Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tài liệu Đề án "Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.83 KB, 29 trang )









ĐỀ ÁN

Nâng cao chất lượng sản
phẩm để tăng sức cạnh tranh
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

1

Lời mở đầu

Trong tiến trình kinh tế hội nhâp, cạnh tranh cũng như đã và đang gia
nhập các tổ chức quốc tế và khu vực như APEC,AFTA, WTO. Việc nâng cao
chât lượng sản phẩm , hạ thấp giá thành sản xuất nâng cao năng lực cạnh
tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp Việt Nam. Với chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý nhà nước theo
định hướng Xã hộ
i chủ nghĩa trong điều kiện “mở cửa” và “cạnh tranh” đòi
hỏi tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh phải quan tâm đến hai vấn đề cực kỳ
quan trọng đó là: Giá cả và chất lượng sản phẩm, hàng hoá, trong đó chất
lượng sản phẩm như là một yếu tố quyết định. Vậy phải làm thế nào để đảm
bảo và nâng cao chất lượng m
ột cách kinh tế nhất để nâng cao sức cạnh tranh
cho sản phẩm ở các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế hiện nay?


Trong phạm vi giới hạn, cuốn đề án này chỉ xin được đề cập tới việc
nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước. Nhằm làm
sáng tỏ hơn thực trạng và đưa ra một số giải pháp chính nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm
để nâng cao sức cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài,
trong nước cũng như trên thị trường thế giới.
Kết cấu đề tài gồm có 3 phần:
I. Lý luận chung về chất lượng sản phẩm.
II. Phân tích chất lưọng sản phẩm trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức
cạnh tranh của hàng Việt Nam trong thị tr
ường trong nước cũng như thị
trường Thế giới.



Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

2
Phần I
Lý luận chung về chất lượng sản phẩm

I. Tổng quan về chất lượng sản phẩm

1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm
Theo quan điểm triết học của Mác thì chất lượng sản phẩm là mức độ,
thước đo biểu thi giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm
làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng của sản
phẩm.

Theo giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho
rằng: "Chất lượng là sự thoả mãn nhu c
ầu thị trường với chi phí thấp nhất
".(Quản lý chất lượng theo phương pháp Nhật.Kaoru Ixikaoa. NXB KH_KT
1990)
Theo Feigenbaum: "chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ
thuật công nghệ và vận hành của sản phẩm, nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng
được các yêu cầu của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm". (Quản lý chất
lượng đồng bộ. John.S.Oakard NXBTK 1994).
Còn Juran thì định nghĩa chất lượng sả
n phẩm đơn giản, ngắn gọn:
"Chất lượng là sự phù hợp với sử dụng, với công dụng". (Quản lý chất lượng
đồng bộ. John.S.Oakard NXBTK 1994). Phần lớn các chuyên gia về chất
lượng trong nền kinh tế thị trường coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với
nhu cầu hay mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
Theo quan điểm chất lượng hướng theo công nghệ thì: ch
ất lượng sản
phẩm là tổng tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện ở mức độ thoả mãn
những yêu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế,
kỹ thuật, xã hội.
Chất lượng sản phẩm là một hệ thống đặc trưng nội tại của sản phẩm
được xác định bằng nhữ
ng thông số có thể đo được hoặc so sánh được.
Những thông số này lấy ngay trong sản phẩm hoặc giá trị sử dụng của nó.
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

3
Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả
năng thoả mãn được những nhu cầu phù hợp với công dụng của sản phẩm đó.
chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với các tiêu chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ

thuật.
Như quan điểm này chất lượng sản phẩm được quy định bởi đặc tính
nộ
i tại của sản phẩm, không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài. (Quản trị chất
lượng . GS Nguyễn Quang Toản NXBTK 1995)
Phù hợp với công dụng sản phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
5814:1994 thì: "Chất lượng là tập hợp các đặc tính một thực thể (đối tượng)
tạo cho thực thể (đối tượng) có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra
hoặc tiềm ẩn".
Để phát huy mặt tích cự
c và khắc phục những hạn chế của các quan
điểm trên, tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO (Intenational for
Standard Organization) đã đưa ra khái niệm ISO cho rằng: "chất lượng sản
phẩm, dịch vụ là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của sản phẩm, thể
hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định".
(Quản trị chất l
ượng trong doanh nghiệp theo TCVN ISO 9000. PTS Nguyễn
thị Định - NXBTK)
Đây có thể nói là một khái niệm hiện đại về chất lượng sản phẩm, được
chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất.
2. Những chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm

Chất lưọng sản phẩm được đánh giá qua một hệ thống các chỉ tiêu cụ
thể. Những chỉ tiêu chất lượng đó chính là các thông số kinh tế - kỹ thuật và
các đặc tính riêng có của sản phẩm phản ánh tính hữu ích của nó. Những đặc
tính này gồm có:
+ Tính năng tác dụng của sản phẩm
+ Các tính chất cơ, lý, hoá như kích thước, kết cấu, thành phần cấu tạo
+ Các chỉ tiêu thẩ
m mỹ của sản phẩm

+ Tuổi thọ
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

4
+ Độ tin cậy
+ Độ an toàn của sản phẩm
+ Chỉ tiêu gây ô nhiễm môi trường
+ Tính dễ sử dụng
+ Tính dễ vận chuyển, bảo quản
+ Dễ phân phối
+ Dễ sửa chữa
+ Tiết kiệm tiêu hao nguyên liệu, năng lượng
+ Chi phí, giá cả
Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập tách rời mà có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. mỗi loại sản phẩm cụ thể s
ẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và
quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và
quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho sản phẩm của mình mang
sắc thái riêng phân biệt với sản phẩm đồng loại khác trên thị trường. Ngoài ra
các chỉ tiêu an toàn đối với người sử dụng và xã hội, môi trường ngày càng
quan trọng và trở thành bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt là
đối với
những sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và cuộc sống của con
người.
3. Những nhân tố tạo nên chất lượng sản phẩm.

Chất lượng sản phẩm được tạo nên từ nhiều yếu tố, nhiều điều kiện
trong chu kỳ sống của sản phẩm PLC (Product Life Cycle). Nó được hình
thành từ khi xây dựng phương án sản phẩm, thiết kế, lập kế hoạch, chuẩn bị
sản xuất, sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Nói khác đi thì chất lượng sản

phẩm được hình thành trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, hoạt độ
ng
của một doanh nghiệp, một tổ chức do nhiều yếu tố quyết định như
+ Chất lượng máy móc thiết bị sử dụng trong quá trình sản xuất
+ Chất lượng lao động
+ Chất lượng Marketing
+ Chất lượng nguyên vật liệu
+ Chất lượng quản lý
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

5
+ Chất lượng cung ứng...
Như vậy chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm hàng
hoá mà ta vẫn thường nghĩ. Chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể đó là
chất lượng sản phẩm, chất lượn của một hoạt động, chất lượng của một của
một doanh nghiệp...
Từ đó chúng ta thấy rằng chất lượng sả
n phẩm được cấu thành từ rất
nhiều các nhân tố và các nhân tố này đều có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới
chất lượng sản phẩm, chúng ta có thể thấy rõ hơn qua chuỗi giá trị (The value
chain)

Cơ sở hạ tầng của công ty
Nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Cung ứng

Hậu cần
nội bộ




Sản xuất

Hậu cần
bên ngoài

Marketing
và bán
hàng



Dịch vụ

4. Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm

Có hai nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm đó là:
+ Nhóm nhân tố bên trong
+ Nhóm nhân tố bên ngoài
Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhân tố cấu thành chất lượng sản
phẩm và cũng chính những nhân tố này là nhân tố ảnh hương đến chất lượng
sản phẩm và được xếp vào nhóm nhân tố bên trong, ngoài ra cũng còn có
nhóm nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.

4.1. Nhóm nhân tố
bên trong
a. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động của một doanh nghiệp là nhân tố ảnh hưởng có tính

quyết định đến chất lượng sản phẩm. Được thể hiện ở các mặt:
Giá trị
gia tăng
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

6
+ Trình độ chuyên môn và ý thức kỷ luật, tinh thần lao động hiệp
tác của đội ngũ lao động tác động trực tiếp đến khả năng có thẻ tự mình sáng
tạo ra sản phẩm, kỹ thuật công nghệ với chất lượng ngày càng tốt hơn không?
+ Có thể làm chủ được công nghệ ngoại nhập để sản xuất ra sản
phẩm với chất lượng mà kỹ thuật công nghệ quy định hay không?
+ Có khả năng ổn định và nâng cao dần chất lượng sản phẩm với
chi phí kinh doanh chấp nhận được hay không?
b. Khả năng về kỹ thuật công nghệ

Kỹ thuật công nghệ quy định giới hạn tối đa của chất lượng sản phẩm:
kỹ thuật công nghệ nào thì sẽ cho chất lượng sản phẩm tương ứng. Chất lượng
và tính đồng bộ của máy móc thiết bị sản xuất ảnh hưởng đến tính ổn định của
chất lượng sản phẩm do máy móc thiết bị đó sản xuất ra.
c. Nguyên vậ
t liệu và hệ thống tổ chức nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là nhân tố trực tiếp cấu thành sản phẩm, tính chất của
nguyên vật liệu quyết định trực tiếp đến tính chất của sản phẩm. Nên chú ý
rằng không phải là từng loại mà là tính đồng bộ về chất lượng của các nguyên
vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm đều tác động đến tiêu thức
chất lượng sản phẩm. Ngày nay, việc nghiên cứu, phát hiệ
n và chế tạo các
nguyên vật liệu mới ở từng doanh nghiệp dẫn đến những thay đổi quan trọng
về chất lượng sản phẩm.
d. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất.


Đây là nhân tố tác động trực tiếp, liên tục đến chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp. Có thể nói dù có đầy đủ các nhân tố trên nhưng nhà quản lý,
đặc biệt là quản lý sản xuất không tốt sẽ dẫn đến làm giảm hiệu lực của cả ba
nhân tố đã nêu trên, làm gián đoạn sản xuất, giảm chất lượng nguyên vật liệu
và làm giảm thấp tiêu chuẩn chất lượ
ng sản phẩm. Cũng vì có vai trò như vậy
nên tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã tập hợp, tổng kết và tiêu chuẩn
hoá, định hướng những thành tựu và kinh nghiệm quản lý chất lượng ở các
doanh nghiệp thành bộ ISO 9000. ISO 9000 là bộ các tiêu chuẩn về chất
lượng của thế giới trong thập niên cuối thế kỷ 20 với tư tưởng nhất quán là
chất lượng sả
n phẩm do chất lượng quản lý quy định.
Trong thực tiễn quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp nhiều chuyên
gia về quản lý chất lượng cho rằng 80% các vấn đề về chất lượng do khâu
quản lý gây ra.

4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài
a. Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm

Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm là xuất phát điểm của quản lý
chất lượng vì nó là một trong các căn cứ quan trọng để xác định các tiêu thức
chất lượng cụ thể. Cầu về chất lượng sản phẩm cụ thể phụ thuộc vào nhiều
nhân tố trong đó có nhân tố thu nhập của người tiêu dùng: người tiêu dùng có
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

7
thu nhập cao thường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và ngược lại, khi
thu nhập của người tiêu dùng thấp thì họ không mấy nhậy cảm với chất lượng
sản phẩm. Hơn nữa, do tập quán, đặc tính tiêu dùng khác nhau mà người tiêu

dùng ở từng địa phương, từng vùng, từng nước có nhu cầu về chất lượng sản
phẩm khác nhau. Mặt khác, cầu về chất lượng sản phẩm là ph
ạm trù phát triển
theo thời gian.
b. Trình độ phát triển của kỹ thuật công nghệ sản xuất

Nó phản ánh đòi hỏi khách quan về chất lượng sản phẩm. Trong quá
trình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế, cạnh
tranh ngày càng gay gắt và mang tính "quốc tế hoá". Chất lượng là một trong
những nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh, trình độ chất lượng sản
phẩm cũng được "quốc tế hoá" và ngày càng phát triển. Nếu doanh nghiệp
không nghiên cứu kỹ và tính toán nhân tố này, sản ph
ẩm của doanh nghiệp sẽ
bị bất lợi về chất lượng và do đó giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất
lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu
hiện nay ở nước ta là ví dụ điển hình về vấn đề này.
c. Cơ chế quản lý kinh tế

Đây là một nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ đến phạm trù chất
lượng sản phẩm. Cơ chế kế hoạch hoá tập chung quy địmh tính thống nhất
của chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện đó, chất lượng sản phẩm hầu như
chỉ phản ánh đặc trưng kinh tế - kỹ thuật của sản xuất mà không chú ý đến
cầu và nhu cầu c
ủa người tiêu dùng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, cạnh
tranh là nền tảng, chất lượng sản phẩm không còn là phạm trù của riêng nhà
sản xuất mà là phạm trù phản ánh cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản
phẩm không phải là phạm trù bất biến mà thay đổi theo những nhóm người
tiêu dùng và thời gian. Với cơ chế đóng, chất lượng sản phẩm là một phạm trù
chỉ gắn liền v
ới các điều kiện kinh tế kỹ thuật của một nước, ít và hầu như

không chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật thuộc phạm vi quốc
tế. Do đó, yếu tố sức ỳ của phạm trù chất lượng thường lớn, chất lượng chậm
được thay đổi. Cơ chế kinh tế mở, hội nhập chất lượng là một trong nhữ
ng
nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh quốc tế. Vì vậy đòi hỏi chất
lượng sản phẩm mang tính "quốc tế hoá" .
d. Vai trò quản lý kinh tế vĩ mô

Trong cơ chế kinh tế thị trường hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước
trước hết là hoạt động xác lập các cơ chế phấp lý cần thiết vế chất lượng sản
phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá quy
định các vấn đề pháp lý liên quan đến cơ quan quản lý chất lượng ban hành và
áp dụng tiêu chuẩn, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh và
quyền của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, hoạt động
quản lý vĩ mô cũng không kém phần quan trọng là kiểm tra, kiểm soát tính
trung thực của người sản xuât trong việc sản xuất các sản phẩm theo tiêu
chuẩn chất lượng đã đăng ký, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.Với nhiệm vụ
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

8
đó quản lý vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định chất
lượng sản phẩm phù hợp hợp với lợi ích người tiêu dùng, của xã hội.
II. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm

1. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội

Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội, công nghệ tổng
hợp luôn thay đổi theo thời gian và khôn gian phụ thuộc chặt chẽ vào môi
trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ.
2. Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu có thể đo lường


Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt
bên trong của bản thân sản phẩm đó. Những đặc tính đó phản ánh tính khách
quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm
đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn và trình độ thiết kế quy
định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị
các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất
định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng phải đánh giá
thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể. Đặc điểm này khẳng định
những sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu không thể đo
lường, đánh giá được.
Nói đến chất lượng sản phẩm phải xem xét sản phẩm đó tho
ả mãn tới
mức độ nào nhu cầu của khách hàng. mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào
chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm. ở
các nước tư bản, qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm
đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thu
ộc vào
giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có
5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng.
3. Chất lượng sản phẩm mang tính dân tộc

Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống
tiêu dùng. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng
khác nhau. Mỗi sản phẩm có thể được xem là tốt ở nơi này nhưng lại được coi
là không tốt ở nơi khác. Trong kinh doanh không thể có một chất lượng như
nhau ở tất cả các vùng mà phải cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để
đề ra các
phương án về chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi
mặt với yêu cầu của khách hàng. Chất lượng biểu thị ở hai cấp độ và phản ánh

hai mặt khách quan và chủ quan hay nói cách khác còn gọi là hai loại chất
lượng:
+ Chất lượng trong tuân thủ thiết kế: thể hiện ở mức độ sản phẩm đạt
được so với tiêu chuẩn thiết kế
đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc
tính kinh tế kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượn càng cao,
được phản ánh thôn qua các chỉ tiêu như:
* Tỷ lệ phế phẩm
* Sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà

9
Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính bản chất khách quan cuẩ
sản phẩm do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tanh và chi phí.
+ Chất lượng trong sự phù hợp: nó phản ánh mức phù hợp của sản
phẩm với nhu cầu khách hàng.Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của
sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù
hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào
mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng vì vậy nó tác động
mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm.
III. Các loại chất lượng sản phẩm

Để hiểu đầy đủ và có những biện pháp không ngừng nâng cao chất
lượng sản phẩm, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng
sản phẩm. Theo hệ thống chất lượng ISO_9000 người ta phân các loại chất
lượng sau
- Chất lượng thiết kế: là giá trị riêng của các thuộc tính được phác thảo
ra trên cơ sở nghiên cứu trắc nghiệm của sản xuất và tiêu dùng. Đồ
ng thời có
so sánh với các hàng tương tự của nhiều nước. Chất lượng thiết kế được hình

thành ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành chất lượng sản phẩm.
- Chất lượng tiêu chuẩn: là giá trị riêng của những thuộc tính của sản
phẩm được thừa nhận, phê chuẩn trong quản lý chất lượng sản phẩm. Chất
lượn sản phẩm là nội dung tiêu chuẩn một loạ
i hàng hoá. Chất lượng tiêu
chuẩn có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiên nghiêm chỉnh trong quá trình
quản lý chất lượng. Chất lượng tiêu chuẩn có nhiều loại:
+ Tiêu chuẩn quốc tế là những tiêu chuẩn do tổ chức chất lượng quốc tế
đề ra được các nước chấp nhận và xem xét áp dụng cho phù hợp với điều kiện
từng nước.
+ Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) là tiêu chuẩn nhà nước, được xây
dựng trên c
ơ sở nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, kinh
nghiệm tiêu biểu và tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
Việt Nam.
+ Tiêu chuẩn nghành (TCN) là các chỉ tiêu về chất lượng do các bộ, các
tổng cục xét duyệt và ban hành, có hiệu lực đối với tất cả các đơn vị trong
nghành địa phương đó.
+ Tiêu chuẩn doanh nghiệp (TCDN) là các chỉ tiêu về chất lượ
ng do
doanh nghiệp tự nghiên cứu và áp dụng trong doanh nghiệp mình cho phù hợp
với điều kiện riêng của doanh nghiệp đó.
- Chất lượng thực tế: chỉ mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
sản phẩm, bao gồm chất lượng thực tế trong sản xuất và chất lượng thực tế
trong tiêu dùng.
- Chất lượng cho phép: là dung sai cho phép giữa chất lượng thực tế với
chất lượng tiêu chuẩn. Chất lượng cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật
của từng nước, phụ thuộc vào trình độ lành nghề của công nhân. Khi chất
Nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh – Trần Mạnh Hà


10
lượng thực tế của sản phẩm vượt quá dung sai cho phép thì hàng hoá sẽ trở
thành hàng hoá phế phẩm.
- Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng thoả mãn toàn diện nhu cầu của
thị trường trong những điều kiện xác định với chi phí xã hội thấp nhất.
Thường người ta phải giải quyết mối quan hệ chi phí và chất lượng sao cho
chi phí thấp mà chất lượng vẫn đả
m bảo có như vậy doanh nghiệp mới có lợi
thế cạnh tranh và tăng được sức cạnh tranh.
VI. Tầm quan trọng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm

1. Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm

Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ và thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối
với các doanh nghiệp. Hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của
quy luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách mạnh nhất,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu c
ầu thị trường cả về mặt không
gian, thời gian, số lượng, chất lượng .
Thế mạnh của kinh tế thị trường là hàng hoá phong phú đa dạng, cạnh
tranh gay gắt, người tiêu dùng được các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả
năng mua của họ. Trong doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn là một
trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng trên thị trường
Chất lượ
ng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các chiến lược
Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh
nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường.Từ đó làm cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển lâu bền của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ ph


thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất, chất lượng mà còn được tạo
thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị, lao động
trong quá trình sản xuất và không sản xuất ra các phế phẩm. Nâng cao chất
lượng chính là điều kiẹn để đạt được sự tiết kiệm đó. Nhờ tăng chất lượng sản
ph
ẩm dẫn đế tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi
phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm ô
nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con
đường ngắn nhất và tốt nhất đem lại hiệu quả kinh tế .
Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được m
ục
tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh
nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến bộ
sản xuất, tổ chức lao động trong một doanh nghiệp nói riêng cũng như trên
phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được lợi nhuận thì có
điều kiện để bảo đảm việc làm cho ngườ
i lao động, tăng thu nhập cho họ và
làm cho tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, góp hết công sức để sản xuất
những sản phẩm có chất lượng tốt giúp doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả
hơn.

×