Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tài liệu Lào Cai pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.34 KB, 4 trang )

Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc của Việt
Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía Bắc Lào Cai giáp Trung Quốc,
phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái.
Địa danh
Danh từ "Lào Kay" đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu nhưng trong
giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là "Lao Cai". Sau tháng 11 năm 1950, đã thống nhất
gọi là Lào Cai cho đến ngày nay
[cần dẫn nguồn]
.
Về nguồn gốc tên gọi này có nhiều cách lý giải
[cần dẫn nguồn]
:
• Vùng đất phường Cốc Lếu ngày nay xưa kia, có một khu chợ, dần dần người ta mở
mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương được
gọi là Lão Nhai (老老, tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ khác
gọi là Tân Nhai (老老, Phố Mới ngày nay).
• "Lão", hay "Lạo" là tên của một tộc người, như vậy cách thích nghĩa "Lão Nhai" là
phố của người bộ tộc Lão, Lạo
[cần dẫn nguồn]
.
• Tên gọi Lào Cai bắt nguồn từ tên "Lao Kaù" xuất hiện từ 1872 (tên chiếc pháo hạm
của Jeans Dupruis, âm Hán-Việt là Đồ Phổ Nghĩa, theo sông Hồng tiến công ngược
lên Vân Nam vào tháng 1 năm 1873).
• Theo cố giáo sư Đào Duy Anh, từ "Lão Nhai", khi làm bản đồ, người Pháp viết
"Lao Cai" thành "Lào Kay". Danh từ "Lào Kay" đã được người Pháp sử dụng trong
các văn bản và con dấu còn người Việt khi đọc, biến âm theo tiếng Việt thành Lào
Cai và trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai.
Dân số
Dân số năm 2007 của tỉnh Lào Cai là 593.600 người, trong đó số người trong độ tuổi lao
động: 314.520 người, chiếm khoảng 53% [2]


Lịch sử
Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50-60 triệu năm,
trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gẫy. Hơn vạn năm trước, con người
đã có mặt tại địa bàn tại đây
[cần dẫn nguồn]
. Tổ tiên người bản địa Lào Cai nay hồi đó cư trú khá
tập trung ở các dải đồi ven sông Hồng, sông Chẩy, các cửa ngòi Mi, ngòi Nhù. Các chủ
nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào Cai đã biết làm nông nghiệp
[1]
.
Trong buổi đầu các bộ tộc xác định ranh giới chủ quyền, thời Hùng Vương thuộc Tân
Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. Thời Âu Lạc thì vùng phía đông và
phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây Vu, còn một phần đất phía đông và phía bắc Lào Cai
hiện nay thuộc phạm vi của các bộ lạc nhỏ hơn không chịu thuần phục Lạc Việt.
Thời Bắc thuộc, ban đầu là địa phận thuộc huyện Tây Vu, quận Giao Chỉ. Sau này thuộc là
quận Tân Hưng, đất Giao Châu (thời Tây Tấn), sau là đất châu Đan Đường, Chu Quý
thuộc Giao Chỉ (thời Tùy), tiếp đổi Lâm Tây châu, Đức Hóa châu thuộc phủ An Nam (thời
Đường, 679.
Trong thời tự chủ phong kiến thuộc đạo Lâm Tây (老老), hay Đại Cồ Việt thời Đinh, Tiền
Lê và Đại Việt thời Lý); đất Đăng Châu (老老) thời Lý; tiếp là huyện Thủy Vĩ, trấn Quy
Hóa, đạo Đà Giang (老老老老老老老老老) thời nhà Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly làm phụ
chính thái sư, sửa đổi chế độ hành chính, đã đổi các bộ phủ làm trấn và Đà Giang đổi thành
trấn Thiên Hưng (老老). Trong đó, huyện Thủy Vĩ, huyện Văn Bàn (老老) được thành lập
trực thuộc châu Quan Hóa. Từ nay Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng đất Lào Cai xưa) đã chính
thức trở thành tên đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến Đại Việt. Triều Lê đổi đổi
lộ làm phủ và đổi trấn làm châu, khi đó lộ Quy Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn
Bàn, huyện Thủy Vĩ trở thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc Phủ Quang Hóa,
thừa tuyên Hưng Hóa. Năm Hồng Đức thứ 31 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành
xứ Hưng Hóa. Đến đời Hồng Thuận Lê Tương Dực (1509-1516) đổi xứ Hưng Hóa thành
trấn Hưng Hóa (老老老)

[2]
.
Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn
Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy
Hóa, tỉnh Hưng Hóa
[3]
.
Thành lập tỉnh Lào Cai
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 năm 1886), Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế
độ quân sự. Ngày 7 tháng 1 năm 1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu
quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai
[cần dẫn nguồn]
. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo
quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác bóc lột, thực dân Pháp đã chia lại
khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12 tháng 7 năm 1907, Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản
sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác
định trên bản đồ Việt Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1907 được xác định là ngày thành lập
tỉnh Lào Cai
[4]
.
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay
đổi
[cần dẫn nguồn]
.
Hành chính
Lào Cai bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 8 huyện:
• Thành phố Lào Cai
• Huyện Bảo Thắng
• Huyện Bảo Yên

• Huyện Bát Xát
• Huyện Bắc Hà
• Huyện Mường Khương
• Huyện Sa Pa
• Huyện Si Ma Cai
• Huyện Văn Bàn
Kinh tế, xã hội
Cơ cấu lao động năm 2004 theo các ngành nghề
Lào Cai hiện là một trong hai tỉnh nghèo nhất Việt Nam
[cần dẫn nguồn]
(cùng với Lai Châu) với
hơn 70% dân số sống dưới ngưỡng nghèo. Nông nghiệp và lâm nghiệp 78,07%; Thủy sản
0,04%; Công nghiệp khai thác mỏ 1,62%; Công nghiệp chế biến 2,37%; Sản xuất và phân
phối điện, khí đạt và nước 0,22%; Xây dựng 3,29%; Thương nghiệp, sửa chữa xe có động
cơ và đồ dùng cá nhân 3,48%; Khách sạn và nhà hàng 0,90%; Vận tải, thông tin liên lạc
1,31%; Tài chính, tín dụng 0,21%; Hoạt động Khoa học và Công nghệ 0,05%; Hoạt động
kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn 0,13%; Quản lý nhà nước an ninh quốc phòng 3,06%;
Giáo dục & đào tạo 3,57%; Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 0,69%; Hoạt động văn hóa -
thể thao 0,24%; Hoạt động đảng, đoàn thể, hiệp hội 0,52%; Hoạt động phục vụ cá nhân và
cộng đồng 0,24%.
Tài nguyên
Đất: Lào Cai Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa,
đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi,
đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất sói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ.
Nước: hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với 2 con sông
lớn chảy qua là sông Hồng và sông Chảy bắt nguồn Trung Quốc và hàng nghìn sông, suối
lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thủy điện vừa và
nhỏ. Trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400
0
C và

nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện chưa được khai thác, sử dụng.
Rừng: 278.907 ha, chiếm 43,87% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có 229.296,6 ha rừng tự
nhiên và 49.604 ha rừng trồng, rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của
thực vật. Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái.
Khoáng sản: Lào Cai đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản,
trong đó có một số mỏ chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ A
Pa Tit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ
đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn.
Hạ tầng
Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng, bao gồm:
đường bộ, đường sắt, đường sông, và trong giai đoạn 2006 - 2010 sẽ triển khai dự án sân
bay Lào Cai.
Tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai phía hữu ngạn sông Hồng đang được Bộ Giao
thông Vận tải và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) triển khai nghiên cứu xây dựng. Dự
kiến tuyến đường này sẽ nối với tuyến đường cao tốc Côn Minh - Hà Khẩu tạo nên hành
lang Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa phận Lào Cai dài 62 km được
nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải khoảng 1 triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt
khách/ngày đêm.
Du lịch
Với hơn 20 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất phong phú về bản sắc văn
hóa, về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa. Trong đó Người Việt chiếm số đông, có mặt
khá sớm và đặc biệt chiếm tỉ lệ cao trong những năm 1960 bởi phong trào khai hoang và
cán bộ được điều động từ các tỉnh Phú Thọ, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Nam...lên. Trong số
các dân tộc khác thì đông hơn cả là Người H'Mông, Tày, Dao, Người Dáy,...Người Hoa
chiếm tỉ lệ đáng kể. Chính sự phong phú về đời sống các dân tộc đã tạo ra một bản sắc
riêng của Lào Cai. Việc các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai cùng phối hợp tiến hành khai
thác Du lịch về cội nguồn chính là phát huy thế mạnh này và đã thu hút được dự quan tâm
của du khách.
Là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan môi trường đa

dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du
khách trong và ngoài nước.
Khu du lịch nghỉ mát Sa Pa - một là trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Sa Pa
nằm ở độ cao trung bình từ 1.200 m - 1.800 m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh
rừng cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của đồng
bào các dân tộc như chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa.
Dãy núi Hoàng Liên Sơn có đỉnh Phan Xi Păng - nóc nhà của Việt Nam - và có khu bảo
tồn thiên nhiên Hoàng Liên hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch.
Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh thái nông nghiệp
đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi, cá tầm...
Cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu thuộc Vân Nam (Trung Quốc) cũng
là một điểm du lịch thú vị.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×