Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tam nhin bien dao cua Dai tuong Vo Nguyen Giap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.43 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tầm nhìn biển đảo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp</b>



<b>Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị tướng “khai quốc công thần” với những chiến công</b>
<b>“truyền quốc sử” trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, vốn xuất thân là thầy</b>
<b>giáo dạy sử - địa. Ông hiểu sâu sắc tầm quan trọng chiến lược của biển đảo quê hương</b>
<b>cả về quốc phòng và kinh tế.</b>


<i>Trong bài viết lược thuật này, chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những chỉ đạo</i>
<i>chiến lược của Đại tướng trong giải phóng, xây dựng và bảo vệ biển, đảo Việt Nam. Tư liệu</i>
<i>trong bài được lấy chủ yếu từ sách “Võ Nguyên Giáp - hào khí trăm năm” do NXB Trẻ phát</i>
<i>hành.</i>


<b>Tầm nhìn trong giải phóng các đảo ở Biển Đông</b>


Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột tháng 3/1975, Đại tướng Võ Ngun Giáp khơng chỉ
nhìn ra thời cơ chiến lược giải phóng hồn tồn miền Nam mà ơng cịn nghĩ ngay đến việc
giải phóng các hịn đảo trên Biển Đơng. Đại tướng đã kiến nghị với Bộ Chính trị: “Vừa chuẩn
bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo
quân ngụy đang chiếm giữ”. Kiến nghị này đã được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày
25/3/1975.


Cũng từ ngày ấy, Quân ủy Trung ương điều đồng chí Hồng Trà, Chính ủy Quân chủng Hải
quân về làm việc cạnh Bộ Tổng tham mưu. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng yêu cầu Bộ
Tổng tham mưu và Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về tình hình biển đảo, chỉ đạo Cục Quân
báo nắm tình hình quân ngụy ở Biển Đơng để có kế hoạch giải phóng kịp thời.
Khó khăn của ta lúc bấy giờ là lực lượng hải quân còn nhỏ bé, làm thế nào để hành động thần
tốc, táo bạo, bất ngờ trên biển là thách thức lớn. Ngày 2/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
trực tiếp chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn: Phải nắm lực lượng ở Khu 5 và Hải qn để tổ
chức tiến cơng giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Lúc này, ở khu vực Trường Sa có Hạm đội 7 của Mỹ và nhiều nước khác hoạt động. Hải quân


ngụy cũng được trang bị tàu lớn. Do đó, địi hỏi khâu tiến cơng phải hết sức mưu trí, sáng tạo.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu điều ngay Sở chỉ huy tiền phương
của Bộ tư lệnh Hải quân vào Đà Nẵng, tham gia tiếp quản căn cứ hải quân ngụy mà ta vừa
giải phóng, chuẩn bị sẵn sàng để giải phóng các đảo. Lệnh của Tổng tư lệnh rất rõ ràng: Khi
thấy quân ngụy Sài Gịn nguy khốn thì lập tức tổ chức đánh chiếm các đảo. Trường hợp nước
ngoài thừa cơ quân ngụy khốn đốn mà đã chiếm đảo, thì ta kiên quyết chiếm lại, gặp khó khăn
gì phải báo cáo Tổng hành dinh.


Trước đó, ngày 30/3/1975, Quân ủy Trung ương đã điện cho các đồng chí Chu Huy Mân và
Võ Chí Cơng: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ giao cho Khu ủy và Bộ tư lệnh B1
nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo, thực hiện gấp rút nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các
đảo hiện do quân ngụy chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam”.


Ngày 9/4/1975, quân báo thông báo quân ngụy bắt đầu rút khỏi Biển Đông, Quân ủy Trung
ương đã điện tối khẩn cho đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Võ Chí Cơng: “Có tin qn
ngụy chuẩn bị rút khỏi Trường Sa. Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng ta
hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể qn nước ngồi chiếm
trước, vì hiện nay một số nước đang có ý đồ xâm chiếm”.
Nhận được lệnh, các tàu hải quân và lực lượng thuộc Khu 5 đã giả danh tàu đánh cá, xuất phát
ra Trường Sa. Lực lượng ta đã đánh bằng cách của mình, dùng đặc cơng bí mật tiếp cận,
nhanh chóng đổ bộ, bất ngờ chiếm mục tiêu, lần lượt giải phóng các đảo. Ngày 14/4/1975, chỉ
sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta giải phóng đảo Song Tử Tây. Sau đó, lần lượt các đảo Sơn
Ca, Nam Yết, Sinh Tồn… đều được giải phóng. Ngày 28/4/1975, đảo An Bang được thu hồi,
hồn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng Trường Sa. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký điện
khen: “Nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược”.


<b>Mở</b> <b>đường</b> <b>làm</b> <b>kinh</b> <b>tế</b> <b>biển</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (giữa) trên một con tàu hải quân tháng 3/1973. <i>Ảnh tư liệu</i>



Về hướng khai thác kinh tế biển, Đại tướng chỉ ra những vấn đề vượt thời gian: “Việc khai
thác dầu khí ngoài biển Việt Nam đã là chuyện trước mắt. Việc sử dụng năng lượng thủy triều
ở bờ biển nước ta cũng phải đặt ra rồi. Độ chênh lệch của thủy triều nước ta chứa đựng một
tiềm năng quan trọng về năng lượng là rất quý. Có thể có những kiểu máy điện thủy triều
được khơng? Các đồng chí vật lý biển phải trả lời vấn đề này, ngành cơ khí phải đi trước một
bước”… “Ngành sinh học biển phải đi sâu, thúc đẩy phương hướng kinh tế này. Cần phải từ
đặc điểm của từng vùng biển có những điều kiện vật lý như nhiệt độ, độ mặn, ánh sáng chiếu
xuống như thế nào, rồi áp suất sóng, thủy động lực, dòng chảy như thế nào, để kết luận xem
những vùng nào nuôi được loại cá nào là thích hợp nhất”…
Trong chỉ đạo phát triển kinh tế biển, ngay từ năm 1977, Đại tướng đã có những chỉ đạo chiến
lược rất sâu sắc: Kinh tế vùng biển phải từ đất liền mà phát triển ra biển và các hải đảo. Đưa
dân ra làm kinh tế biển đảo, vừa cải thiện được đời sống của dân, vừa có lực lượng để thực
hiện quốc phòng toàn dân, để giữ vững chủ quyền biển, đảo.
Năm 1985, trước khi có Đổi mới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đề ra Chiến lược làm chủ
biển với nội dung toàn diện và cụ thể. Cho đến nay, những vấn đề đặt ra trong chiến lược này
vẫn nóng hổi tính thời sự. Chiến lược này là minh chứng lịch sử làm sáng rõ tư duy khoa học
và tầm nhìn chiến lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về biển, đảo Tổ quốc.


</div>

<!--links-->

×