Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sưu tầm, dịch thuật, phân loại và đánh giá tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.87 KB, 6 trang )

KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

SƯU TẦM, DỊCH THUẬT, PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ TƯ
LIỆU HÁN NÔM Ở QUẢNG NGÃI.
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Đăng Vũ
Cơ quan chủ trì: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi
Năm nghiệm thu: 2019
I. LỜI MỞ ĐẦU
Quảng Ngãi là một vùng đất có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Cùng với
sự hình thành vùng đất, kể từ khi người Việt đến định cư, cách đây 500 - 600 năm, tư liệu
Hán Nơm với các hình thức tồn tại của chúng, đã đồng hành cùng người Việt đến khai cơ,
lập nghiệp.
Việc sưu tầm, dịch thuật, phân loại, đánh giá di sản Hán Nơm ở Quảng Ngãi khơng chỉ
là để gìn giữ, lưu trữ, mà còn để hiểu biết về lịch sử dựng nước, giữ nước, để bảo tồn các
giá trị, để thừa hưởng tri thức của các bậc tiền nhân, nhằm vận dụng trong công cuộc xây
dựng quê hương, đất nước hiện nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa con
người Quảng Ngãi trong q trình hội nhập.
Hiện nay, tỉnh đang xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận Công viên địa chất Lý
Sơn - Sa Huỳnh là Cơng viên địa chất tồn cầu, việc sưu tầm, nghiên cứu, sẽ góp phần quan
trọng trong việc bổ sung tư liệu trong hồ sơ, để chứng minh với Hội đồng Mạng lưới Cơng
viên đia chất tồn cầu về chiều sâu lịch sử của vùng đất Quảng Ngãi, về một di sản văn hóa
lớn lao cịn ẩn tàng trong công viên Lý Sơn - Sa Huỳnh cần được bảo tồn, phát huy giá trị,
phục vụ phát triển du lịch nói riêng, kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ngãi nói chung.
II. MỤC TIÊU
Sưu tầm, dịch thuật, phân loại và đánh giá các tư liệu Hán Nơm cịn tản mác ở các địa
phương trong tỉnh, trên cơ sở đó đề ra giải pháp bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị tư liệu
Hán Nôm tại Quảng Ngãi.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Tổng quan về các loại hình di sản hán nơm tìm thấy ở Quảng Ngãi
Đề tài đã tiến hành điền dã để sưu tầm, thu thập tài liệu Hán Nơm trên địa bàn tỉnh, với
phương pháp chính là ghi chép, chụp ảnh, quay phim, photocopy. Sau khi thu thập được tư


liệu, đã tiến hành lựa chọn tài liệu có giá trị để dịch thuật. Số lượng tài liệu sưu tầm ước tính
khoảng 20.000 trang. Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt như: thời gian, kinh phí, đội ngũ,
khả năng dịch thuật, nên đề tài mới chỉ tuyển chọn hơn 1.000 trang tư liệu Hán Nôm để dịch,
bao gồm các loại hình: hồnh phi, câu đối, sắc phong, chế phong, cáo thị, bằng cấp, đơn từ,
văn bia, hương ước, khế ước, v.v... trên các chất liệu giấy, gỗ, đá và kim loại, mà chủ yếu là
trên chất liệu giấy dó. Về hồnh phi, liễn đối, hiện nay hầu hết các đền, đình, miếu, chùa, nhà
thờ các tộc họ đều có hồnh phi, liễn đối, biển ngạch. Địa phương có số lượng hồnh phi liễn
đối nhiều nhất là huyện Lý Sơn. Mặc dầu diện tích chỉ hơn 10km2, nhưng Lý Sơn cịn đến
hàng trăm di tích cổ xưa, bao gồm các nhà thờ tộc họ. Trong đó Âm Linh tự là di tích cịn
nhiều hồnh phi, liễn đối nhất so với các di tích khác ở Lý Sơn cũng như ở tỉnh Quảng Ngãi.
306

LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

2. Các loại hình di sản hán nơm ở Quảng Ngãi
Về loại hình, di sản Hán Nơm tìm thấy trong địa bàn tỉnh bao gồm các loại hình: Sắc
phong, chế phong, chiếu, chỉ, dụ, bằng cấp, đơn từ, khế ước, địa bạ, điền bạ, sổ đinh, hương
ước, văn bia, gia phả, hoành phi, câu đối, mộc bản... (chưa kể sách thuốc, thơ văn, sách
cúng...). Đề tài chỉ tập trung giới thiệu một số loại hình tiêu biểu:
Về sắc phong, có nhiều loại sắc phong ban cho các quan chức trấn nhậm ở địa phương,
cho hằng trăm làng xã thờ phụng các thiên thần, nhiên thần, thủy thần, nhưng nhiều nhất là
các nhân thần - là những người có cơng lớn trung buổi đầu khai phá đất đai, mở rộng cương
vực lãnh thổ, như Bùi Tá Hán, Mai Đình Dõng, Lương Văn Chánh..., hoặc những người có
cơng trong việc tổ chức dân binh khai phá tại các làng xã. Đây là điểm khác biệt sắc phong
ở Quảng Ngãi so với sắc phong các địa phương khác trong cả nước. Qua việc chú trọng ban
sắc phong chó các cơng thần, chứng tỏ các triều đại chú trọng vinh danh các bậc tiền nhân,
thể hiện đạo lý uống nước nhờ nguồn, tạo ra sự kết kết cộng đồng, mặt khác, còn xác lập

quyền lực của nhà nước phong kiến Việt Nam ở mảnh đất phía Nam, và nhờ đó, góp phần
quan trọng trong việc mở rộng cương vực lãnh thổ. Hay có thể nói sâu xa hơn: Thần Việt ở
đâu thì đất Việt ở đó.
Về chế phong, chỉ, dụ, các loại bằng cấp còn lại trong tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu có niên
đại thời Nguyễn, nằm rải rác các nơi, liên quan đến các danh thần là người Quảng Ngãi, như
Trần Công Hiến, Trương Đăng Quế, Nguyễn Bá Nghi, Đỗ Đăng Đệ..., trong đó có một số
liên quan đến các cai đội, chánh thủy quân đội trưởng đi Hoàng Sa hoặc tuần phòng canh
giữ vùng biển đảo. Trong thể loại này, các có những bản Thị tỷ được ban rất sớm, ngay từ
thời Quang Hưng (cuối thế kỷ thứ 16), như Thị tỷ ban cho Trần Cẩm, mà sau khi so sánh
với các địa phương khác, như ở Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Bình Định..., thì các Thị tỷ
này có niên đại sớm nhất, và cũng là văn bản cổ nhất được tìm thấy ở vùng đất dọc dải miền
Trung này.
Về hồnh phi, câu đối, chủ yếu cịn lại tại các cơ sở thờ thờ tự, như đình, chùa, đền,
miếu, nghĩa từ, nhà thờ họ. Hoành phi, câu đối khơng chỉ là vật trang trí mà cịn chứa đựng
những ước vọng của tiền nhân hoặc ca ngợi cảnh đẹp quê hương, xứ sở, phát huy truyền
thống, đề cao đạo đức, khuyên dạy con cháu...
Về gia phả, nhiều bộ gia phả tìm thấy cịn khá ngun vẹn, dày đến vài trăm trang, như
Trương tộc thế phả ở làng Mỹ Khê, ghi chép khá chi tiết từng tiểu sử các danh thần, như
Trương Đăng Quế, Trương Quang Đản, Trương Văn Để... Mặc dầu, gia phả chỉ lưu truyền
trong dòng họ, nhưng có thể giúp chúng ta hiểu biết về lịch sử hình hành cư dân và các làng
xã qua các thời đại, nguồn gốc xuất thân các danh thần, các nhân vật lịch sử, mơi trường xã
hội hình thành các tài năng. Gia phả Hán Nôm trên địa bàn tỉnh, chủ yếu được biên soạn
dưới thời Bảo Đại.
Về văn bia, văn bia Hán Nơm cịn lại trong tỉnh Quảng Ngãi có niên đại từ thế kỷ 18
đến thế kỷ thứ 20, bao gồm các loại văn bia tại các mộ chí, từ đường, chùa, đền, miếu, đình,
hội quán, đập thủy lợi, văn từ, chủ yếu bằng chất liệu đá. Tiêu biểu nhất là các văn bia tại
mộ và nhà thờ họ Trương làng Mỹ Khê. Văn bia Hán Nôm trong tỉnh Quảng Ngãi phản ánh
nhiều vấn đề của xã hội đương thời, như phát triển kinh tế, giao thương; ghi tiểu sử, hành
trạng, công đức của các bậc tiền nhân; việc đóng góp xây dựng chùa, đình, đền, miếu; truyền
LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


307


KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

thống hiếu học, khoa cử...
Về các văn bản đất đai, có các loại: địa bạ, điền bạ, khế ước, đơn từ... Trong số gần 500
văn bản đất đai bằng chữ Hán mà chúng tơi đã tìm thấy, có những văn bản đất đai được lập
từ thời Hoằng Định, Vĩnh Hựu và muộn nhất là những năm 70 của thế kỷ thứ 20. Riêng về
địa bạ, có địa bạ làng Chánh Lộ là địa bạ còn lại đặc biệt quý hiếm, dày đến đến hàng nghìn
trang, ghi chép kỹ lưỡng từng thửa đất của từng ấp, từng dòng họ sinh sống tại đây từ trước
cho đến năm 1932 và địa bạ Cù Lao Ré lập năm Giáp Dần (1734) - là địa bạ cổ nhất mà
chúng tơi tìm thấy được. Ngồi ra, cịn có văn bản bán đứt 3 thửa đất ở Lý Sơn để lấy tiền
cho binh phu Lý Sơn, phối hợp cùng thủy quân đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa thời Gia Long.
Địa bạ, điền bạ, các văn bản đất đai khác là loại tài liệu đặc biệt quý giá, giúp cho chúng ta
nhận diện lịch sử khai phá đất đai, việc quản lý đất đai cũng như tài nguyên đất nước trong
suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ; hiểu biết thêm về lịch sử hình thành làng xã, về các địa
danh và sự thay đổi các địa danh ở các địa phương; về sự tồn vong và không ngừng phát triển
của quốc gia, dân tộc; về công lao to lớn của nhiều thế hệ.
Về văn tế, văn tế Hán Nơm cịn lại trên địa bàn tỉnh còn lại tương đối phong phú, phản
ánh chân thực đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ở các làng xã. Nhiều bài
văn tế khơng chỉ riêng về thiên thần, nhiên thần, mà cịn có cả các nhân thần trong cùng bài
văn tế, thể hiện sự tri ân, tơn vinh những người có cơng lao với quê hương, đất nước, với
vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
3. Nhận diện một số giá trị cơ bản
Di sản Hán Nơm cịn lưu giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chứa đựng nhiều hệ giá trị.
Về lịch sử, những tư liệu Hán Nơm tìm thấy được trong những năm qua góp phần quan
trọng trong việc bổ sung vào chính sử, trong đó nổi bật là phản ánh khá trung thực những
con người một thời đi dựng nước, giữ nước, trong buổi đầu khai phá đầy khó khăn, gian khổ,

mà tên tuổi, sự nghiệp, công lao của nhiều người chưa được sử sách đề cập đầy đủ, hoặc
chưa từng được đề cập, chưa từng được vinh danh. Tư liệu Hán Nơm tìm thấy cịn góp phần
làm sáng rõ thêm hành trạng, sự nghiệp, nhân cách của những danh thần triều Nguyễn, mà
trong các bộ chính sử đã từng ghi chép, nhưng chưa đầy đủ.
Trong hàng nghìn trang tư liệu tìm thấy cũng phản ánh trung thực những chặng đường
phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm quá trình khai hoang, vỡ hóa, việc ổn định đời sống nhân
dân trong nhiều thời kỳ lịch sử, chính sách ruộng đất cơng, ruộng đất tư; thuế khóa, như thuế
đinh, thuế điền, thuế biệt nạp, thuế dung; việc giao thương trên biển vốn từng thịnh hành,
sầm uất ở vùng ven biển Quảng Ngãi, đặc biệt là tại cửa biển Sa Kỳ, Cổ Lũy...
Cùng với lịch sử hình thành vùng đất, tư liệu Hán Nơm cịn phản ảnh chiều sâu cội
nguồn văn hóa dân tộc, về tín ngưỡng, phong tục, tập qn, đạo lý "uống nước nhớ nguồn",
nhất là qua hương ước của các làng xã; phản ánh những thay đổi về hành chính và việc quản
lý hành chính tại địa phương qua nhiều thời kỳ lịch sử; góp phần nhận diện chính sách vỗ
yên dân chúng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của các triều đại, bao gồm chính sách đối với dân
tộc thiểu số, chính sách đối với biên cương, sự quản lý người Hoa, việc khẳng định và bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ trên vùng biển đảo...
4. Thực trạng và giải pháp bảo tồn
308

LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

4.1. Thực trạng
Ở Quảng Ngãi, nguồn tư liệu Hán Nơm cịn lại khá nhiều, phong phú và đa dạng từ
hình thức thể hiện đến nội dung, bao gồm sắc phong thần cho các đình làng, thiên thần, nhân
thần, điền bạ, địa bạ, gia phả, văn tế, văn cúng, di chúc, thơ văn, văn bia, mộc bản, hoành
phi liễn đối… thể hiện trên các chất liệu khác nhau như đá, đồng, vải, gỗ, giấy… đã phản
ánh rõ nét tư duy khoa học, văn học nghệ thuật, tổ chức làng xã cũng như sinh hoạt xã hội,

văn hóa, tín ngưỡng của các bậc tiền nhân.
Là di sản văn hóa cổ xưa, một số tư liệu Hán Nơm rất có giá trị, tuy nhiên cơng tác lưu
trữ gặp rất nhiều khó khăn. Ngồi những tư liệu Hán Nơm được khắc trên các chất liệu cứng
thì những tư liệu cịn lại đa số được viết trên giấy, vải, được xếp cẩn thận vào tráp rồi khóa
lại, để trên bàn thờ, đến ngày kỵ mới được mở ra… Do đó, nếu khơng có biện pháp tiếp cận,
bảo tồn thì nhiều tư liệu Hán Nơm có giá trị ở Quảng Ngãi có nguy cơ biến mất.
Cùng với việc nguy cơ biến mất vì thời gian và sự hờ hững của con người, thì mặt khác,
do chủ quan, hoặc thiếu hiểu biết, hoặc cố tình gán ghép tư liệu của dịng họ này sang dòng
họ khác để làm nâng cao vị thế của dịng họ, hay để được các cấp chính quyền xếp hạng di
tích. Trường hợp này, tuy khơng phổ biến, nhưng khơng phải là khơng có.
4.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi
Để bảo tồn và phát huy giá trị tài liệu Hán Nôm tại Quảng Ngãi đạt hiệu quả, cũng như
khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong việc tổ chức khai thác, sử dụng vốn tài liệu này,
đề tài đề xuất một số giải pháp sau:
4.2.1. Sưu tầm tư liệu Hán Nôm trên diện rộng
Trước tiên cần tiến hành công tác sưu tầm ngắn và dài hạn các tư liệu Hán Nôm lưu giữ
tại các làng xã. Vận động, thuyết phục nhân dân chuyển giao những tư liệu Hán Nôm về lưu
giữ tại bảo tàng để tránh tình trạng hư hỏng, mất mát. Xây dựng kế hoạch bảo quản tài liệu,
hiện vật, tranh thủ các nguồn kinh phí để bảo quản lưu giữ lâu dài. Trước đây, việc sưu tầm
chủ yếu do thôi thúc của một nhu cầu nào đó, của một cá nhân nào đó, nay việc sưu tầm tư
liệu Hán Nôm phải được tiến hành trên một diện rộng để những văn bản có giá trị khơng bị
bỏ sót.
Đi đơi với việc sưu tầm tư liệu Hán Nơm trong dân gian, các cơ quan có chức năng bảo
tồn cần có nguồn tài chính nhất định để mua các văn bản gốc hoặc nhân bản, sao chép lại
để bảo quản lâu dài. Cần biên dịch toàn bộ tư liệu Hán Nôm đã sưu tầm ra chữ Quốc ngữ để
phục vụ đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là giới trẻ.
4.2.2. Dịch thuật và chú giải tư liệu Hán Nơm
Các nhà nghiên cứu cần có kế hoạch lựa chọn dịch các tài liệu Hán Nôm sang tiếng
Việt và xuất bản công bố đến người đọc. Đây là một giải pháp thiết thực nhằm phá vỡ rào
cản về mặt ngôn ngữ - một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác và sử

dụng tư liệu Hán Nôm của người đọc, giúp cho họ có thể dễ dàng tiếp cận được nội dung
bên trong của tài liệu. Mặc dù, đây là một giải pháp tốn kém kinh phí cho việc cộng tác với
các chuyên gia về Hán Nôm trong việc dịch thuật, chỉnh lý… nhưng hiệu quả của nó mang
lại thì rất cao và mang tính chất lâu dài.
4.2.3. Thống kê, phân loại các di sản Hán Nôm
LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN

309


KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Việc thống kê tư liệu Hán Nôm nhằm mục đích cung cấp bức tranh chung đối với tư
liệu Hán Nôm.
Phân loại cũng là một yêu cầu trong việc khai thác, phát huy nguồn tư liệu Hán Nôm.
Tùy theo mục đích, người ta có thể lựa chọn một hay nhiều cách phân loại khác nhau, vấn
đề quan trọng nhất của phân loại chính là giúp cho người đọc tiếp cận một cách dễ dàng và
giúp các nhà nghiên cứu đánh giá chính xác giá trị của chúng.
4.2.4. Đánh giá tư liệu Hán Nôm
Sau khi phân loại, công việc cuối cùng là đánh giá giá trị tư liệu Hán Nôm. Nội dung
đánh giá tư liệu Hán Nôm gồm đánh giá tổng thể và đánh giá với từng bộ phận, trong đó có
các đầu tư liệu Hán Nơm.
Tất cả những công việc như trên tùy thuộc vào nhau và chất lượng của khâu trước sẽ là
tiền đề của khâu sau. Do vậy trong các công việc hay các khâu như trên, không thể coi nhẹ
công việc nào, khâu nào.
4.2.5. Một số phương pháp bảo quản tư liệu Hán Nôm
a, Bảo quản bằng phương pháp truyền thống
Bản dập bia và bản đồ, do phong phú về kích cỡ nên phương thức bảo quản cũng đa
dạng hơn. Loại có kích cỡ vừa phải, có thể bảo quản bằng bìa free-acid để trong tủ (thép
khơng rỉ) có nhiều ngăn, giữ cho bìa và bản đồ vừa phẳng vừa dễ sử dụng. Văn bia ngoại cỡ

phải để trong các bao chứa lớn, đặt trên mặt bàn phẳng hoặc cuộn lại để trong các ống nhựa
trịn có đường kính lớn.
Đối với các nguồn tư liệu Hán Nơm khơng phải chất liệu giấy, ví dụ như ván gỗ, phải
được xếp trên giá và bảo quản trong một mơi trường có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp, vệ sinh
kho thường xuyên, giúp hạn chế việc tấn công của côn trùng đối với hiện vật.
b, Bảo quản bằng phương pháp hiện đại
- Bảo quản bằng phương pháp số hóa
- Bảo quản bằng hệ thống điều hồ trung tâm
- Bảo quản bằng Microfilm
Ngồi ra, tư liệu Hán Nơm sau khi được số hóa cần được lưu trữ trên nhiều phương
tiện và để ở nhiều vị trí khác nhau, như lưu trên các đĩa CD-ROM, ổ cứng riêng biệt có dung
lượng lớn, ổ cứng của máy chủ…
4.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về giá trị nguồn tư liệu
Hán Nôm
Đây là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị tư liệu Hán Nơm. Vì vậy, cần chủ động và đa dạng hóa các hình thức, phương thức tuyên
truyền, giới thiệu thành phần, nội dung, giá trị nguồn tư liệu Hán Nôm ở Quảng Ngãi thông
qua các hình thức như: Triển lãm, trưng bày tài liệu; Cơng bố, giới thiệu tài liệu trên các
phương tiện thông tin đại; Các bài viết công bố, giới thiệu sách Hán Nơm có thể dưới dạng
giới thiệu một nhóm tài liệu về một chủ đề, sự kiện, hoặc một nhân vật… Ngồi ra, các thư
viện, bảo tàng cũng có thể phối hợp với các cơ quan báo đài xây dựng các phóng sự, phim
tài liệu giới thiệu tư liệu Hán Nơm để đông đảo công chúng biết đến một cách rộng rãi.
4.2.7. Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức khai thác, sử dụng tư liệu Hán Nôm tại
310

LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN


KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020


các thư viện
Các thư viện ở địa phương sau khi tiếp nhận nguồn tư liệu Hán Nôm đã được số hóa
cần nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức khai thác, sử dụng khác nhau để giúp người đọc
có thể dễ dàng và thuận tiện trong việc tiếp cận, khai thác tư liệu.
4.2.8. Nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của tài liệu Hán Nôm
Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến công tác lưu trữ, bảo tồn,
khai thác, phát huy giá trị tài liệu Hán Nôm, cũng như vai trò, ý nghĩa, các giá trị về mặt lịch
sử, văn hố, xã hội của tư liệu Hán Nơm trong các lĩnh vực đời sống xã hội cho nhân dân.
Mặt khác, cần đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa trong các tầng lớp nhân dân, đồng thời
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến di
sản Hán Nôm, đặc biệt đối với các đề tài có tính chất chun sâu về các nhân vật nổi tiếng,
có cơng trạng với quốc gia – dân tộc, về lịch sử - văn hóa, an ninh – quốc phịng gắn liền với
di sản văn hóa Hán Nơm ở Quảng Ngãi.
4.2.9. Có chính sách đào tạo, khuyến khích đội ngũ làm cơng tác quản lý, nghiên cứu,
sưu tầm tư liệu Hán Nôm
Để bảo tồn và phát huy giá trị tư liệu Hán Nôm, tỉnh Quảng Ngãi cần có chính sách đào
tạo, khuyến khích đội ngũ làm cơng tác quản lý, nghiên cứu, sưu tầm tư liệu Hán Nôm. Đặc
biệt, đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn – bảo tàng phải được đào tạo, trang bị kiến thức
Hán Nơm ở một trình độ nhất định, để khi tiếp cận loại hình di sản này ít nhất phải đọc được
những nội dung cơ bản, biết được giá trị của nguồn tư liệu.
4.2.10. Tìm hiểu, nghiên cứu cách thức phát huy giá trị tài liệu lưu trữ của một số nước
trên thế giới để áp dụng vào công tác phát huy giá trị tư liệu Hán Nôm
Việc tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu các chính sách, hình thức phát huy giá trị tư liệu
lưu trữ ở các nước phát triển giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và rút ra được những kinh
nghiệm trong việc xây dựng chính sách, kế hoạch tổ chức phát huy giá trị tài liệu lưu trữ nói
chung, và tài liệu Hán Nơm nói riêng.
4.2.11. Hợp tác, chia sẻ nguồn tư liệu Hán Nôm
Việc hợp tác chia sẻ giữa các địa phương, bảo tàng, thư viện vừa giúp tiết kiệm chi phí,
vừa đa dạng hình thức khai thác nguồn tư liệu Hán Nơm và hơn hết là có thể phổ biến rộng
rãi, đầy đủ giá trị, thành phần, nội dung tư liệu Hán Nơm đến với người đọc, giúp người đọc

có thể tiếp cận, khai thác và sử dụng tài liệu một cách nhanh chóng, dễ dàng, thoả mãn tối
đa nhu cầu thơng tin của họ.
IV. KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu cũng đã thấy phần nào di sản Hán Nơm cịn tản mác trong
tỉnh Quảng Ngãi khá lớn, hầu như đầy đủ các loại hình, chứa đựng nhiều giá trị, góp phần
rất quan trọng trong việc tìm hiểu đất nước, con người Quảng Ngãi nói riêng, vùng đất phía
Nam nói chung trong diễn trình lịch sử dân tộc; bổ sung cho chính sử, cho những cơng trình
nghiên cứu của những người đi trước. Trong quá trình sưu tầm tài liệu, đề tài cũng tìm thấy
một số tài liệu có niên đại rất sớm, mà trong số đó, có những tài liệu có thể có niên đại sớm
nhất so với các tỉnh ở phía Nam

LĨNH VỰC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN

311



×