản chất của tên riêng. Vấn
đề ý nghĩa của tờn riờng (sense/meaning of proper name) là một vấn đề lớn và
hiện nay vẫn cũn nhiều ý kiến trỏi ngƣợc nhau xung quanh vấn đề này. Trong giới
nghiên cứu về tên riêng, có 2 trƣờng phái nổi lên thu hút đƣợc nhiều sự chú ý. Đó
là trƣờng phái cho rằng tên riêng có nghĩa và trƣờng phái cho rằng tên riêng
khơng có nghĩa. Cho rằng tên riêng có nghĩa hay khơng có nghĩa cũng chính là

khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại của kết cấu vật chất bên trong tên riêng.
Đại diện nổi bật của trƣờng phái cho rằng tên riêng có nghĩa là Frege (Gottlob
Frege, 1848 – 1925). Ơng và các tác giả có quan điểm giống ơng cho rằng tên
riêng có nghĩa. Bằng chứng là nếu thay đổi nội dung của những tên cùng tham
chiếu thỡ sẽ thấy tờn riờng cú nghĩa. Chẳng hạn: khụng ai nghi ngờ “sao Mai” là
sao mọc vào buổi sỏng và việc nói “sao Hơm” mọc vào buổi sáng sẽ là trái với
hiểu biết chung. Khó khăn mà những ngƣời theo trƣờng phái này gặp phải chính
là vấn đề diễn đạt, bày tỏ ý nghĩa của tờn riờng.
Mill (John Stuart Mill, 1806-1873) là ngƣời đi đầu trong việc cho rằng tên
riêng khụng cú nghĩa, tức là tờn riờng khụng cú nghĩa hàm chỉ. Cựng với Mill cũn
cú quan điểm của Kriple (Saul A. Kripke, 1941 -). Theo Kriple, tờn riờng chỉ gọi
tờn sự vật một cỏch cứng nhắc, tờn riờng khụng cú nghĩa hàm chỉ. Theo cỏc tỏc
giả này, nếu tờn riờng cú nghĩa thỡ dƣờng nhƣ cái biểu vật của tên riêng sẽ thay
đổi trong các thế giới khác nhau. Mill cho rằng, tên riêng cũng giống nhƣ vệt phấn
đánh dấu, nó khơng có nghĩa mà chỉ có mục đích chỉ ra biểu vật. Tuy vậy, vấn đề
mà những ngƣời theo trƣờng phái Mill gặp phải đó là giải thích nội dung có tính
chất nhận thức hiển nhiên của tên riêng.
Tờn riờng rừ ràng mang nội dung riờng biệt và đƣợc cá thể hố chính bởi
nguồn gốc của nó. Nội dung của mỗi một tên riêng đều đƣợc qui định bởi ngƣời
đặt tên hoặc cộng đồng đặt tên. Những từ dùng để đặt tên có thể là để biểu thị sự
tơn kính hoặc cũng có thể là để hàm chỉ tới một đối tƣợng khác mà ngƣời đặt tên
mong muốn. Dù mang nội dung nào đi chăng nữa mỗi cái tên vẫn là một cá thể
riêng biệt với nguồn gốc riêng, ngƣời đặt tên riêng và lịch sử ra đời riêng.

11


Có thể thấy, cả quan điểm cho rằng tên riêng có nghĩa và quan điểm cho rằng
tên riêng khơng có nghĩa đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Sẽ cũn cần
nhiều nghiờn cứu sõu hơn nữa về vấn đề nghĩa của tên riêng trƣớc khi có thể đi

đến một kết luận hay một phát hiện cho vấn đề này.
Tuy nhiờn, nhỡn một cỏc chung nhất, tờn riờng là cú nghĩa nhƣng năng lực
nghĩa của tên riêng dƣờng nhƣ không trọn vẹn, đầy đủ nhƣ năng lực nghĩa của
thực từ. Trong khi nghĩa của thực từ đƣợc biểu hiện qua khỏi niệm của nú thỡ
nghĩa của tờn riờng (nghĩa biểu vật) thể hiện thụng qua việc hỡnh thức õm thanh
của nú tƣơng quan trực tiếp luôn với biểu vật, rồi qua biểu vật mà tƣơng quan với
đối tƣợng biểu đạt. Đây cũng chính là lí do để nảy sinh các quan điểm về việc tên
riêng có nghĩa hay khơng có nghĩa.
Rừ ràng về phƣơng diện ngữ nghĩa, tên riêng không có cấu trúc ngữ nghĩa nhƣ
tên chung, nó cũng khơng có các mối liên hệ có tính liên tƣởng và tính cấu trúc.
Nội dung hàm chỉ của tên riêng (nội dung ngữ nghĩa) nảy sinh trên cơ sở các mối
liên tƣởng thƣờng trực trong tâm thức của cộng đồng ngôn ngữ. Nội dung hàm chỉ
ở tên riêng thƣờng xuất hiện trong những ngữ cảnh nhất định và đôi khi chỉ bộc lộ
trong trƣờng hợp có tác động của những nhân tố nhất định ngoài ngụn ngữ. Xột
vớ dụ sau:
-

“Napoleon was impatient waiting for his marshals. The emperor was
furious: his order has been disordered.” (Napoleon khụng cũn kiờn nhẫn
để đợi các vị tƣớng của mỡnh đƣợc nữa. Hoàng đế rất tức giận vỡ mệnh
lệnh của ngài đó khụng đƣợc tuân theo.)

Trong ví dụ này, ngƣời đọc dù muốn hay khơng cũng có một liên tƣởng giữa
“Napoleon” và “Hồng đế”. Để hiểu đoạn văn trên, nhất định ngƣời ta phải cho
rằng cả “Napoleon” và “Hoàng đế” đều hàm chỉ tới một đối tƣợng và rằng
“Napoleon” là “Hoàng đế”. Đồng thời, cái tên “Hoàng đế Napoleon” gợi cho họ
rất nhiều điều nằm ngoài phạm vi tác động của ngôn ngữ. Giả sử, thay
“Napoleon” bằng “Nale” trong ví dụ nêu trên, chắc chắn ngƣời đọc sẽ đặt ra hàng
loạt câu hỏi. Chính những mối liên tƣởng thƣờng trực trong suy nghĩ của ngƣời


12


đọc đó khiến họ phải tỡm kiếm chớnh xỏc đối tƣợng định danh và kích thích việc
tạo ra hỡnh tƣợng biểu cảm.
Ngƣời ta thƣờng cho rằng tên riêng dùng để gọi tên một ngƣời, một địa điểm,
một sự vật...v.v. Cách định nghĩa này chỉ cú tỏc dụng trong một phạm vi hẹp và
nếu nhỡn rộng ra thỡ nú sẽ vấp phải 2 vấn đề cơ bản sau: (1) Chẳng hạn, cụm từ
“Thủ tƣớng chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2000” chỉ ra một ngƣời cụ
thể nhƣng ngƣời ta lại khơng cho nó là tên riêng. Trên thực tế, đó cú một số nhà
logic học coi những cụm nhƣ trên là tên riêng vỡ nú chỉ tờn một đối tƣợng duy
nhất, nhƣng trong thực tế giao tiếp xó hội những ngƣời sử dụng lại không nghĩ
nhƣ vậy. (2) Những từ ngữ thƣờng đƣợc cho là tên riêng nhƣ “Adam”, “Eva”,
“Margaret”..., thực tế lại không phải lúc nào cũng gọi tên những đối tƣợng cụ thể.
Tại nƣớc Anh chẳng hạn, hiện nay có rất nhiều ngƣời mang tên “Adam”,
“Margaret”.
Rừ ràng cỏi đƣợc gọi là tên riêng lại không là tên riêng về mặt ngữ nghĩa,
nhƣng vấn đề là gọi tên nhƣ thế nào và dựa trên những căn cứ nào để gọi tên? Trở
lại ví dụ trên, “Thủ tƣớng chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2000” chỉ ra
một ngƣời cụ thể bằng cách mô tả những đặc điểm mà ngƣời đó có, để từ đó có
thể đƣợc gọi tên nhƣ là “giữ chức thủ tƣớng”, “đứng đầu chính phủ nƣớc Việt
Nam”, “đứng đầu chính phủ năm 2000”. Nếu tại Việt Nam, ngƣời ta khơng dùng
cụm “Thủ tƣớng chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2000” để nhắc tới ông
Phan Văn Khải thỡ nghĩa hàm chỉ của cụm trờn vẫn khiến ngƣời nghe liên tƣởng
tới ụng Phan Văn Khải vỡ bản thõn ụng đáp ứng đầy đủ các đặc điểm mà cụm từ
nêu trên hàm chứa. Trong khi đó, cái tên “Adam” gợi nhắc tới bất cứ ngƣời nào
có tên nhƣ vậy mà không cần chú ý tới các đặc điểm riêng có. Nếu một ngƣời
chƣa đƣợc gọi là “Adam” và chƣa từng có ai gọi anh ta nhƣ vậy, thỡ anh ta khụng
đƣợc coi là “Adam”. Nhƣ vậy, về mặt ngữ nghĩa, tên riêng có thể đƣợc coi là
những cụm từ đƣợc dùng để gọi tên một ngƣời, một địa điểm, một đối tƣợng mà

tất cả mọi ngƣời đều thống nhất gọi nhƣ vậy. Tên riêng không bao hàm bất kỳ đặc
điểm nào khác ngoài việc gọi tên đối tƣợng. Cái tên “Adam” chỉ xác định một
ngƣời đƣợc gọi là “Adam” và ngoài ra thỡ khụng cũn gỡ hết.
13


Tóm lại, vấn đề nghĩa của tên riêng là rất phức tạp. Quan niệm của các nhà
nghiên cứu trên vấn đề này rất khác nhau. Những ngƣời theo trƣờng phái Frege
thỡ cho rằng tờn riờng cú nghĩa nhƣng lại không diễn đạt đƣợc, khơng giải thích
đƣợc tên riêng. Ngƣợc lại, những ngƣời theo trƣờng phái Mill thỡ cho rằng tờn
riờng khụng cú nghĩa song lại khụng thể giải thích nội dung có tính chất nhận
thức hiển nhiên của tên riêng. Vấn đề đặt ra là nếu nhƣ tên riêng có nghĩa thỡ nội
dung của nghĩa đó là gỡ? Nội dung của nghĩa tờn riờng chớnh là nghĩa hàm chỉ
của nú. Vậy nờn cõu hỏi là tờn riờng cú nghĩa hàm chỉ khụng? Câu trả lời có thể
là “Có”, có thể là “Không” tuỳ vào phạm vi liên tƣởng. Nếu tên riêng khơng có
các mối liên hệ liên tƣởng thỡ sẽ khụng cú nghĩa hàm chỉ. Nếu tờn riờng cú cỏc
mối liờn hệ cú tớnh liờn tƣởng hoặc gợi ra những mối liên tƣởng thỡ cú nghĩa
hàm chỉ. Chúng tôi cho rằng, để đạt đƣợc kết quả trong việc nghiên cứu ý nghĩa
của tờn riờng thỡ cần phải xem xột ý nghĩa của tờn riờng trong bối cảnh ngụn ngữ
- xó hội cụ thể, tức là ở trong từng ngụn ngữ cụ thể với cộng đồng giao tiếp cụ thể
(Community of Speech).
1.1.2.3 Ngữ phỏp của tờn riờng
Trong một số ngôn ngữ, tên riêng đƣợc phân biệt với danh từ chung bằng
những phƣơng tiện hỡnh thức. Sự khỏc biệt giữa chỳng đôi khi đƣợc chỉ ra theo
cùng một cách. Chẳng hạn, những ngôn ngữ sử dụng bảng chữ cái La-tinh, Hy
Lạp, Xla-vơ cổ, Ác-mê-ni... phân biệt danh từ chỉ tên bằng cách chuyển chữ cái
đầu tiên trong tên thành chữ hoa. Tuy nhiên, cũng có trƣờng hợp ngƣợc lại. Trong
tiếng Đức, tất cả danh từ đều đƣợc viết với chữ cái đầu tiên là chữ hoa. Danh từ
chỉ tên và danh từ chung cũng có thể đƣợc phân biệt qua phƣơng tiện ngữ pháp
nhƣ trƣờng hợp bỏ quán từ “a” và “an” trong tiếng Anh. Ví dụ: “Yesterday I saw

a baker making his cakes” và “Yesterday I saw (James) Baker making his cakes”
(Hụm qua tụi xem một người thợ làm bỏnh mỳ làm bỏnh; - Hụm qua tụi xem ụng
Baker làm bỏnh).
Rừ ràng, tờn riờng khụng chỉ đặc biệt về mặt ngữ nghĩa mà về mặt ngữ pháp
cũng có nhiều điểm đáng lƣu ý. Chức năng của tên riêng là gọi tên đối tƣợng đơn
14


nhất cho nên tên riêng chủ yếu dùng ở số ít, không dùng ở số nhiều. Chẳng hạn
trong tiếng Việt, tên riêng không trực tiếp kết hợp với các từ chỉ số lƣợng nhƣ
những, cỏc để gọi tên một đối tƣợng cụ thể. Ta khơng thể nói “những Nguyễn
Văn Ba” hay “các Vũng Tàu”... (Nếu nói nhƣ vậy thỡ ý nghĩa hàm chỉ đó thay
đổi.) Trong tiếng Anh, cũng xẩy ra tỡnh hỡnh tƣơng tự, ngƣời ta không dùng
hỡnh thức số nhiều với tờn riờng trừ những trƣờng hợp đặc biệt (nhƣ gọi tên cả
gia đỡnh). Cú một số tờn địa danh hoặc tên quốc gia trong tiếng Anh sử dụng
hỡnh thức số nhiều nhƣ “The Philippines”, “The Great Lakes”, “The States”...,
song trong sử dụng ngƣời Anh ln có thói quen coi chúng nhƣ những danh từ số
ít.
Đặc điểm ngữ pháp của một ngơn ngữ cũng góp phần làm cho tên riêng của
ngơn ngữ đó có nhiều điểm khác biệt. Chẳng hạn, cách dùng quán từ xác định
“the” với tên riêng để thể hiện hỡnh thức số nhiều trong tiếng Anh. Vớ dụ: “The
Browns has come back from their holiday” (Gia đỡnh nhà ụng (bà) Brown đó đi
nghỉ về).
Cỏc tờn riờng cũng cú một tớnh chất khỏ quan trọng là chuyển thành cỏc từ
loại khỏc trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Cú thể núi, hỡnh thức cấu tạo
cỏc tớnh từ, động từ... từ tên riêng là khá phổ biến trong các ngôn ngữ (mặc dù
phƣơng thức cấu tạo có khác nhau). Ví dụ:
-

“Americanize” (Mỹ húa), “Victorian time” (thời nữ hoàng Victoria)

trong tiếng Anh.

-

“Giữ chỳt gỡ rất Huế đi em”, “Việt Nam hoỏ chiến tranh” trong tiếng
Việt.

Ngoài ra, hỡnh thức cấu tạo danh từ chung từ tờn riờng cũng xuất hiện ở
nhiều ngụn ngữ tuy khụng phải là một hiện tƣợng phổ biến.
Nhƣ vậy, ngoài những đặc điểm ngữ nghĩa, tên riêng cũng mang những đặc
điểm ngữ pháp khác biệt với nhóm danh từ chung.
1.2 Khái niệm về tên ngƣời (nhân danh)
1.2.1 Mụ hỡnh chung về tờn ngƣời
15


Tên ngƣời hay tên riêng chỉ ngƣời (cũn gọi là nhõn danh) là một phạm trù
rộng, bao gồm nhiều thành phần cũng nhƣ khái niệm ở bên trong. Về cơ bản, một
đứa trẻ mới sinh ra sẽ đƣợc đặt một cái tên để gọi (tại châu Âu và Bắc Mỹ, đứa trẻ
thƣờng đƣợc đặt tên tại Lễ Baptism (Lễ Rửa tội). Cái tên này thƣờng đƣợc gọi là
tên thánh, tên gọi, hay tên thứ nhất. Để tránh nhầm lẫn về mặt thuật ngữ, chúng
tôi gọi tên này là tờn cỏ nhõn. Do số lƣợng tên thánh là không nhiều, nên có rất
nhiều ngƣời trùng tên với nhau và để phân biệt ngƣời ta dùng tờn họ (vớ dụ: John
Smith, John Hunter, John Scott...). Các tên họ thƣờng có tính ổn định cao hơn và
đƣợc truyền từ đời này qua đời khác trong các gia đỡnh, gia tộc. Do vậy, tờn họ
cú thể đƣợc gọi là tên gia đỡnh và tại cỏc nƣớc phƣơng tây (nhƣ Anh, Mỹ...), nó
cũn đƣợc gọi là “tên cuối cùng” (last name). Từ đó có thể thấy mô hỡnh tờn ngƣời
cơ bản, thƣờng trực ở các nƣớc Âu – Mỹ là: Tên cá nhân + Tên gia đỡnh. Trong
khi đó, ở các dân tộc khác thỡ mụ hỡnh tờn ngƣời lại khác. Thí dụ, tên ngƣời
Việt, tên ngƣời Hoa cũng nhƣ tên ngƣời của một số dân tộc khỏc lại cú mụ hỡnh

ngƣợc lại với tên ngƣời Âu – Mỹ. Cụ thể là tên gia đỡnh đi trƣớc tên cá nhân, ví
dụ nhƣ Nguyễn Ái Quốc, Mao Trạch Đông... thỡ “Nguyễn” và “Mao” là cỏc tờn
họ.
Tuy nhiên, trong cấu trúc hồn chính của tên ngƣời cũn một yếu tố nữa đƣợc
gọi là tên đệm. Tại các nƣớc Âu – Mỹ, ngƣời ta thƣờng thêm một tên nữa song
song với tên cá nhân và đặt vào giữa tên cá nhân và tên họ trong mô hỡnh tờn
ngƣời. Tên này đƣợc gọi là tên đệm (tên giữa – middle name) hoặc tên thứ hai
(second name). Tên đệm của một ngƣời có thể là tên họ thời con gái của mẹ ngƣời
ấy và tên đệm cũng có thể là tên họ thời con gái của ngƣời vợ đƣợc đặt giữa tên cá
nhân của cô ta và tên họ của chồng. Tại nƣớc Anh, tên đệm ít đƣợc quan tâm hơn
so với tên họ và tên cá nhân. Thông thƣờng, ngƣời Anh chỉ sử dụng tên đệm tại
Lễ Rửa tội và Lễ Đặt tên chính thức (Confirmation), hoặc những dịp cực kỳ trọng
đại mà thôi. Tại phần lớn các nƣớc châu Âu khác, ngƣời ta chỉ coi tên cá nhân thứ
nhất mới là tên thực thụ và rất ít khi quan tâm tới tên đệm. Tuy nhiên, trong cách
gọi tên của ngƣời Đức thỡ cỏi tờn đi ngay trƣớc tên họ lại là tên quan trọng nhất.
Ví dụ: nếu phải bỏ đi một trong những tên thánh đi trƣớc tên họ trong các tên
16


ngƣời nhƣ Johann Sebastian Bach và Johann Wolfgang von Goethe thỡ ngƣời
Đức sẽ bỏ tên “Johann”, tức là yếu tố thứ nhất trong cấu trúc tên ngƣời. Tuy
ngƣời Anh coi tên cá nhân (yếu tố đầu tiên) là quan trọng nhất nhƣng cũng không
phải là không hề bị ảnh hƣởng bởi phong cách Đức (chẳng hạn nhƣ cách viết W.
Sidney Allen).
Nếu nhƣ tên đệm ít đƣợc quan tâm trong mơ hỡnh tờn ngƣời châu Âu thỡ nú
lại rất đƣợc chú ý trong mụ hỡnh tờn ngƣời các nƣớc phƣơng Đông. Chẳng hạn,
phần lớn tên ngƣời Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản... có sự xuất
hiện của yếu tố tên đệm. Trong các ngơn ngữ này, tên đệm có vai trũ và chức
năng riêng và gần nhƣ không thể thiếu đƣợc trong cấu trúc tên ngƣời.
Tại chõu Âu cũng tồn tại một hỡnh thức đặt tên gọi là: đặt theo tên cha

(patronymics), tức là đặt tên theo tên cá nhân của cha (hoặc mẹ). Tại nƣớc Nga,
nếu tờn của cha là ẩõàớ ấðỷởợỹ (Ivan Krylov), thỡ tờn của con trai cú thể là ẽáỡð
ẩõàớợõốữ ấðỷởợỹ (Piotr Ivanovich Krylov) và tờn con gỏi cú thể là Íàỡàứà
ẩõàớợớà ấðỷởợõà (Natasha Ivanovna Krylova). Trong giao tiếp thân mật, ngƣời
Nga thƣờng chỉ gọi tên cá nhân và “yếu tố gọi theo tên cha”. Tại Tây Ban Nha,
tên họ của một ngƣời bao gồm tên họ của cha và tên họ của mẹ. Trong 2 yếu tố
này thỡ yếu tố đi trƣớc đƣợc coi là quan trọng hơn. Chẳng hạn, tên đầy đủ của thủ
tƣớng Tây Ban Nha hiện nay là Josộ Marớa Aznar nhƣng thơng thƣờng ngƣời dân
nƣớc này gọi ơng là Josộ Marớa.
Ngồi những thuật ngữ nhƣ “tên cá nhân”, “tên họ”, “tên đệm”, khi nghiên
cứu về tên ngƣời, đặc biệt là tên ngƣời châu Âu, chúng tôi cũn thấy một số thuật
ngữ chỉ tờn ngƣời khác với những đặc điểm riêng biệt.
Vỡ phần lớn phụ nữ chõu Âu khi lấy chồng thỡ phải đổi theo họ chồng, nên
trong tiếng Anh xuất hiện thuật ngữ “maiden name” để chỉ tên thời con gái (trƣớc
khi đi lấy chồng) của ngƣời phụ nữ có gia đỡnh. Để gọi một ngƣời với mục đích
đùa bỡn, hoặc giễu cợt ngƣời ta thƣờng dùng những từ mô tả đặc điểm tính cách,
ngoại hỡnh... của ngƣời đƣợc gọi tên và vỡ vậy ra đời thuật ngữ “nickname” (tạm
dịch là tên lóng). Khác với ngƣời Việt hoặc ngƣời Hoa vốn cho rằng tên lóng
khơng thể là tên chính thức, ngƣời châu Âu (trong đó có ngƣời Anh) lại phát triển
17


khá nhiều tên họ từ những tên lóng này. Chẳng hạn các tên họ “Short”, “Black”,
“Brown” trong tiếng Anh lần lƣợt với nghĩa “thấp”, “đen”, “nâu” đều ra đời từ
các tên lóng. Tên họ cũng có thể đƣợc gọi là “byname” hoặc “to-name” để chỉ
những ngƣời có cùng tên họ nhƣng thuộc những gia đỡnh khỏc nhau và khi mà
tờn cỏ nhõn khụng đƣợc đề cập tới. Ví dụ, trong một làng có vài ngƣời mang họ
“Jones”, nếu khơng gọi bằng tên cá nhân, ngƣời Anh thƣờng gọi là “Jones at the
Pond” (Jones sống ở gần hồ) hoặc “Jones the redhead” (Jones tóc đỏ)... Tại Xcốtlen và một số địa phƣơng khác, tồn tại một một loại tên chỉ ngƣời khác gọi là
“clan name”. “Clan” là những nhóm ngƣời có chung mối quan hệ họ hàng, chung

niềm tin tôn giáo, chung bản sắc dân tộc, cùng sinh sống tại một vùng địa lí nhất
định và thƣờng khơng thể kết hơn với nhau. Ngƣời Anh cũng nhƣ ngƣời châu Âu
cũn cú hỡnh thức gọi “tờn thõn mật” hoặc “tờn õu yếm”. Thuật ngữ chuyờn
ngành gọi tờn ngƣời loại này là “hypocoristic name”. Ví dụ nhƣ “Tom” là hỡnh
thức gọi thõn mật của “Thomas”, “Pete” là hỡnh thức gọi thõn mật của
“Peter”...v.v.
Nhƣ vậy, có thể thấy tuy ít nhiều khác nhau ở yếu tố tên đệm nhƣng nhỡn
chung cấu trỳc tờn ngƣời cơ bản, đầy đủ là gồm 3 yếu tố: tên họ, tên đệm và tên
cá nhân. Các yếu tố này tạo nên 2 mô hỡnh tờn ngƣời phổ biến nhất trên toàn thế
giới là: Tên họ + Tên đệm + Tên cá nhân và Tên cá nhân + Tên đệm + Tên họ.
1.2.2 Sự chuyển dịch của tên ngƣời qua các vùng địa lí
Tên cá nhân chứa đựng trong nó nhiều điều phức tạp và không dễ giải quyết.
Tuy vậy, lịch sử văn hố của một dân tộc có thể phần nào đƣợc làm sáng tỏ thông
qua việc nghiên cứu tên riêng. Chẳng hạn, có thể tỡm thấy cõu trả lời cho tớnh
phức tạp của hệ thống tờn ngƣời châu Âu qua hàng loạt các cuộc chuyển dịch dân
số, tôn giáo, văn hố, chính trị...v.v. Đế chế La Mó cổ đại không những để lại cho
các nƣớc châu Âu ngày nay hệ thống luật pháp tƣơng đối hoàn chỉnh mà cũn là
cả hệ thống tờn ngƣời rất đa dạng. Ví dụ nhƣ các tên cổ Amanda, Antonio,
Cộline... vẫn đƣợc dùng rất phổ biến tại Pháp và Italia. Bên cạnh đó, cũn cú rất
nhiều tờn ngƣời bản địa hỡnh thành theo kiểu “La-tinh hoỏ” khi bị Đế chế La Mó
18


thống trị. Sau này, khi La Mó lựa chọn Cơ đốc giáo, hệ thống tên ngƣời châu Âu
lại trải qua những thay đổi to lớn thông qua việc lựa chọn các tên có nguồn gốc từ
tơn giáo này.
Châu Âu nói chung và nƣớc Anh nói riêng cũng thừa hƣởng rất nhiều tên
ngƣời có nguồn gốc Hy Lạp do bị ảnh hƣởng bởi nền văn học và nghệ thuật của
Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, nhiều tên ngƣời có nguồn gốc Hy Lạp và La-tinh khác
lại phổ biến thông qua các nghi lễ của nhà thờ La Mó và Đế chế La Mó phƣơng

Đơng (Byzantium) nhƣ Christopher, Peter, Paul.... Tên ngƣời có nguồn gốc từ
Kinh Cựu ƣớc (Old Testament – Do Thái cổ) cũng phổ biến tại nƣớc Anh. Ví dụ:
Amos, Bethany, Sam...
Mặc dù Cơ đốc giáo là tôn giáo số một ở các nƣớc châu Âu và những tên
ngƣời có nguồn gốc từ tôn giáo này là khá phổ biến nhƣng cũng có những nơi tại
lục địa này tên ngƣời bản địa vẫn giữ đƣợc vai trũ quan trọng của mỡnh. Tại
Vƣơng quốc Anh, ngƣời Xen-tơ (Celt), ngƣời Xcốt (Scot), ngƣời Uên (Welsh)
vẫn có tên gọi riêng của mỡnh và khi cần thỡ cỏc tờn gọi này cú thể chuyển sang
hỡnh thức tờn Cơ đốc giáo mặc dù giữa chúng chẳng có mối liên hệ nào. Trƣờng
hợp Alun (tên ngƣời Uên) chuyển thành Allan là một ví dụ. Ngƣời Na Uy dƣờng
nhƣ khơng mấy quan tâm tới tên ngƣời có nguồn gốc Cơ đốc giáo. Một trong
những bằng chứng cho điều nêu trên là tên Torsten, vốn cú nghĩa là “hũn đá của
thần Thor” (một vị thần quyền lực nhất của thần thoại Bắc Âu).
Bên cạnh tên ngƣời có nguồn gốc La-tinh, Hy Lạp cổ đại và Do Thái cổ, tên
ngƣời châu Âu cũn cú nguồn gốc từ tiếng Đức cổ (Germanic). Các bộ tộc Anglo
và Saxon di cƣ tới hũn đảo Anh từ các khu vực mà ngày nay là miền Bắc nƣớc
Đức. Có thể nói, các tên ngƣời bắt nguồn từ các ngôn ngữ Bắc Âu và Đức cổ đó
mang lại một loạt tờn ngƣời rất phổ biến trên tồn châu Âu. Ví dụ: Bernard (con
gấu, ngƣời trung thành), Edward (ngƣời trơng nom tài sản, ngƣời giầu có), Arnold
(chim đại bàng), Henry (chủ gia đỡnh, ngƣời thống trị đất nƣớc).
Có một điều khá thú vị là, trong khi tên ngƣời có nguồn gốc từ tiếng Đức cổ
vẫn khá phổ biến tại nƣớc Đức ngày nay thỡ tại Hy Lạp, những tờn ngƣời Hy Lạp
cổ lại không cũn phổ biến nữa. Lớ do là, hệ thống tên ngƣời Hy Lạp đó chịu ảnh
19


hƣởng sâu sắc của hệ thống La-tinh và Đức cổ khi các hệ thống tên ngƣời này lan
tràn tới Hy Lạp. Tên ngƣời Hy Lạp ngày nay cũng là kết quả việc hiện đại hố
một số ít các tên có nguồn gốc phi tôn giáo của ngƣời Hy Lạp cổ. Tuy nhiên,
nhiều hơn tất cả lại là những tên ngƣời bắt nguồn từ những nghi lễ của Đế chế La

Mó phƣơng Đơng, một đế chế vốn có gốc rễ từ chính Hy Lạp cổ đại.
Khi những sự chuyển dịch này xẩy ra, ngƣời ta dù bắt buộc hay tự nguyện đó
dần dần chấp nhận những tờn ngƣời từ một ngơn ngữ khác vào hệ thống tên ngƣời
của dân tộc mỡnh và vỡ vậy ý nghĩa ban đầu của tên cũng mai một dần. Kết quả
của hiện tƣợng này là, những tên gốc đó biến đổi sao cho phù hợp với ngôn ngữ
bản địa (trƣờng hợp tên “James” của ngƣời Anh và “Jacques” của ngƣời Pháp) và
qua thời gian, sự phù hợp với ngôn ngữ bản địa cũn thể hiện ở hàng loạt cỏc biến
thể của tờn ngƣời ở cả khía cạnh chính tả lẫn phát âm (đấy là chƣa kể đến vấn đề
tên ngƣời biến đổi theo giới tính). Có thể kể ra những ví dụ rừ ràng nhất về các
biến thể từ tên gốc nhƣ Alexander trở thành Alex, Sandra... hoặc Hanna (nữ),
John (nam) trở thành Sean, Zane, Yannick, Eoin, Shaughna, Ivan...
Tuy nhiờn, tỡnh hỡnh nhƣ trên không phải lúc nào cũng xẩy ra cho dù cũng
có những dịch chuyển xó hội to lớn. Những nền văn hố giữ đƣợc tính độc lập
nhiều hơn thỡ ớt phải đối mặt với tỡnh trạng nghĩa gốc của tờn ngƣời bị mất đi.
Trong trƣờng hợp này, tên ngƣời vẫn không thay đổi qua nhiều thế kỉ. Chúng vẫn
đƣợc sử dụng giống nhƣ khi chúng đƣợc sinh ra cùng với ngôn ngữ. Trƣờng hợp
tên ngƣời Nhật và ngƣời thổ dân Hawaii là những ví dụ nổi bật nhất. Cho tới gần
đây, tên của họ vẫn giữ đƣợc những hỡnh thức và nội dung mang đậm nét đặc
điểm dân tộc. Ấn Độ lại là một trƣờng hợp khác. Các biến thể tên ngƣời chỉ xẩy ra
trong phạm vi đất nƣớc này và giữa các ngôn ngữ trên tiểu lục địa này mà thôi.
Tên ngƣời Ả-rập lại khơng khó nhận ra cho dù chúng đó trải qua nhiều dịch
chuyển địa lí. Cụ thể, rất ít tên ngƣời Ả-rập có cách phát âm thay đổi và dù có
thay đổi cũng là vỡ đó là những tên ngƣời mà hỡnh thức phỏt õm của chỳng
khụng phự hợp với ngụn ngữ địa phƣơng. Ví dụ trong tiếng Li-băng, một ngơn
ngữ có xu hƣớng loại bỏ những âm đũi hỏi nỗ lực khi phỏt õm, những tờn ngƣời
nhƣ Lu’lu’a và Nõ’ela (nguyờn õm bị tắc) sẽ vẫn đƣợc giữ nguyên hỡnh thức
20


viết trong cỏc văn bản chính thức nhƣng cách phát âm thỡ cú thay đổi (phát âm là

[lulwa] và [nayla]). Ngoài ra, cũn cú trƣờng hợp giản lƣợc tên gọi, hoặc giảm nhẹ
nghĩa (diminutive) nhƣ Barhum với nghĩa là “Ibrahim bộ nhỏ”.
Với sự bành trƣớng của các đế chế Hồi giáo, tên ngƣời Ả-rập đó vƣơn tới tận
Trung Quốc và Tây Ban Nha và thay đổi đôi chút cách phát âm sao cho phù hợp
với ngôn ngữ bản địa. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng ngƣời Hồi giáo dù ở
Trung Quốc hay Tây Ban Nha vẫn nói tiếng Ả-rập và do vậy tên ngƣời ít bị thay
đổi hơn so với trƣờng hợp tên có gốc Hy Lạp cổ đƣợc ngƣời Anh sử dụng. Cũng
có một số tên ngƣời ở châu Âu ngày nay có nguồn gốc Hồi giáo nhƣng lại không
tỡm thấy dấu vết trong tờn ngƣời Ả-rập. Chẳng hạn nhƣ tên “Eleanor” có lẽ mang
nghĩa là “ (Thánh) Ala là ánh sáng của con”. Dƣờng nhƣ cái tên này đến với hai
nƣớc Pháp và Anh qua con đƣờng Tây Ban Nha.
Tên ngƣời gốc Ả-rập và Ba Tƣ thƣờng có sự trùng lặp. Ngƣời Thổ Nhĩ Kỳ sau
này coi tiếng Ả-rập nhƣ một ngôn ngữ của tầng lớp cao trong xó hội nhƣ cách mà
ngƣời châu Âu nhỡn nhận tiếng La-tinh, hoặc ngƣời Nhật, ngƣời Việt, ngƣời
Triều Tiên nhỡn nhận tiếng Hỏn. Thụng qua những mối liờn hệ văn hố và địa lí
giữa Trung Đơng với khu vực Ba Tƣ, có thể thấy rất nhiều tên ngƣời gốc Hồi giáo
cho đến nay vẫn đƣợc sử dụng có gốc gác rất cổ. Ví dụ: Joumana là một tên
ngƣời châu Âu ngày nay đó đƣợc sử dụng từ rất lâu trong thế giới Ả-rập tới mức
mà ngƣời ta cho rằng nó là một tên gốc Ả-rập. Thật ra, đây lại là tên có gốc Ba Tƣ
và mang nghĩa là “ngọc trai”.
Một số tên ngƣời tồn tại trƣớc khi Hồi giáo ra đời đó bị những ngƣời theo tơn
giáo này cấm sử dụng. Nhà tiên tri Mụ-ha-một (Mohammed) cho rằng có một số
tên không xứng đáng đƣợc sử dụng để gọi tên con ngƣời. Ví dụ: Harb (chiến
tranh), Murr (cay đắng), Kalb (con chó)... Tuy nhiên, những tên này lại đƣợc
dùng trở lại làm tên họ vài thế kỉ trƣớc với mục đích khác. Đế quốc Hồi giáo Thổ
Nhĩ Kỳ bắt buộc ngƣời dân ở những vùng đất mà họ chiếm đƣợc phải mang
những tên họ nhƣ trên.
Có một điểm đáng chú ý là, trong nhiều trƣờng hợp không thể xác định đƣợc
một tên ngƣời thuộc gốc nào. Ví dụ nhƣ trƣờng hợp tên ngƣời gốc Ả-rập và tên
21



ngƣời gốc Do Thái cổ. Ngƣời ta không thể xác định đƣợc một tên ngƣời nào đó là
gốc Ả-rập hay gốc Do Thái, hoặc là đƣợc vay mƣợn từ tiếng Xê-ry hay tiếng Aicập cổ.
Tiếng Ả-rập có đặc điểm là khơng vay mƣợn tên ngƣời từ một ngơn ngữ mà
nó khơng có liên hệ trực tiếp. Cho nên, tên ngƣời châu Âu xuất hiện rất nhiều ở
Trung Đông nhƣng chúng không đi vào ngôn ngữ bản địa. Bằng chứng là, các tên
này đƣợc phát âm theo kiểu Pháp, Italia hay Anh... tuỳ vào việc chúng đến từ đâu.
Cũng có những kí tự mới đƣợc sinh ra để ghi lại các âm nhƣ /p/, /g/, /v/ trong các
tên Peggy hoặc Fulvio... Tuy nhiờn, cú một ngoại lệ với những tên ngƣời gốc Hy
Lạp cổ đại. Thực ra, những tên chỉ ngƣời này đến với khu vực Trung Đông dƣới
thời Đế chế La Mó phƣơng Đơng trƣớc khi Hồi giáo ra đời. Ví dụ tên Boutros
(Peter trong tiếng Anh). Mặc dù có hiện tƣợng này nhƣng ngƣời Ả-rập vẫn hiểu
rừ ý nghĩa của phần lớn những tên ngƣời họ dùng. Chính vỡ vậy, trong văn bản,
ngƣời Ả-rập thƣờng để tên riêng trong dấu ngoặc kép để phân biệt với từ thơng
thƣờng. Ngồi ra, tại từng nƣớc Ả-rập cũng có những phong cách đặt tên khác
nhau. Chẳng hạn, trong khi tại Li-băng, ngƣời ta thích đặt những tên gần gũi với
vốn từ thơng dụng hàng ngày thỡ tại những nƣớc Ả-rập khác, những tên có nguồn
gốc văn chƣơng hoặc tơn kính lại đƣợc ƣa chuộng hơn.
Tại Đông Á, cùng với sự lớn mạnh và bành trƣớng của các triều đỡnh phong
kiến Trung Quốc, tên ngƣời Trung Quốc cũng theo đó mà lan rộng ra các quốc gia
chịu ảnh hƣởng. Tuy nhiên, phần lớn chỉ bị ảnh hƣởng bởi lí do đặt tên hay ý
nghĩa của tờn mà thụi. Núi cỏch khỏc, cỏc tờn ngƣời gốc Trung Quốc khi thâm
nhập vào một ngôn ngữ sẽ một phần hoặc hoàn toàn thay đổi vỏ âm thanh cho phù
hợp ngôn ngữ bản địa. Trƣờng hợp tên ngƣời Việt có nguồn gốc Trung Quốc là
một ví dụ điển hỡnh.
Ngày nay, khụng cú gỡ ngạc nhiờn khi thấy rằng cú sự lƣu chuyển tên ngƣời
giữa các quốc gia, các lục địa và việc mai một ý nghĩa ban đầu của tên ngƣời trở
thành một điều hiển nhiên. Ngƣời ta luôn cố gắng tỡm hiểu và gỡn giữ ý nghĩa
gốc của tờn vỡ đây chính là một trong những lí do để đặt tên. Có lẽ Shakespeare

và sau đó là một số nhà văn khác là những ngƣời đầu tên sáng tạo ra một số tên
22


ngƣời nhƣ Miranda, Wendy... nhƣng việc sáng tạo ra tên mới chỉ đơn thuần vỡ
mục đích phát âm, đặc biệt đối với tên nữ. Ngƣời Mỹ đi đầu trong việc chuyển tên
họ thành tên cá nhân. Ví dụ: deForest, laToya... Mặc dù đƣợc thừa hƣởng văn hoá
và cả tập quán đặt tên của ngƣời Anh, nhƣng ngƣời Mỹ cũng đi đầu trong việc
truyền bá tên ngƣời Xen-tơ (Celt) và ngƣời Gael (ngƣời Xen-tơ nói tiếng Gaelic ở
Xcốt-len) và tất nhiên điều này chẳng làm nƣớc Anh thích thú gỡ. Ngồi ra, ngƣời
Mỹ cũn “nhập khẩu” nhiều tên ngƣời từ những nền văn hoá phát triển nhƣ kiểu
ngƣời Nga du nhập các tên gốc Pháp hay ngƣời Pháp du nhập các tên gốc Hy Lạp
các thế kỉ trƣớc đó. Ngƣời Mỹ cũng quay trở lại với quan điểm tên riêng phải có
nghĩa thơng qua việc lựa chọn trong chớnh ngụn ngữ của mỡnh những từ cú “ý
nghĩa” để chuyển thành tên ngƣời. Ví dụ: Melody (giai điệu), Sunshine (ỏnh
nắng), Sky (bầu trời), Rainbow (cầu vồng). Tuy nhiên, nhiều tên trong số này chỉ
xuất hiện nhƣ hiện tƣợng mốt thời trang mà thơi.
Túm lại, chính nhờ các sự chuyển dịch dân số, văn hố, tơn giáo, nghệ thuật...
giữa các vùng địa lí, giữa các dân tộc mà tên ngƣời có điều kiện phát triển đa dạng
nhƣ ngày nay. Dựa tên lí thuyết về sự di chuyển của tên ngƣời mà ngày nay các
nhà nghiên cứu có thể tỡm hiểu đƣợc nguồn gốc của rất nhiều tên ngƣời vốn đó
rất mờ nhạt về ý nghĩa. Việc nghiờn cứu cũng làm sỏng tỏ lịch sử phỏt triển văn
hố và ngơn ngữ của nghiều dân tộc, qua đó góp phần nâng cao sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc.
1.2.3 Những vấn đề ngôn ngữ - xó hội liờn quan đến tên ngƣời
1.2.3.1 Vấn đề đặt tên
Một trong những yếu tố quan trọng nhất của quỏ trỡnh đặt tên ngƣời là việc
lựa chọn một tên gọi có ý nghĩa phự hợp với đối tƣợng đƣợc gọi tên. Trong
trƣờng hợp này, khái niệm ý nghĩa của tờn gọi hoàn toàn khỏc với ý nghĩa của
một danh từ chung vốn chỉ là “khả năng đƣợc sử dụng trong sự liên hệ với một

nhóm thực thể để biểu thị hoặc gọi tên chúng”. Tên riêng khơng có khả năng hàm
chỉ một nhóm thực thể. Nếu xem xét ý nghĩa của một danh từ chung, vớ dụ từ “xe
hơi” (automobile), có thể thấy nó biểu thị một loại phƣơng tiện giao thông (trong
23


×