Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Luận văn xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã lam sơn, huyện ngọc lặc, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.82 KB, 91 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
Ở XÃ LAM SƠN, HUYỆN NGỌC LẶC,
TỈNH THANH HĨA
Khóa luận tốt nghiệp ngành Người hướng
dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên

QUẢN LÝ VĂN HÓA TS. NGUYỄN
TUỆ CHI TRẦN THỊ HUỆ
1405QLVA015
: 2014-2018
: ĐH QLVH 14A

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài khóa luận của mình, em xin tỏ lịng biết ơn đến các thầy
cơ giáo trong khoa Văn hóa - Thơng tin và Xã hội và các thầy cô giáo trong trường
Đại học Nội Vụ Hà Nội đã hết lịng tận tình chỉ dạy, truyền đạt kiến thức cho em
trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt em xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Tuệ Chi,
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em hồn thành bài khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh
Hóa cùng các cán bộ tại xã đã tạo điều kiện giúp đỡ em hồn thành bài khóa luận.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt
q trình hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Do hạn chế về thời gian, kiến thức, kinh nghiệm chắc chắn trong q trình
thực hiện bài khóa luận khơng thể tránh khỏi những sai sót em rất mong nhận được


sự góp ý giúp đỡ của q thầy cơ.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Huệ


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là bài khố luận của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được cơng bố trong các cơng trình
khác. Nếu khơng đúng như đã nêu trên, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về
đề tài của mình.
Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Huệ


STT

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Nghĩa

1

UBND

Ủy ban nhân dân


2

BVHTT&DL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

3

SVHTT&DL

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

4

NTM

Nông thôn mới


MỤC LỤC

PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, sự hội
nhập của thời đại thì văn hóa được xem là nhân tố quan trọng quyết định sự
bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Văn hóa chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt

toàn bộ lịch sử của dân tộc, là linh hồn của dân tộc, của thời đại, là màu sắc tạo
nên chất riêng của mỗi dân tộc.
Việt Nam là nước có nền văn hóa lâu đời, cùng với q trình dựng nước
và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam đã được hình thành và phát triển. Với một
nền văn hóa được kết tinh từ sức mạnh của dân tộc đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược, in đậm dấu ấn lịch sử. Trải qua từng giai đoạn phát triển của đất nước,
văn hóa đã thấm sâu vào đời sống xã hội của từng cá nhân, gia đình và toàn
cộng đồng. Làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân; góp phần xây
dựng con người phát triển tồn diện về trí tuệ, nhân cách, tình cảm, lối sống,
hướng tới sự phát triển xã hội.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 của Đảng đã nêu
rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần cho xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, với nhiệm vụ “Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Chính vì vậy, để văn
hóa có thể đi vào mọi lĩnh vực trong đời sống của nhân dân thì việc xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở đang là nhiệm vụ và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển hết
sức quan trọng.
Đời sống văn hóa cơ sở được xem là bộ phận cấu thành quan trọng trong
tồn bộ nền văn hóa. Là nơi khởi nguồn của sáng tạo, đồng thời là nơi hưởng
thụ các giá trị văn hóa của nhân dân, nơi bảo tồn và phát huy mạnh mẽ tính đa
dạng và phong phú của văn hóa dân tộc. Việc xây dựng đời sống văn hóa từ
cấp cơ sở được xem là bước đi ban đầu, tạo nền móng vững chắc nhằm phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
6


dân tộc. Thông qua hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở mà các quan
điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mới đến được
nhân dân, được nhân dân thực hiện.
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng trong việc xây dựng đời sống

văn hoá cơ sở, trong những năm qua xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh
Hóa đã chú trọng đến hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân. Q
trình xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Lam Sơn trong những năm qua đã
thu được nhiều thành tựu lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển đời
sống văn hóa vật chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên do vẫn còn tồn tại
một số hạn chế dẫn đến các kết quả trong công tác xây dựng đời sống văn hóa
chưa thực sự thành cơng. Việc thực hiện chủ trương của Đảng trong các cán bộ
chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập.
Là người con sinh ra trên mảnh đất Thanh Hóa, chứng kiến bao đổi thay
đang diễn ra từng ngày trong cuộc sống của người dân xã Lam Sơn, huyện
Ngọc Lặc. Hơn nữa, bản thân là sinh viên hiện đang theo học chuyên ngành
Quản lý văn hóa, được trang bị những kiến thức và hiểu được giá trị cũng như
tầm quan trọng của công cuộc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay. Nhận
thấy được việc tìm hiểu cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở giúp bản
thân có thêm nhiều kiến thức bổ ích khơng chỉ phục vụ cho học tập mà cịn
phục vụ cho cơng việc sau này và cũng hiểu rõ hơn về quê hương mình.
Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là
vơ cùng quan trọng, do đó tơi lựa chọn vấn đề: “Xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở ở xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa” làm khóa luận tốt
nghiệp đại học cho mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nước ta được Đảng và Nhà
nước quan tâm, nhất là trong các kỳ đại hội, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở ln là đề tài bàn luận sôi nổi. Và vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ

7


sở được coi là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu,
nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều cơng

trình nghiên cứu khoa học, các đề án, tài liệu, báo, tạp chí bàn đến vấn đề này
từ những góc độ khác nhau và thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, như:
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1947) với bút danh Tân Sinh, Đời sống mới,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Huy (1985), Mấy vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. GS.TS Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
đời sống văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hố Thơng tin, Hà Nội.
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cũng thu hút được nhiều tác
giả chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn cho mình như:
1. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng mơi trường văn hóa cơ sở, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Minh Quang (2000), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại huyện
xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
3. Hồ Thị Thái (2013), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Dũng (2013), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở xã Hải
Thanh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
5. Lê Thị Thắm (2012), Vai trò của phụ nữ Thọ Xuân (Thanh Hóa) trong
xây dựng đời sống văn hóa, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Vinh,
Nghệ An.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã khẳng định được vai trò
cũng như tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa nói chung,
8


cũng như việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Nêu bật được sự quan tâm

của Đảng, Nhà nước được thể hiện bằng các văn bản, đường lối, chính sách
phát triển và việc vận dụng đường lối, chính sách đó vào địa phương. Cũng
như tiếp cập vấn đề ở nhiều địa phương khác nhau trên cả nước, qua nhiều góc
độ cũng như hướng đến những đối tượng khác nhau.
Thanh Hóa nói riêng, cũng có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề
xây dựng đời sống văn hóa dù tên gọi có khác nhau nhưng trên thực tế nội
dung cũng liên quan đến vấn đề này.
Tuy nhiên đây là một vấn đề rộng và phong phú, có nhiều nội dung mà
các nhà nghiên cứu chưa đi sâu tìm hiểu. Trong số các tư liệu tôi đã sưu tầm và
tham khảo được thì có ít cơng trình nghiên cứu sâu sắc về vấn đề đề xây dựng
đời sống văn hóa cấp cơ sở, cũng như đánh giá về vai trò của việc xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở đến đời sống của nhân dân tỉnh Thanh Hóa nói chung.
Đây cũng là lý do tôi chọn vấn đề: “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã
Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa” làm khóa luận nghiên cứu của
mình.
Việc tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu trên cũng là những tài liệu q
giá tơi có thể tham khảo để thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu:
Khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã

Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc trong những năm qua. Từ đó đề xuất ra một số
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng đời
sống văn hoá ở xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.


Nhiệm vụ nghiên cứu:


- Nghiên cứu một số khái niệm liên quan đến văn hóa, xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở.
- Nghiên cứu đánh giá tổng quan về lịch sử phát triển và tình hình kinh tế
9


- văn hóa - xã hội - chính trị xã Lam Sơn.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
ở xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở xã Lam Sơn trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng đời sống văn hố cơ sở ở xã Lam Sơn,
huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.



Phạm vi nghiên cứu: Xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.



Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cơng tác xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở ở xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa từ năm
2015 đến năm 2017.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp, tơi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích, nghiên cứu tài liệu: Lập danh sách các danh
mục tài liệu tham khảo như tài liệu trên mạng Internet, sách báo, các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả liên quan đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa.
Qua đó, phân tích các ý kiến để có sự so sánh đối chiếu, tổng hợp để làm sáng
tỏ thêm nội dung của đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điền dã, ghi chép tại địa phương: Khảo sát thực tế tình
hình xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương. Từ đó nắm rõ vấn đề mình
nghiên cứu, đưa ra ý kiến khách quan và chân thật nhất.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc,
tỉnh Thanh Hóa
10


Chương 2: Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở xã Lam Sơn,
huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp để nâng cao hiệu quả
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh
Hóa
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ XÃ LAM SƠN,
HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HĨA
•••'
1.1.
1.1.1.


Cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
Khái niệm văn hóa

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng liên quan đến mọi mặt đời
sống vật chất và tinh thần của con người. Chính vì vậy mà đã có rất nhiều định
nghĩa về văn hóa được đưa ra với nhiều cách hiểu khác nhau, tiếp cận qua
nhiều phương diện khác nhau.
Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngơn ngữ từ rất sớm.
Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ con người, lấy đó
mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ). Ở phương Tây,
để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ
kultura. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng
trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng
với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ
khơng cịn là con vật tự nhiên và họ có những phẩm chất tốt đẹp [19, tr.16].
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học
phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
11


hóa (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất
và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa
hướng đến trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh. Và
E.B.Taylor được xem là người đại diện của họ khi đưa ra khái niệm về văn
hóa: “Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là tồn bộ phức thể bao
gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục về những
khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành
viên xã hội ” [19, tr.17].
Năm 1982, tại Mexico diễn ra Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa

vì sự phát triển, tổ chức UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hoá như sau:
“Trên ý nghĩa rộng nhất, văn hố có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt,
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội
hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hố bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hố đem lại cho con
người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hố làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà chúng ta xét đoán được những
giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể
hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình, là một phương án chưa hoàn
thành đặt ra để xem xét những thành tựu bản thân, tìm tịi khơng biết mệt
những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản
thân” [11, tr.16].
Tổng giám đốc Unesco F.May-ơ cũng đưa ra định nghĩa của mình về
văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định tính riêng của mỗi dân tộc” [18, tr.42].
12


Ở Việt Nam, năm1943 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của
mình về văn hố như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, phát
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hố. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [8, tr.431].

Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình” [13, tr.10].
Qua một số định nghĩa nêu trên về văn hóa, ta có thể thấy rằng văn hóa
là một khái niệm trừu tượng. Nhưng qua các định nghĩa nêu trên về văn hóa, ta
có thể rút ra một vài nhận xét sau về khái niệm văn hóa:
Theo nghĩa rộng: Văn hóa là tồn bộ hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo, tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử,
xã hội.
Theo nghĩa hẹp: Văn hóa chỉ bao gồm các giá trị tinh thần tạo nên nền
tảng tinh thần xã hội, trong đó tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
là những lĩnh vực cơ bản của văn hóa.
1.1.2.

Khái niệm đời sống văn hóa

Xây dựng đời sống văn hóa là một trong những chủ trương quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ lâu đến nay. Đây được xem là chủ trương có
ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Và việc xây dựng đời sống văn hóa
chính là xây dựng đời sống con người, trong cách ứng xử giữa người với
13


người, trong cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong cách
sống của cả một cộng đồng xã hội...
“Đời sống văn hóa” hiện nay được sử dụng khá phổ biến trên sách, báo,
văn kiện của Đảng và các phương tiện truyền thông của nước ta. Cũng giống

như khái niệm văn hóa, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm
đời sống văn hóa. Và cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về
thuật ngữ này, mỗi nhà nghiên cứu đều đưa ra những định nghĩa khác nhau của
mình về vấn đề này.
Trong cuốn giáo trình “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đời
sống văn hóa ở nước ta” thì GS.TS Hồng Vinh cho rằng: “ Đời sống văn hóa
là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong toàn bộ hoạt
động thực tiễn xã hội. Đời sống văn hóa với mọi sản phẩm vật chất và tinh
thần, với mọi hoạt động của con người thuộc mọi lĩnh vực của xã hội. Đời
sống văn hóa bao gồm một tổng thể các hoạt động văn hóa, những tác động
qua lại trong đời sống của mỗi các nhân với cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu
cầu của con người và thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội” [18, tr.65].
Trong cuốn “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” do Trần Độ chủ biên,
các nhà nghiên cứu lại đưa ra quan điểm: “Đời sống văn hóa là một tổng hợp
những yếu tố vật thể văn hóa, nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu
tố hoạt động văn hóa của con người, những sự tác động lẫn nhau trong đời
sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng người, trực
tiếp làm hình thành lối sống con người trong xã hội” [6, tr.28].
Tiếp cận đời sống văn hóa theo từng biểu hiện cụ thể của nó, nhà nghiên
cứu Hà Huy Bích đã đưa ra quan điểm của mình về bản chất của đời sống văn
hóa: “Đời sống văn hóa thể hiện chủ yếu ở hai quan hệ cơ bản của con người:
một là quan hệ tự nhiên, hai là quan hệ xã hội, ở hai hoạt động cơ bản là hoạt
động cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội, nhân đó cả cải tạo bản thân mình
nữa” [2, tr.110].
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Thị Phương Lan lại cho rằng: “Đời
sống văn hóa là tổng thể những yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần nằm trong
14


cảnh quan văn hóa, những yếu tố hoạt động của văn hóa, sự tác động lẫn

nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng
đồng, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người trong xã hội” [9, tr.15].
Năm 2000, cuốn Giáo trình Lý luận văn hố và đường lối văn hố của
Đảng đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa cơ sở là một bộ phận của đời sống
xã hội, bao gồm các yếu tố tĩnh tại (sản phẩm văn hóa vật chất, các thể chế
văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người các hoạt động văn
hóa của nó) xét về mọi phương diện khác, đời sống văn hóa bao gồm các hình
thức sinh hoạt văn hóa hiện thực và cả hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh”
[10, tr.146].
Xuất phát từ nhu cầu văn hóa của con người, có thể hiểu đời sống văn
hóa bao gồm toàn bộ những hoạt động sản xuất và tiêu thụ các giá trị văn hóa
vật chất và tinh thần thơng qua các thiết chế văn hóa. Việc xây dựng đời sống
văn hóa là làm cho đời sống con người thấm nhuần những giá trị, tư tưởng tốt
đẹp và tiến bộ. Với mục đích xây dựng một nền văn hóa mới, con người mới,
hướng đến sự phát triển tiến bộ xã hội và xây dựng một đời sống lành mạnh.
1.1.3.

Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

Đời sống văn hoá ở cơ sở là đời sống văn hoá diễn ra ở cộng đồng gia
đình, làng, bản, xóm, ấp, doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện... Đặc điểm cơ bản
của đời sống văn hoá ở cơ sở là các hoạt động văn hoá diễn ra gắn liền với sinh
hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng trong các mối liên kết
thường xuyên và trực tiếp với không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật và các thiết chế văn hoá nhất định. Mỗi cộng đồng dân
cư sống cố định và hình thành một tổ chức hành chính (xã, phường, trường
học, bệnh viện.) hay một cộng đồng nhỏ hơn (gia đình, làng, xóm.) đều có thể
được xem là đơn vị văn hoá cơ sở. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là xây
dựng văn hoá ngay từ trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng
nghề nghiệp diễn ra sinh hoạt văn hoá thường nhật của quần chúng nhân dân.

15


1.1.4.

Nội dung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

Nội dung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hướng đến các hoạt động
văn hóa sáng tạo, lưu giữ, quảng bá và tiêu dùng các giá trị văn hóa trong đời
sống nhân dân. Đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân và các hoạt động xây
dựng đời sống văn hóa này thường rất đa dạng. Việc xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở hướng đến mục đính làm cho đơn vị cơ sở phát triển tồn diện, có
đời sống kinh tế, vật chất đầy đủ, phong phú, có đời sống văn hóa tinh thần
lành mạnh, văn minh. Và dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác xây
dựng đời sống văn hóa hiện nay bao gồm 5 nội dung và 7 phong trào cuộc vận
động sau:
• 5 nội dung trong công tác xây dựng đời sống văn hóa:

Thứ nhất: Phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói
giảm nghèo.
Đây là nội dung đã được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng ở nhiều địa
phương trong các phong trào cụ thể và đã đạt được hiệu quả to lớn. Khơi dậy
sự tương thân tương ái, giúp đỡ nhau về vốn, trao đổi kinh nghiệm làm kinh tế,
yếu tố văn hóa trong kinh doanh sản xuất chính là sự thể hiện trong việc ứng
xử giữa con người với con người trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao.
Thứ hai: Xây dựng tư tưởng chính trị lành mạnh. Củng cố và nâng cao
tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nhất trí với đường lối chính trị của
Đảng, hồn thành các nhiệm vụ chính trị được giao, đấu tranh chống các tư
tưởng sai trái, có ý thức tự cường, tự tơn dân tộc, giữ gìn bí mật quốc gia.

Thứ ba: Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm
việc theo pháp luật. Xây dựng tác phong cơng nghiệp, làm việc có kỷ luật; thực
hiện tốt nội quy đơn vị, hương ước, quy ước của làng ấp, khu phố nơi cư trú
cũng như quy định nơi công cộng; sống và làm việc theo pháp luật; thực hiện
giao tiếp văn minh, lịch sự, có trách nhiệm được giao; xây dựng công sở văn
16


minh, giảm thủ tục phiền hà, quan liêu, lãng phí; thực hiện tốt nếp sống văn
minh, lành mạnh, tiết kiệm trong việc cưới, tang, giỗ tết, lễ hội và các sinh hoạt
xã hội; giữ gìn và phát huy thuần phong mĩ tục, đạo lý truyền thống tốt đẹp của
dân tộc; khơng thực hiện các hành vi tín ngưỡng ở những địa điểm ngồi
khn viên thờ tự đã quy định như đặt bát hương, cúng lễ nơi công sở, nơi làm
việc, tự ý xây các bệ thờ, tiến hành việc cúng lễ nơi cơng cơng khi khơng được
phép của cấp có thẩm quyền.
Thứ 4: Xây dựng mơi trường văn hóa sạch - đẹp - an toàn. Xây dựng ý
thức vệ sinh nơi ở và công cộng, không gây mất trật tự và làm mất mĩ quan
như lấn chiếm vỉa hè, lễ đường, đất công, treo dán, viết vẽ quảng cáo, rao vặt
tùy tiện; tham gia bảo vệ môi trường, bảo vệ di tích lịch sử văn hóa, cách mạng
và khu bảo tồn thiên nhiên; khơng sử dụng văn hóa phẩm cấm lưu hành, không
tham gia vào các hoạt động dịch vụ văn hóa trái với quy định của pháp luật;
tích cực phịng chống nghệ tệ nạn xã hội như mê tín hủ tục, mại dâm, nghiện
hút, cờ bạc, rượu chè, tham nhũng...
Thứ năm: Xây dựng các thiết chế văn hóa thể thao và nâng cao chất
lượng các hoạt động văn hóa thể thao ở cơ sở.
Xây dựng bộ máy cán bộ, hệ thống thiết chế, cơ sở vật chất kỹ thuật để
tổ chức hoạt động văn hóa của nhân dân. Các thiết chế văn hóa gồm: Nhà văn
hóa, sân bão thể thao, trạm truyền thanh, phòng truyền thống, tủ sách, phòng
đọc sách, điểm bưu điện văn hóa đội thơng tin văn nghệ quần chúng và các câu
lạc bộ.

• Các phong trào trong cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cụ thể:

Căn cứ vào nội dụng đã nêu, cần tập trung xây dựng đời sống văn hóa
thơng qua 7 phong trào cụ thể sau đây:
- Phong trào người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến;
- Xây dựng gia đình văn hóa;
- Xây dựng làng văn hóa, khu phố văn hóa;
17


- Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa;
- Xây dựng cơng sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang có nếp
sống văn hóa;
- Tồn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại;
- Đẩy mạnh phong trào học tập, lao động sáng tạo.
Tùy vào đặc thù mỗi loại hình phong trào, các bộ, ban, ngành, đoàn thể,
tổ chức xã hội, địa phương căn cứ nội dung cơ bản của phong trào và ban chỉ
đạo các cấp đề ra, lồng ghép tổ chức thực hiện.
Trong q trình tổ chức thực hiện, cần tơn trọng và biểu dương sự sáng
tạo, tìm tịi các hoạt động của quần chúng ở cơ sở nhằm đưa phong trào đi vào
cuộc sống có hiệu quả thiết thực.
Và nội dung xây dựng đời sống văn hóa được cụ thể hóa bằng các hoạt
động văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân và đây là những hoạt
động rất đa dạng, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Và trong hồn cảnh hiện nay
ở nước ta nói chung và một số địa phương nói riêng, có thể khái quát việc xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hướng vào một số hoạt động sau:
- Hoạt động thông tin tuyên truyền , cổ động: Đây là hoạt động rất quan
trọng trong cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, là phương tiện đắc lực
trong hoạt động tuyên truyền. Thơng qua các thiết chế văn hóa như phát thanh,
truyền hình, báo chí... thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là phổ biến rộng rãi đến

nhân dân các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng
như các nhiệm vụ chính trị, các quy định của địa phương. Nhất là trong thời
đại phát triển của công nghệ, việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
để tuyên truyền, cung cấp thông tin tới nhân dân rất thuận tiện và tác động trực
tiếp tới nhân dân.
- Hoạt động câu lạc bộ: Là tổ chức xã hội tập hợp theo nhóm những
người có cùng sở thích, đam mê, thuộc các lĩnh vực khác nhau... Hoạt động
này mang tính tự nguyện và phụ thuộc vào thời gian rỗi của mỗi người, kinh
18


phí hoạt động mang tính xã hội hóa. Mục đích của hoạt động này nhằm nâng
cao trình độ nghiệp vụ, phát triển và bồi dưỡng năng khiếu, bổ sung kiến thức,
khuyến khích sự sáng tạo của các cá nhân. Và các câu lạc bộ này thường tổ
chức tại các cơ quan văn hóa, giáo dục như: nhà văn hóa, trung tâm văn hóa...
Hiện nay, có nhiều mơ hình câu lạc bộ phong phú như: Câu lạc bộ ông bà - cháu; Câu lạc bộ Thanh niên, Câu lạc bộ Âm nhạc, Câu lạc bộ Văn học,
Câu lạc bộ Khuyến nông... với rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Các câu lạc bộ
này thu hút sự quan tâm tham gia đông đảo của nhiều tầng lớp nhân dân, góp
phần tích cực vào cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
- Hoạt động thư viện, đọc sách báo: Thư viện, phịng đọc sách báo thường
xun chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động khai trí của nhân dân.
Vì sách, báo là nguồn tri thức quan trọng giúp người dân nâng cao hiểu
biết.
- Hoạt động giáo dục truyền thống: Các thiết chế bảo tàng, phịng truyền
thống, các di tích lịch sử - văn hóa ln là nơi diễn ra các hoạt động có
tính quần chúng rộng rãi như “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp
nghĩa”, nhằm giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng cho
nhân dân.
- Hoạt động văn nghệ quần chúng: Là các hoạt động sáng tạo, lưu giữ và
truyền bá những giá trị văn hóa dân gian và hiện đại trong quần chúng

nhân dân. Đây là hoạt động sơi nổi nhất hiện nay vì nó đáp ứng kịp thời
nhu cầu của quần chúng thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi... tạo nên sự
tươi mới cho hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Đáp ứng
những nhu cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật của nhân dân, qua đó
bồi dưỡng năng lực nhận thức và xây dựng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí: Các hoạt động này rất đa
dạng, với mục đích tăng cường thể chất, rèn luyện sức khỏe cũng như phẩm
19


chất tinh thần cho mỗi cá nhân: ý chí bền bỉ, khéo léo, tinh thần đồng đội... và
các hoạt động này thường cần có cơ sở vật chất đáp ứng các nhu cầu luyện tập
khác nhau của từng lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp thu hút sự quan tâm và
tham gia đối với mọi độ tuổi.
- Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa: Nếp sống văn hóa là tồn bộ
những ứng xử của con người, biểu hiện trong mối quan hệ với thiên nhiên, xã
hội và với bản thân con người, được lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành thói
quen, phong tục tập quán của địa phương đó. Là hệ thống các chuẩn mực xã
hội được cộng đồng công nhận và tự nguyện thực hiện. Xây dựng nếp sống
văn hóa là xây dựng nếp sống các nhân, nếp sống gia đình, nếp sống cộng
đồng. Hoạt động này gắn liền với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội...
mang tính tổng hợp, nội dung rộng, thể hiện trên nhiều mặt như chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phịng. Cụ thể như Chỉ thị 27/CT-TW của Bộ
chính trị về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội
nhằm xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh bài trừ các hủ tục lạc hậu, tệ
nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu trong công tác xây dựng đời sống
văn hóa, hình thành nên diện mạo của đời sống văn hóa cơ sở từng địa phương.

1.1.5.

Vai trị của xây dựng đời sống văn hóa cơ sở

Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở là một trong những chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ Đại hội V của Đảng. Đây là một chủ trương
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là bước đi đầu tạo nền móng vững chắc
cho nền văn hóa của dân tộc trong việc duy trì, xây dựng và phát triển văn hóa
bền vững. Bởi lẽ, văn hóa được sinh ra từ làng quê Việt, từ đời sống của nhân
dân và cũng chính từ cái nơi đó đã ni dưỡng văn hóa, giúp văn hóa phát triển
bền vững.
20


Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở khơng chỉ bao gồm các sinh hoạt
văn hóa của cộng đồng dân cư mà bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết
chế văn hóa, các thành tố gia đình văn hóa, thơn xóm văn hóa, nếp sống văn
hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội... do đó đây khơng phải là nhiệm vụ
của riêng ai, mà đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống
chính trị, cần được thực hiện một cách thường xuyên liên tục, trong từng giai
đoạn. Gắn kết chặt chẽ cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở với việc thực
hiện các chương trình mục tiêu của quốc gia trong việc xây dựng nơng thơn
mới. Từ đó góp phần nâng cao dân trí, nhận thức của xã hội, làm cho văn hóa
gắn kết và thấm sâu vào đời sống xã hội, tạo nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng trong công cuộc phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là điều kiện thiết yếu để bồi đắp nền
tảng tinh thần cho xã hội. Là bước đi ban đầu mang tính hiện thực, trực tiếp để
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng hoàn thiện

thể chế, thiết chế văn hóa cộng đồng. Góp phần tạo điều kiện cần thiết để nhân
dân phát huy và thực hiện quyền làm chủ của mình trong sáng tạo, hưởng thụ
các giá trị văn hóa, nghệ thuật, xây dựng lối sống văn minh, lịch sự, giữ gìn
trật tự, kỷ cương; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa xã hội, đảm bảo ổn
định chính trị.
Tuy nhiên, kết quả cơng tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong
những năm qua chưa thực sự vững chắc, chất lượng chưa cao, nhiều hoạt động
cịn mang tính hình thức. Nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở chưa cao. Nhất là khi sự phát triển của xã hội
làm biến đổi về đời sống của nhân dân, thực dụng trong việc sử dụng các
phương tiện văn hóa hiện dại... những điều này đã đưa con người vào lối sống
vật chất, tha hóa và thực dụng, truyền thống văn hóa của dân tộc bị mai một.
Từ những vấn đề trên, ta có thể thấy vai trị của việc xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở hiện nay là rất cần thiết và không thể xem nhẹ ở mỗi địa
21


phương. Nền văn hóa ổn định sẽ giúp phát triển kinh tế, ổn định nền chính trị
của quốc gia, trật tự xã hội được đảm bảo. Và để công tác xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở đạt hiệu quả cao nhất thì cần sự nỗ lực hơn nữa của cả một quá
trình lâu dài, sự lãnh đạo, quản lý đồng bộ tồn diện và tính tự quản của nhân
dân mỗi ở cộng đồng địa phương.
1.2.
1.2.1.

Tổng quan về xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa
Lịch sử hình thành xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc

Ngày 09 tháng 01 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết số

15/CP về việc thành lập xã Lam Sơn, trên cơ sở giải thể Thị trấn Nông trường
Lam Sơn thuộc huyện Ngọc Lặc, trong đó:
- Giải thể thị trấn nơng trường Lam Sơn thuộc huyện Ngọc Lặc để thành
lập xã Lam Sơn thuộc huyện Ngọc Lặc trên cơ sở 1.067,90 ha diện tích
đất tự nhiên của nông trường Lam Sơn đang sử dụng thuộc địa giới hành
chính của các xã, gồm: 523,20 ha của xã Minh Tiến; 204,70 ha của xã
Minh Sơn; 35,90 ha của xã Xuân Châu; 98,20 ha của xã Xuân Tín;
205,90 ha của xã Quảng Phú và 149,70 ha diện tích tự nhiên của xã
Minh Tiến đang quản lý; 3.423 nhân khẩu của thị trấn nông trường Lam
Sơn và 819 nhân khẩu của xã Minh Tiến.
- Giao số nhân khẩu cịn lại của thị trấn nơng trường Lam Sơn về các xã
như sau: 768 nhân khẩu về xã Minh Tiến, 62 nhân khẩu về xã Minh Sơn,
50 nhân khẩu về xã Kiên Thọ, 529 nhân khẩu về xã Xuân Châu.
1.2.2.

Điều kiện tự nhiên

Lam Sơn là một xã miền núi của huyện Ngọc Lặc, cách trung tâm huyện
lỵ 10km.
Xã Lam Sơn có vị trí địa lý:
- Phía Đơng: Giáp xã Quảng Phú huyện Thọ Xuân
- Phía Nam: Giáp xã Xuân Châu huyện Thọ Xuân
- Phía Tây: Giáp xã Minh Tiến huyện Ngọc Lặc
- Phía Bắc: Giáp xã Minh Sơn, Ngọc Trung huyện Ngọc Lặc
Tồn xã có 10 thơn, trong đó có 8 thôn nông nghiệp gồm: thôn 4, thôn 5,
22


thôn 6, thôn 7, thôn 8, thôn 9, thôn 12, thơn Minh Thủy. Hai thơn cịn lại là
thơn Trung Tâm, thôn Trụ Sở chủ yếu làm kinh doanh và các dịch vụ khác.

Xã có diện tích 12,18 km2, mật độ dân số đạt 352 người/km2. Tồn xã có
4851 nhân khẩu/1.229 hộ dân, gồm có hai dân tộc chiếm đa số là dân tộc Kinh
chiếm 60 % và dân tộc Mường chiếm 39% còn một số dân tộc khác chiếm 1%,
các dân tộc chung sống đồn kết, gắn bó với nhau từ rất lâu đời.
Tổng diện tích tự nhiên của tồn xã là 1.954,34 ha: Diện tích đất nơng
nghiệp là 1.479,31 ha (trong đó: đất sản xuất nơng nghiệp là 793,95 ha; đất lâm
nghiệp 662,31 ha; đất nuôi trồng thủy sản: 23 ha). Diện tích đất phi nơng
nghiệp là 356,41 ha. Diện tích đất ở : 109,89 ha; đất chuyên dùng là 210,77 ha.
Lam Sơn nằm trong vùng khí hậu Trung du Bắc bộ nên khí hậu hàng
năm phức tạp. Lượng mưa bình quân từ 1.520,7 - 2.255,6 mm/năm, nhưng
phân bố không đều trong năm và ngay cả trong mùa cũng rất thất thường. Trên
địa bàn xã có hệ thống đập thủy điện chạy qua, có đường giao thơng tỉnh lộ
516B tạo thành mạng giao thông, thủy lợi là điều kiện thuận tiện cho phát triển
kinh tế - xã hội.
1.2.3.

Điều kiện kinh tế - xã hội

Từ khi mới thành lập, khoảng 90% dân cư trong xã sống bằng nghề
nông nghiệp và lâm nghiệp, nguồn thu nhập chính của nhân dân địa phương là
trồng trọt và chăn nuôi. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là cây lúa, ngô, khoai
và sắn. Những năm gần đây, đời sống kinh tế - xã hội ở xã đã có nhiều khởi
sắc, ngồi việc chăn ni và trồng trọt nhân dân cịn bn bán kinh doanh các
mặt hàng thương mại và dịch vụ. Tốc độ phát triển kinh tế bình quân (giai
đoạn 2011 - 2016) đạt trên 13%. Theo kết quả thống kê, năm 2011 tỷ lệ hộ
nghèo của xã cịn 11,74%, thu nhập bình qn đầu người ở mức 13,42 triệu
đồng/người. Đến cuối năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 67 hộ, chiếm 4,72%,
thu nhập bình quân đầu người đạt mức 29,63 triệu đồng/người.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - văn hóa, phục vụ nhu cầu
của nhân dân được đầu tư xây dựng, nâng cấp như: trường học, trạm y tế,

đường giao thông nội xã, nội thôn; kênh tiêu úng; điện phục vụ cho sản xuất
23


dân sinh, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại, mua bán sản phẩm hàng hóa thuận
lợi. Các cơng trình thủy lợi được đầu tư xây dựng đáp ứng nhu cầu phục vụ
nước cho bà con nhân dân tưới tiêu cây trồng.
Các chương trình y tế cộng đồng thực hiện có hiệu quả, hàng năm tổ
chức những đợt kiểm ra vệ sinh an tồn thực phẩm, vệ sinh mơi trường, vệ
sinh khu dân cư và nhà ở. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được triển
khai trên tồn địa bàn tồn xã. Cơng tác xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,
các hoạt động chính sách xã hội luôn được đảm bảo, quan tâm đúng mức, thực
hiện đầy đủ, kịp thời.
Trong những năm qua, xã luôn thực hiện tốt dân chủ cơ sở, toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động văn hóa đảm bảo đúng định hướng, kịp thời và phù hợp với đời sống
văn hóa của người dân địa phương. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục
thể thao diễn ra sôi nỗi, các ngày lễ lớn được tổ chức chu đáo, với quy mơ vừa
và nhỏ. Qua đó, đạt được những kết quả thiết thực trong việc nâng cao đời
sống văn hóa, đảm bảo cho nhân dân có thể tham gia và hưởng thụ các giá trị
văn hóa một cách tốt nhất.
Với những đặc điểm trên, là những điều kiện rất quan trọng để nhân dân
xã Lam Sơn tiếp tục phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu những giá trị văn hóa, hình thành nên tính đa dạng, phong phú trong văn
hóa, sinh hoạt cộng đồng, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa dân
tộc.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, khóa luận đã chỉ ra một số khái niệm, nội dung cũng
như vai trò của đời sống văn hóa trong sự phát triển của xã hội. Với mục đích
xây dựng một đời sống văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu trong sáng tạo và

hưởng thụ văn hóa của nhân dân, thu hút họ vào tham gia các sinh hoạt văn
hóa, xây dựng nếp sống văn hóa và mơi trường văn hóa lành mạnh - tiến bộ,
tạo sự phát triển hài hịa về văn hóa với đời sống kinh tế - xã hội.
Lam Sơn là một xã mới được thành lập từ năm 2004, đời sống cơ sở vật
24


chất của nhân dân còn nhiều hạn chế và thiếu thốn. Nhưng trong những năm
trở lại đây, dưới sự quan tâm giúp đỡ của ban lãnh đạo cũng như sự vươn lên
trong lao động sản xuất của người dân. Cuộc sống của nhân dân trên địa bàn xã
đã có sự chuyển biến tích cực, đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân được
nâng lên.
Những cơ sở lý luận và thực tiễn ở chương 1 cũng là tiền đề, cơ sở quan
trọng để nghiên cứu và đánh giá thực trạng đời sống văn hóa cơ sở của xã Lam
Sơn, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa trong những năm gần đây ở những
chương tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ XÃ
LAM SƠN, HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HĨA
>•••>

2.1.

Cơng tác chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở xã Lam Sơn,

huyện Ngọc Lặc trong những năm gần đây
2.1.1.

Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện việc xây dựng đời sống


văn hóa cơ sở xã Lam Sơn
Thực hiện nghị quyết Trung Ương 5 khóa VIII của Đảng về việc phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, cơng tác
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, xã Lam Sơn, huyện Ngọc Lặc coi đây là cuộc vận
động lớn và lâu dài trên tất cả các phương diện, nhằm hướng đến sự thay đổi
trong lối sống, tư duy, xây dựng một nếp sống văn hóa lành mạnh, đời sống
văn hóa cơ sở tiến bộ, nhân dân từng bước có một đời sống văn hóa tinh thần
đầy đủ và tiến bộ.
Thực hiện Quyết định số 01/2000/QĐ-BCĐ ngày 12/04/2000 của Ban
chỉ đạo Trung ương về việc ban hành Kế hoạch triển khai phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Quyết định số 1648/QĐ-UBND ngày 30/06/2000 của Chủ tịch UBND
25


×