PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Bão nhiệt đới là hiện tượng thiên tai của tự nhiên, nó hình thành và ảnh
hưởng trên một khu vực rộng lớn với mức độ phá hủy nghiêm trọng, gây ra
những hậu quả nặng nề tới hoạt động kinh tế và đời sống con người.
Các quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất của bão là những nước nằm trong
khu vực nhiệt đới (trong đó có Việt Nam). Ở những quốc gia này đã lập ra các
trung tâm nghiên cứu, dự báo bão nhằm hạn chế tối đa những hậu quả do bão
gây ra, nhất là khu vực nhiệt đới nơi có cường độ, số lượng và tần suất các cơn
bão mạnh nhất.
Ngày nay, mặc dù khoa học kĩ thuật ngày càng hiện đại song thực tế con
người vẫn chưa thể chinh phục được sức mạnh của tự nhiên, trong đó có bão. Do
đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu các trận bão có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan
trọng. Q trình nghiên cứu sẽ giúp chúng ta tìm hiểu được nguyên nhân, cơ chế
phát sinh cũng như quy luật phân bố bão nhiệt đới, từ đó đưa ra các biện pháp
dự báo, phòng chống và khắc phục những hậu quả mà bão gây ra.
Xuất phát từ lí do trên nên đã chọn đề tài nghiên cứu “BÃO NHIỆT
ĐỚI”.
II. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát về bão nhiệt đới: điều kiện hình thành, cơ chế, sự di
chuyển, cách đặt tên cho bão.
- Tìm hiểu những ảnh hưởng của bão đến hoạt động kinh tế và đời sống
con người, từ đó đề ra một số biện pháp phòng tránh.
- Mặt khác đề tài của tơi thực hiện cịn nhằm mục đích nâng cao vốn hiểu
biết của bản thân. Đồng thời cũng hi vọng đề tài sẽ trở thành tài liệu tham khảo
cho các bạn sinh viên
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích nguyên nhân hình thành và cấu trúc của một cơn bão.
- Phân tích các giai đoạn hình thành.
1
- Tìm hiểu phạm vi hoạt động của bão nhiệt đới và các cách đặt tên cho
bão
- Đưa ra những biện pháp nhằm dự báo, khắc phục và phòng chống bão.
- Nghiên cứu một số cơn bão lớn ở trên thế giới và Việt Nam.
IV. Giới hạn nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, tài liệu và vốn hiểu biết của bản thân nên đề tài
chỉ tập trung ngiên cứu khái quát về bão hình thành và hoạt động trong khu vực
nhiệt đới.
V. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. Trên thế giới
Ý thức được mức độ nguy hại của các cơn bão, ngay từ thế kỉ 19, hội nghị
khí tượng thế giới đã thường xuyên được tổ chức; đến năm 1947, từ hội nghị
chuyển thành tổ chức và có quy chế chính thức thành Tổ chức Khí tượng thế
giới (23.3.1950). Ngày 20 tháng 12 năm 1951 tổ chức này trở thành tổ chức
chuyên môn của Liên hợp quốc. Đến năm 2004 có 187 thành viên (quốc gia và
vùng lãnh thổ).
Tổ chức Khí tượng thế giới có nhiệm vụ thúc đẩy sự hợp tác về thơng tin
trong lĩnh vực khí tượng trên thế giớí, thiết lập mạng lưới dịch vụ khí tượng và
mạng lưới các trạm khí tượng của từng nước và của các khu vực, giúp sử dụng
các thông tin về khí tượng trong hàng khơng, hàng hải, cơng nghiệp và các hoạt
động khác của con người, thúc đẩy những hoạt động nghiên cứu, đào tạo trong
các lĩnh vực khí tượng. Tổ chức Khí tượng thế giới có sáu hiệp hội khu vực
gồm: 1) Châu Phi; 2) Châu Á; 3) Nam Mĩ; 4) Bắc, Trung Mĩ và Caribê; 5) Tây
Nam Thái Bình Dương; 6) Châu Âu.
Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tồn cầu các
cơn bão hoạt động ngày càng phức tạp gây ra nhiều khó khăn cho cơng tác dự
báo. Vừa qua, Tổ chức Khí tượng thế giới đã lập một ủy ban gồm 10 chuyên gia
để nghiên cứu về các cơn bão và biến đổi khí hậu. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
nhìn chung cường độ bão sẽ tăng từ 2 tới 11%, đổi lại số lượng bão sẽ giảm 6
2
-34%. Điều đáng chú ý là số lượng bão có cường độ yếu và trung bình sẽ giảm,
trong khi những cơn bão mạnh sẽ tăng lên do tình trạng ấm lên của trái đất.
Để đối phó với sự hoạt động ngày một phức tạp của các cơn bão, con
người đã khơng ngừng nghiên cứu, tìm tịi và phát minh ra những thiết bị hiện
đại nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và dự báo. Mới đây, cơ quan Khí
quyển và Đại dương quốc gia Mỹ (NOAA) đã đưa vào sử dụng loại máy bay
không người lái chuyên thực hiện các chuyến bay nghiên cứu để giám sát thiên
tai và vừa qua Nasa cũng cho vào hoạt động loại máy bay DC - 8 có gắn các
thiết bị nghiên cứu tâm bão nhiệt đới.
Máy bay DC-8 của NASA có các thiết
Máy bay khơng người lái có thể
bị nghiên cứu tâm bão nhiệt đới
bay vào vùng nguy hiểm của cơn
bão để thu thập dữ liệu
Hình 1: Một số thiết bị nghiên cứu bão hiện đại
2. Ở Việt Nam
Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tiếp giáp với biển Đơng và khu
vực tây bắc Thái Bình Dương, Việt Nam có điều kiện và tài nguyên khí hậu
phong phú, đa dạng nhưng cũng có nhiều thiên tai, nhất là bão, lũ vì đây là một
trong những ổ bão lớn trên thế giới. Từ xa xưa, nhân dân Việt Nam đã biết khai
thác các mặt thuận lợi của thời tiết, khí hậu, đồng thời đấu tranh ngăn ngừa và
hạn chế thiên tai để tồn tại và phát triển. Nhiều tư liệu về quan trắc và đo đạc khí
tượng thủy văn từ các triều đại phong kiến còn lưu trữ đến ngày nay. Tuy nhiên,
3
đến cuối thế kỷ XIX các hoạt động khí tượng thuỷ văn mới được tiến hành có hệ
thống, đặc biệt từ sau ngày đất nước được độc lập, ngành Khí tượng Thủy văn
(KTTV) Việt Nam được khôi phục, phát triển và phục vụ đắc lực sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 1976, Trung tâm Khí tượng thủy văn (KTTV) được thành lập. Trung
tâm KTTV Quốc gia chịu trách nhiệm cung cấp các thơng tin dự báo khí tượng,
thủy văn, hải dương phục vụ phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, đồng thời đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của các ngành kinh tế và đời sống xã hội.
Hệ thống dự báo KTTV gồm 3 cấp:
- Trung ương: do Trung tâm dự báo KTTV Trung ương đảm nhiệm.
- Khu vực: do các Đài KTTV khu vực đảm nhiệm.
- Tỉnh: do các Trung tâm dự báo KTTV tỉnh đảm nhiệm.
Việt Nam là thành viên của tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) từ năm
1955 và kế tục từ năm 1976. Nước ta có quan hệ với nhiều tổ chức trên thế giới
và khu vực: UNDP, UNEP, UNESCO, ESCAP, APEC, Ủy ban bão, Khí tượng
và tiểu ban Vật lý địa cầu của ASEAN (ASCMG), WB, ADB, v.v… Nhiều nước
trên thế giới đã có quan hệ thường xuyên với trung tâm KTTV Quốc gia trên các
mặt trao đổi số liệu, sản phẩm KTTV, chuyển giao công nghệ, trung tâm KTTV
quốc gia thực hiện việc quan trắc, thu thập, chỉnh lý số liệu KTTV và trao đổi
các thông tin KTTV trên phạm vi tồn cầu. Ngồi ra, nước ta cịn ký nhiều thỏa
thuận hợp tác song phương, đa phương với các cơ quan Khí tượng các nước và
các tổ chức quốc tế.
VI. Các phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp thu thập tài liệu
Thu thập tài liệu là bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu đề tài. Hiện
tượng bão đã được nhiều tác giả đề cập đến, vì vậy việc thu thập chọn lọc các
nguồn tài liệu từ nhiều tác giả là một vấn đề địi hỏi người nghiên cứu phải có tư
duy logic, thu thập tài liệu từ nhiều nguồn như: sách giáo trình, báo chí,
internet… Tất cả những nguồn tài liệu đó sẽ giúp chúng ta hiểu và có cách đánh
giá tổng quan hơn về vấn đề này.
4
2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Phương pháp này được dùng để xử lí, phân tích các thơng tin thu thập
được trong sách giáo trình, sách tham khảo, các bài báo, internet. Từ đó giúp
chọn lọc sắp xếp, trình bày vấn đề sao cho đơn giản và dễ hiểu nhất.
3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của bộ mơn Địa lí, sử dụng bản đồ khơng
chỉ khái qt hóa nội dung mà cịn chỉ ra được các mối quan hệ giữa đối tượng
nghiên cứu với các thành phần tự nhiên khác.
VII. Ý nghĩa nghiên cứu
Thưc hiện đề tài này mong muốn hiểu sâu hơn về các hiện tượng tự nhiên
cụ thể là những vấn đề về bão nhiệt đới.
Đề tài đã khái quát được thế nào là bão nhiệt đới, điều kiện hình thành,
cơ chế, sự di chuyển, đặt tên cũng như các công tác dự báo bão ở Việt Nam và
trên thế giới.
Đề tài cũng đánh giá được những ảnh hưởng của bão đến hoạt động kinh
tế và đời sống con người.
Đề tài sẽ là nguồn tài liệu rất bổ ích cho học sinh, sinh viên, những người
muốn tìm hiểu về bão nhiệt đới.
5
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÃO NHIỆT ĐỚI
I. Cơ sở lí luận
1. Giới hạn vùng nhiệt đới và phạm vi hoạt động của bão nhiệt đới
a. Giới hạn vùng nhiệt đới
Hiện nay có một số cách xác định miền nhiệt đới: theo quan điểm địa lí và
theo quan điểm khí tượng. Theo quan điểm địa lí, miền nhiệt đới là miền nằm ở
2 phía xích đạo và giới hạn bởi 2 chí tuyến bắc (23 027’B) và chí tuyến nam
(23027’N) . Nhưng trong khí tượng người ta coi miền nhiệt đới là miền nằm giữa
2 vĩ tuyến 300 B và 300 N, là đường phân chia hồn lưu khí quyển thịnh hành đới
gió Đơng (trong miền nhiệt đới) và gió tây ơn đới.
Miền nhiệt đới có nhiều đặc điểm khác biệt so với các miền khí hậu khác
về chế độ bức xạ và chế độ ẩm dẫn đến sự khác biệt đáng kể trong các đặc điểm
hoàn lưu so với miền ngoại nhiệt đới.
Về chế độ nhiệt: ở miền nhiệt đới, tia bức xạ Mặt trời hầu như chiếu
vng góc với mặt đất nên ở đây có lượng bức xạ nhiệt rất lớn (trên lục địa 180
-200 kcal/cm2/năm, trên đại dương 160 kcal/cm2/năm) và khá đồng đều trên tồn
miền. Chính vì vậy miền nhiệt đới là nguồn nhiệt, từ đây vận chuyển nhiệt về
phía hai cực.
Lượng nhiệt lớn cung cấp cho q trình bốc hơi từ các đại dương rộng lớn
miền cận nhiệt và nhiệt đới tạo nguồn cung cấp ẩm lớn được tín phong đưa từ
trạm cao áp cận nhiệt (khoảng vĩ độ 30) vào dải hội tụ nhiệt đới gần xích đạo tạo
thành các dải mây tích và tũ tích cho mưa rào và giơng ở khu vực xích đạo.
Trong những điều kiện thuận lợi, một trong các nhiễu động trên dải hội tụ nhiệt
đới có thể khơi sâu và phát triển thành các xoáy thuận nhiệt đới, các cơn bão cho
mưa to gió lớn với nhiều đặc trưng khác biệt so với xoáy thuận ngoại nhiệt đới.
Về chế độ ẩm: ở miền nhiệt đới có sự khác biệt lớn giữa lục địa và đại
dương. Trên lục địa độ ẩm cực kì thấp, mưa rất ít nhưng đơi khi có cường độ lớn
6
thậm chí sinh ra lũ lụt. Ngược lại, ngồi đại dương lượng bốc hơi lớn nên độ ẩm
rất cao. Lượng mưa trung bình khoảng 1000 - 2000mm/năm.
b. Phạm vi hoạt động của bão nhiệt đới
Bão nhiệt đới là bão hoạt động mạnh trong các vĩ độ nhiệt đới. Nhà khí
tượng Erik Palmen đã tìm ra rằng bão chỉ có thể hình thành trên biển trong dải vĩ
độ 5 - 20o vĩ hai bên xích đạo có nhiệt độ cao (từ 26 – 27 oC trở lên) đảm bảo
cung cấp đủ lượng hơi nước khổng lồ bốc hơi mạnh từ mặt biển để tạo năng
lượng cho bão hình thành và lực Cơriơlit đủ lớn để tạo xốy. Sở dĩ bão khơng
thể hình thành trong giải 0 – 5o vĩ về hai phía của xích đạo vì ở đó lực Cơriơlit
q nhỏ, khơng đủ để tạo xốy.
Hiện nay người ta đã xác định 5 khu vực được gọi là “ổ bão nhiệt đới”
trên toàn hành tinh chúng ta là:
- Ở bán cầu Bắc: có 3 ổ bão lớn nằm ở khu vực tây bắc Thái Bình Dương,
tây bắc Đại Tây Dương và bắc Ấn Độ Dương.
- Ở Nam bán cầu: có 2 ổ bão lớn là tây nam Thái Bình Duơng và nam Ấn
Độ Dương.
Như vậy ta thấy các vùng biển nhiệt đới thuộc Nam Mỹ và tây nam châu
Phi hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của bão là do tại những khu vực này vào
đầu mùa hè nhiệt độ nước trên biển thấp hơn các vùng nhiệt đới khác cùng vĩ độ.
Sở dĩ như vậy vì tại đây tồn tại những dịng biển lạnh, khơng cung cấp đủ năng
lượng cần thiết giúp cho việc hình thành bão.
Trung bình hàng năm trên Trái đất có gần 70 cơn bão nhiệt đới xuất hiện
vào mùa hạ và mùa thu, mùa đông hầu như khơng có bão. Số lượng các cơn bão
này được phân bố chủ yếu như sau:
Ổ bão
I. Đơng bắc Thái Bình Dương
Số cơn bão
10
Tỉ lệ (%)
16
Tây bắc Đại Tây Dương (kể cả biển Caribe và
7
11
7
vịnh Mehico)
II. Tây bắc Thái Bình Dương
III. Vịnh Bengan
22
6
36
10
Biển Arập
IV. Nam Ấn Độ Dương
V. Tây bắc châu Đại dương
2
6
2
3
10
3
Nam Thái Bình Dương
Tổng cộng
7
62
11
100
Như vậy, ổ bão tây bắc Thái Bình Dương ở gần nước ta có số lượng bão
nhiều nhất, chiếm quá 1/3 tổng số cơn bão hàng năm xảy ra trên thế giới.
Hình 2: Khu vực hay xảy ra bão và số bão trung bình hàng năm trên
thế giới
2. Khái niệm về bão và các bộ phận cấu tạo của bão
a. Khái niệm
Bão nhiệt đới là danh từ được dịch từ tiếng anh “tropical cylone” hoặc
“tropical storm”. Theo định nghĩa quốc tế, bão biển nhiệt đới phải có gió mạnh
hơn 63 km/h. Nếu gió yếu hơn 63 km/h gọi là áp thấp nhiệt đới. Nếu gió mạnh
hơn 118 km/h bão được gọi là bão to với cuồng phong. Ngoài ra cịn có bão rất
to hay siêu bão với gió mạnh hơn 241 km/h.
Ở khu vực khác nhau gọi hiện tượng bão bằng thuật ngữ khác nhau, như
“typhoon” được dùng trong vùng biển Đơng và tây bắc Thái Bình Dương;
8
“hurricane” trong vùng Đại Tây Dương và “tropical cylone” trong vùng Ấn Độ
Dương.
Ta có thể định nghĩa bão nhiệt đới một cách dễ hiểu như sau: Bão nhiệt
đới hay xoáy thuận nhiệt đới là một vùng gió xốy, có đường kính rộng hàng
trăm kilomet, hình thành trên vùng biển nhiệt đới. Ở Bắc bán cầu, gió thổi xốy
vào trung tâm theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Tùy theo tốc độ gió mạnh
nhất ở vùng gần trung tâm mà xốy thuận nhiệt đới được phân chia thành áp
thấp nhiệt đới hay bão nhiệt đới:
- Khi gió mạnh nhất vùng gần trung tâm xoáy thuận nhiệt đới đạt từ cấp 6
đến cấp 7 (tức gió từ 39 - 61km/h) thì gọi là áp thấp nhiệt đới.
- Khi gió mạnh nhất vùng trung tâm xoáy thuận nhiệt đới đạt từ cấp 8 trở
lên (trên 63 km/h) thì được gọi là bão nhiệt đới.
b. Các bộ phận cấu tạo của bão
Cấu tạo của bão gồm: Mắt bão (the eye), thành mắt bão (eyewall), dải
mây mưa (rainbands) và lớp mây ti dày đặc phía trên (the dense curius overcast).
Hình 3: Các bộ phận cấu tạo của bão
Mắt bão
Mắt bão thường có hình trụ trịn, đường kính có thể từ 8 – 200 km tùy theo
bão yếu hay mạnh, vùng mắt bão là khu vực gần như lặng gió, quang mây, chỉ có
dịng khơng khí đi xuống chậm và cí nhiệt độ cao hơn các vùng xung quanh.
Thơng thường chỉ có những cơn bão mạnh mới hình thành mắt bão rõ nét.
9
Thành (tường) mắt bão
Xung quanh mắt bão có mây bão dạng thành gần như thẳng đứng làm
thành hình vành khăn có thể cao đến 15 km, dày đến hàng chục km. Gió xốy ở
đây là mạnh nhất, mưa rơi mạnh nhất và tàn phá nguy hiểm nhất.
Dải mây mưa
Vùng này ở phía trên từ mắt bão hướng ra ngồi. Nhìn từ ảnh vệ tinh chụp
từ trên cao vùng này có màu trắng, ở giữa có vịng trịn đen là mắt bão. Phía
dưới vùng mây mù này, bên ngồi mắt bão là các dải mưa hình xoắn cùng chiều
với gió gây ra mưa lớn, lốc mạnh.
c. Phân loại
Ban đầu bão là một vùng áp thấp với dịng khí xốy vào tâm vùng áp thấp
ngược chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu. Trong điều kiện thuận lợi vùng áp thấp
này có thể khơi sâu thêm, gió vùng trung tâm mạnh lên trở thành áp thấp nhiệt
đới và sau đó là bão.
Trong giai đoạn phát triển ổn định có thể thấy mắt bão, khu vực có đường
kính 30 - 40km với khí áp thấp nhất, lặng gió hay gió yếu. Do trong mắt bão có
dịng giáng nên nhiệt độ ở đây cao hơn xung quanh, ít mây hay quang mây.
Trên ảnh mây vệ tinh, màn mây trong bão trong giai đoạn đầu là sự tập
trung của các đám mây tích và vũ tích lớn, sau một thời gian có thể các tập hợp
mây tích này có thể tạo thành dải mây có dạng xốy về phía trung tâm.
Trong giai đoạn trưởng thành mắt bão mới xuất hiện dưới dạng một hay
hai chấm đen ở trung tâm bão.
Theo tốc độ gió mạnh nhất ở vùng gần trung tâm xoáy thuận nhiệt đới, tổ
chức khí tượng thế giới WMO quy định phân loại xốy thuận nhiệt đới thành:
- Áp thấp nhiệt đới (tropical depression): là xốy thuận nhiệt đới với
hồn lưu mặt đất giới hạn bởi một hay một số đường đẳng áp khép kín và tốc độ
gió lớn nhất ở gần vùng trung tâm từ 10,8 - 17,2m/s (cấp 6 - 7).
10
- Bão nhiệt đới (tropical storm): là xoáy thuận nhiệt đới với các đường
đẳng áp khép kín và tốc độ gió lớn nhất ở vùng gần trung tâm từ 17,2 - 24,4m/s
(cấp 8 - 9).
- Bão mạnh (severe tropical storm): là xốy thuận nhiệt đới với tốc độ
gió lớn nhất vùng gần trung tâm từ 24,5 - 32,6m/s (cấp 10 - 11).
- Bão rất mạnh (typhoon/hurricane): là xoáy thuận nhiệt đới với tốc độ
gió lớn nhất vùng gần trung tâm trên 32,7m/s (trên cấp 11).
II. Cơ sở thực tiễn
Bão nhiệt đới là một hiện tượng thiên tai nguy hiểm, có sức tàn phá mạnh
mẽ gây nên nhiều thiệt hại nghiêm trọng về người và của, ảnh hưởng lớn đến đời
sống nhân dân. Theo ước tính thiệt hại do bão lũ gây ra ở vùng nhiệt đới tính
trong thời gian từ năm 1870 - 1970 thiệt hại tới 1.500 triệu USD về tài sản và
trên 5.000 người thiệt mạng mỗi năm, con số này ở Mỹ là 300 triệu USD về tài
sản mỗi năm, đặc biệt có trường hợp trên 2 tỉ USD (cơn bão Betxi 9/1965), cơn
bão Vera (9/1969) đã làm Nhật thiệt hại trên 1.280.000.000 USD, 5000 người
chết, 36.000 người bị thương và đổ 140.000 ngôi nhà. Và mới đây nhất là cơn
bão Haiyan (8/11/2013) đã đổ bộ vào Philippin làm gần 3000 người chết, thiệt
hại hơn 14,4 tỷ USD, và đây được cho là cơn bão lớn nhất hành tinh. Phillipin là
một trong những nước phải hứng chịu nhiều bão nhất thế giới, trung bình có tới
19 cơn bão trong một năm.
Những số liệu trên đã phần nào cho chúng ta thấy mức độ nguy hại của
bão nên từ trước đến nay đã có rất nhiều tài liệu và cơng trình nghiên cứu về các
vấn đề như: sự hình thành, đường đi, quá trình phát triển… cũng như cách dự
báo và phòng chống bão nhằm hạn chế tối đa những hậu quả mà bão gây ra.
11
PHẦN II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÃO NHIỆT ĐỚI
I. Điều kiện hình thành
Như chúng ta đã biết bão nhiệt đới hình thành, hoạt động trong các vĩ độ
nhiệt đới (khoảng 5 – 200 vĩ) và có ảnh hưởng trên một diện rộng. Tuy nhiên để
hình thành một cơn bão cần hội tụ đầy đủ những điều kiện sau:
Palmen (1956), đưa ra 3 điều kiện cơ bản cho sự hình thành bão:
1. Khu vực đại dương có diện tích đủ lớn với nhiệt độ mặt biển cao (26 –
270C) bảo đảm nước biển bốc hơi mạnh cung cấp năng lượng ngưng kết lớn cho
hệ thống bão.
2. Thơng số Cơriolis có giá trị đủ lớn tạo xốy. Bão thường hình thành
trong đới giới hạn bởi vĩ độ 5 - 200 ở hai bên xích đạo.
3. Dịng cơ bản có độ đứt thẳng đứng của gió yếu, bảo đảm sự tập trung
của dịng ẩm vào khu vực bão trong thời gian đầu hình thành bão.
Riehl (1948) bổ sung thêm hai điều kiện:
1. Ở trên cao, trường khí áp phải phân kì để bảo đảm sự giải tỏa khối
lượng khơng khí hội tụ ở mặt đất và duy trì bão. Điều này thường được thỏa
mãn ở miền nhiệt đới vì từ mực 500mb trở lên, nhất là tại mực 200 - 300mb
thường xuyên tồn tại áp cao cận nhiệt.
2. Ở mặt đất phải có nhiễu động áp thấp ban đầu. Những kết quả thống kê
cho thấy 80% các cơn bão có liên quan với dải hội tụ nhiệt đới. Năm dải hội tụ
nhiệt đới ít hoạt động thì cũng ít bão.
Như vậy: có 2 điều kiện tối cần thiết để hình thành bão
+ nhiệt độ tương đối cao
+ lượng hơi nước dồi dào
II. Cơ chế hình thành
Bão được ví như một chu trình sống, được nuôi dưỡng và chết đi. Đại
dương tại các vùng nhiệt đới (điển hình là Thái Bình Dương), gần xích đạo, có
12
nhiều ánh nắng Mặt Trời, chính là người mẹ hình thành và sinh ra bão, do đó gọi
là bão nhiệt đới.
1. Cơ chế hình thành một cơn bão nói chung
Muốn sản sinh ra một cơn bão cần có 2 điều kiện chủ yếu là nhiệt độ
tương đối cao và lượng hơi nước dồi dào.
Khi ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống sẽ làm nước biển bốc hơi tạo ra trên
mặt biển một lớp khơng khí ẩm. Nếu cường độ chiếu sáng càng lớn thì tốc độ
bay hơi càng mạnh sẽ hình thành một cột khơng khí ẩm bay thẳng lên cao, tạo ra
một áp thấp trên mặt biển. Khi đó khơng khí xung quanh khu vực khơng khí vừa
bốc lên sẽ ào ạt đổ vào đó, dưới tác dụng của lực Côriôlit (lực chuyển động do
sự tự quay của Trái Đất) cột khơng khí sẽ chuyển động xoay trịn. Đây là một
ngun nhân tạo ra cơn bão. Ngồi ra khi khơng khí đi lên gặp lạnh, hơi nước
chứa trong đó ngưng tụ lại đồng thời tỏa ra một nhiệt lượng, điều này càng góp
phần tăng cường dịng khơng khí bốc lên khiến khí áp ở mặt biển lại càng hạ
thấp, cơn xốy khơng khí càng mãnh liệt, thúc đẩy cơn bão hình thành.
2. Cơ chế hình thành bão nhiệt đới
Như trên đã nêu, muốn hình thành một cơn bão cần phải có hai điều kiện
chủ yếu là nhiệt độ tương đối cao và lượng hơi nước dồi dào. Mà vùng biển
nhiệt đới lại hội tụ đầy đủ cả hai điều kiện trên. Mặt biển ở đó có nhiệt độ khơng
khí rất cao do tầng thấp ở đây nhận được nhiệt năng lớn. Đó cũng là nơi giàu hơi
nước nhất địa cầu. Nó sẽ là động lực chính cho sự hình thành và phát triển
những cơn bão. Nếu khơng có nguồn động lực này thì dù cho bão có hình thành
thì cũng tự tan. Một đặc điểm nữa là vùng này cách xích đạo một khoảng cách
khơng xa, do đó lực quay của Trái Đất cũng sẽ ảnh hưởng có lợi cho vịng xốy
khơng khí. Măt khác tình trạng mặt biển nhiệt đới đơn thuần hơn vùng biển tại
các vĩ độ trung bình, khơng khí ở trên cùng một khu vực ln giữ có định những
điều kiện bất biến trong thời gian khá dài để cho bão có thời gian tích góp năng
lượng ấp ủ thành một trận bão.
13
Các cơn bão nhiệt đới thường phát sinh tại các khu vực mặt biển có nhiệt
độ trên 26oC – 27oC. Theo thống kê các vùng biển phát sinh ra bão chủ yếu là
vùng: biển Đơng, phía đơng Philippin, quần đảo tây Ấn Độ và bờ biển
Ơxtrâylia…
3. Các giai đoạn hình thành bão
a. Giai đoạn hình thành
Bão xuất hiện trực tiếp từ mặt biển với sự hình thành của những cụm mây
tích lớn. Tuy nhiên, phần lớn bão được hình thành từ một nhiễu động là áp thấp
nhiệt đới (khoảng 80% trường hợp) sự hình thành bão có liên quan đến dải hội
tụ nhiệt đới. Mặt khác, không phải nhiễu động nào trên dải hội tụ nhiệt đới cũng
phát triển thành bão. Quá trình khơi sâu của áp thấp thường diễn ra chậm
khoảng vài giờ, đủ để gió tản mạn trong khu vực rộng lớn được sắp xếp lại, tạo
thành các dịng khí xốy hội tụ đưa khơng khí nóng ẩm vào tâm. Cũng có trường
hợp mắt bão hình thành chỉ trong 24 giờ. Trong giai đoạn hình thành, giai đoạn
áp thấp nhiệt đới, gió có cường độ bão chỉ thấy ở mức thấp. Và khi tốc độ gió
cực đại tại vùng trung tâm vượt quá 17,2 m/s, áp thấp nhiệt đới trở thành bão.
Các giai đoạn phát triển của bão được thể hiện rất rõ trên các ảnh vệ tinh.
Hình 4: Ảnh vệ tinh của một cơn bão nhiệt đới trong giai đoạn hình
thành ngồi khơi Philippin (13/11/2013).
b. Giai đoạn trẻ
Khơng phải tất cả các xốy thuận nhiệt đới đạt tốc độ gió cấp bão trong
giai đoạn hình thành đều phát triển thành bão, nhiều xoáy thuận tan đi sau 24
giờ. Một số khác di chuyển trên một khoảng cách lớn như là một áp thấp nhiệt
đới. Nếu có sự tăng cường thì khí áp thấp nhất giảm nhanh xuống dưới 1000 mb.
14
Gió có cường độ bão hình thành một dải bao quanh trung tâm xốy. Mơ hình
mây biến đổi từ dải đường tố sang dạng dải xốy về phía trung tâm. Ở phía dưới
thấp, dịng hội tụ vào tâm có thể chưa bao quát phạm vi lớn nhưng ở trên cao có
thể có dịng phân kỳ từ tâm xốy.
c. Giai đoạn chín muồi
Đặc điểm của giai đoạn này là khí áp ở tâm khơng tiếp tục giảm và tốc độ
gió cực đại cũng ngừng tăng lên. Phạm vi hoàn lưu bão với tốc độ gió sức bão
mở rộng. Giai đoạn chín muồi, có khi kéo dài đến một tuần. Nếu trong giai đoạn
trẻ phạm vi gió mạnh sức bão chỉ giới hạn trong phạm vi bán kính 30 - 50 km thì
trong giai đoạn này có thể mở rộng trên 300 km. Khu vực thời tiết xấu nhất nằm
ở phía phải so với hướng dịch chuyển của bão.
Quy mô của bão trong giai đoạn chín muồi biến đổi rất lớn. Thậm chí khi
khí áp ở tâm bão thấp hơn 950 mb, bán kính bão có khi chỉ là 100 đến 200 km.
Nếu khí áp tính trung bình đồng đều là 1000 mb cho tồn khu vực bão thì khối
lượng bão là 3x1012 tấn. Ngược lại, với cơn bão có khí áp tương tự có bán kính
1000 km thì khối lượng của nó là 3x10 13 tấn. Khối lượng này ngang với khối
lượng của áp thấp Alêut. Bão trong giai đoạn chín muồi cũng trải qua các thời kỳ
tăng cường và suy yếu khơng đều, kéo dài trong vài ngày, thường đó là trương
hợp bão tương tác với hồn lưu ơn đới. Sự biến đổi ngắn hạn của tốc độ gió
chừng 10% trong khoảng 1 giờ.
Hình 5: Ảnh vệ tinh cơn bão Haiyan (10/11/2013) trong giai đoạn chín muồi
15
d.. Giai đoạn tan rã
Khi bão di chuyển vào đất liền do điều kiện địa hình, lực ma sát tăng lên và
nhất là khả năng cung cấp ẩm cho bão bị mất đi nên kích thước của bão giảm đi
rất nhanh. Sau một thời gian ngắn (từ 1 đến 2 ngày) thì bão tan rã hồn tồn, đơi
khi có thể tồn tại dưới dạng một áp thấp nhiệt đới và cho mưa lớn trên một phạm
vi rộng. Trên biển, bão cũng có thể bị tan rã khi gặp vùng nước lạnh như ở tây bắc
Thái Bình Dương. Trên đất liền và trên biển bão có thể di chuyển vịng quanh rìa
cao áp cận nhiệt và đi vào miền ơn đới, khơng khí lạnh xâm nhập vào khu vực
bão, hệ thống front xuất hiện và bão trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới.
III. Sự di chuyển của bão
Sự hình thành và phát triển của bão là một quá trình phức tạp. Bão được
hình thành từ một nhiễu động nhiệt đới tương đối nhỏ, mở đầu từ một xốy khép
kín với gió yếu và khí áp ở tâm chưa xuống dưới 1000mb. Xốy đó nếu tiếp tục
khơi sâu thì trong khoảng vài ngày thậm chí chỉ cần 12 giờ sẽ hình thành một hệ
gió xốy rõ rệt. Nếu gió xốy tiếp tục mạnh lên, khí áp xuống dưới 1000mb, nó sẽ
hình thành hệ thống mây bão theo hình xoắn đi với những dải mưa rào, gió mạnh.
Tốc độ di chuyển của một cơn bão từ 10 -15 km/h. Tuy nhiên, có những
cơn bão di chuyển rất chậm hoặc cũng có những cơn bão di chuyển rất nhanh,
đường đi rất phức tạp.
Qũy đạo của một cơn bão được hiểu là đường nối các vị trí liên tiếp của
cơn bão qua các giai đoạn tồn tại của nó. Vị trí của bão được xác định theo
trường áp, trường gió và theo ảnh mây vệ tinh.
Dạng parabol là đặc trưng của quỹ đạo bão quy định bởi cơ chế bão di
chuyển theo dòng dẫn đường, dịng khơng chịu ảnh hưởng nhiễu động của bão ở
rìa hướng về phía tây nam cực tây và tây bắc của cao áp cận nhiệt. Tuy nhiên
nhiều cơn bão chỉ đi theo dòng dẫn trong một thời gian sau đó đổ bộ vào đất liền
và tan đi. Một số cơn bão mạnh có nội lực lớn chúng có thể di chuyển theo nhiều
dạng quỹ đạo khác nhau có khi thắt nút một hay nhiều lần.
16
Đường đi của bão Parma (dạng thắt nút)
Đường đi của bão Xangsane
(dạng đường thẳng)
Hình 6: Các dạng đường đi của bão
Đường đi của bão Ike
(dạng parabol)
IV. Đặt tên cho bão
Trong vùng nhiệt đới bão là một hiện tượng thiên tai phổ biến và xuất
hiện với tần suất lớn.
Ở Việt Nam trong mùa bão hàng năm có thể có tới 9 – 10 cơn bão nên rất
khó khăn cho việc dự báo. Do đó, để tạo thuận lợi cho việc liên lạc giữa các nhà
dự báo thời tiết và công chúng trong việc theo dõi và cảnh báo, tránh nhầm lẫn
giữa các cơn bão người ta đã đặt tên cho các cơn bão.
17
Việc đặt tên cho các cơn bão có lịch sử cách đây từ nhiều thế kỉ. Người ta
cho rằng tên của các bão lần đầu tiên xuất hiện là do một nhà dự báo thời tiết của
Australia. Ông đặt tên bão theo tên “của những chính trị gia mà ơng ghét nhất”.
Trong Thế chiến II, các cơn bão nhiệt đới ở Thái Bình Dương được đặt
tên khơng chính thức theo tên của phụ nữ. Nguyên tắc bất thành văn này do
đoàn dự báo thời tiết của Lục và Hải quân Mỹ đề ra và thường lấy tên vợ hoặc
bạn gái của các nhà dự báo. Từ năm 1950 đến 1952, các cơn bão ở bắc Đại Tây
Dương được đặt tên theo thứ tự bảng chữ cái (A, B, C ...), nhưng từ năm 1953,
cơ quan khí tượng Mỹ lại chuyển sang dùng hệ tên phụ nữ. Năm 1979, tổ chức
Khí tượng thế giới (WMO) và Cơ quan khí tượng Mỹ (NWS) thống nhất sử
dụng tên bão gồm cả tên nữ và nam giới.
Mỗi năm tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) sử dụng danh sách gồm 21
tên gọi thông dụng (xếp theo thứ tự abc và bỏ 5 mẫu tự q, u, x, y và z) tương
ứng với số trận bão trung bình xuất hiện trong mùa giơng bão kéo dài từ giữa
tháng 6 đến cuối tháng 11. Ví dụ Rita là cơn bão thứ 17 ở Đại Tây Dương trong
năm nay. Nếu số cơn bão vượt quá 21, tổ chức WMO sẽ chuyển sang dùng các
mẫu tự trong bảng chữ cái Hy Lạp. Nghĩa là Wilma được dùng để gọi tên cơn
bão thứ 21 (nếu có trong năm nay) thì tiếp theo đó sẽ là bão Alpha và Beta...
Danh sách các tên bão được tái sử dụng 6 năm một lần (chẳng hạn, năm 2011,
WMO sẽ trở lại sử dụng danh sách tên bão năm 2005).
WMO có thể loại một số tên bão ra khỏi danh sách để các cơn bão mới
không gợi lại những ký ức buồn. Người ta gọi đó là “cho về hưu”, Nanette
Lomarda - Trưởng ban bão nhiệt đới ở WMO nói: “Khi bão gây ra tổn thất lớn
về người và kinh tế, chúng tôi phải xóa tên gọi đó”. Khi cho một tên bão về hưu
WMO sẽ thay thế bằng một tên khác thuộc cùng phái và bắt đầu bằng chữ cái
của tên đã bị cho nghỉ hưu.
Vừa qua, ủy ban quốc tế thuộc tổ chức Khí tượng thế giới đã quyết định
rút tên năm cơn bão xốy có sức tàn phá mạnh nhất trong năm 2005 nhằm tôn
18
trọng các nạn nhân đã thiệt mạng trong cơn bão này. Quyết định được đưa ra
trong cuộc họp hàng năm của tổ chức này tại San Juan (Puerto Rico).
Năm tên gọi bão Dennis, Katrina, Rita, Stan và Wilma đã được đặt cho
năm trong số 27 cơn bão nhiệt đới và 15 cơn bão xoáy đã quét qua bờ biển Đại
Tây Dương trong năm 2005. Những cái tên này sẽ không cịn được sử dụng nữa,
nhằm tơn trọng các nạn nhân thiệt mạng trong các cơn bão này. Năm tên cơn bão
này sẽ được thay thế bằng tên Don, Katia, Rina, Seanet Whitney trong năm
2011. Năm 2005 đã trở thành năm có số tên bão kỷ lục bị rút chỉ trong một mùa
mưa bão duy nhất, đến nay có 67 tên được rút ra khỏi danh sách.
Các cơn bão ở lòng chảo đơng bắc Thái Bình Dương được đặt theo tên
phụ nữ từ năm 1959 - 1960. Năm 1978, cả hai loại tên đều được sử dụng. Từ
ngày 1/1/2000, các cơn bão ở lịng chảo tây bắc Thái Bình Dương (khu vực mà
Việt Nam nằm trong đó) được đặt theo một danh sách các tên mới lạ. Những tên
mới bổ sung bao gồm các tên châu Á, được lấy từ các nước và vùng lãnh thổ là
thành viên của WMO trong khu vực. Một trong số 14 thành viên cung cấp 10 tên
tạo thành danh sách 140 tên bão.
Những tên này có hai điều khác biệt so với tên bão ở các nơi trên thế giới.
Thứ nhất, hầu hết chúng không phải là tên riêng của người mà thường là tên hoa,
động vật, chim, cây cỏ hay thậm chí tên món ăn. Thứ hai, các tên này không
được đặt tuần tự theo thứ tự chữ cái mà theo thứ tự chữ cái của tên các nước.
Các cơn bão đang hình thành ở khu vực này sẽ được trung tâm bão nhiệt
đới Tokyo thuộc cơ quan Khí tượng Nhật Bản đặt tên.
Ví dụ: Trước bão Damrey (Việt Nam gọi là bão số 7), cơn bão Saola, lấy
tên của một loài động vật quý hiếm của Việt Nam, đã tràn vào Nhật Bản.
Dưới đây là các tên được dùng để đặt cho bão ở tây bắc Thái Bình Dương:
19
Nước/Lãnh thổ
Campuchia
Trung Quốc
Bắc Triều Tiên
HK, Trung Quốc
Nhật Bản
Lào
Macau
Malaysia
Micronesia
Philippines
Hàn Quốc
Thailand
Mỹ
Việt Nam
Campuchia
Trung Quốc
Bắc Triều Tiên
HK, Trung Quốc
Nhật Bản
Lào
Macau
Malaysia
Micronesia
Philippines
Hàn Quốc
Thailand
Hoa Kì
Việt Nam
Tên bão
Damrey Kong-rey Nakri
Longwang Yutu
Fengshen
Kirogi
Toraji
Kalmaegi
Kai-Tak Man-yi
Fung-wong
Tenbin
Usagi
Kanmuri
Bolaven Pabuk
Phanfone
Chanchu Wutip
Vongfong
Jelawat
Sepat
Rusa
Ewinlar Fitow
Sinlaku
Bilis
Danas
Hagupit
Gaemi
Nari
Changmi
Prapiroon Wipha
Mekkhala
Maria
Francisco Higos
Saomai
Lekima
Bavi
Bopha
Krosa
Maysak
Wukong Haiyan
Haishen
Sonamu Podul
Pongsona
Shanshan Lingling Yanyan
Yagi
Kaziki
Kujira
Xangsane Faxai
Chan-hom
Bebinca Vamei
Linfa
Rumbia Tapah
Nangka
Soulik
Mitag
Soudelor
Cimaron Hagibis
Imbudo
Chebi
Noguri
Koni
Durian
Rammasun Morakot
Utor
Chataan Etau
Trami
Halong
Vamco
Krovanh Sarika
Dujuan Haima
Maemi
Meari
Choi-wan Ma-on
Koppu
Tokage
Ketsana Nock-ten
Parma
Muifa
Melor
Merbok
Nepartak Nanmadol
Lupit
Talas
Sudal
Noru
Nida
Kulap
Omais
Roke
Conson Sonca
Chanthu Nesat
Dianmu Haitang
Mindule Nalgae
Tingting Banyan
Kompasu Washi
Namtheun Matsa
Malou
Sanvu
Meranti Mawar
Rananin Guchol
Malakas Talim
Megi
Nabi
Chaba
Khanun
Aere
Vicete
Songda Saola
Ở vùng bắc Ấn Độ Dương, các bão nhiệt đới không được đặt tên.
Tại tây nam Ấn Độ Dương, bão lần đầu có tên vào mùa 1960 - 1961.
20
Vùng Australia và nam Thái Bình Dương, tên phụ nữ được lấy làm tên
bão từ năm 1964 và 10 năm sau thì tên của nam cũng được dùng.
V. Cơng tác dự báo bão
Các cơn bão nhiệt đới thường gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với các
quốc gia mà nó đi qua, cả một khu vực rộng lớn có thể trở thành những đống đổ
nát hoang tàn chỉ sau một đêm cơn bão đổ bộ. Nó khơng chỉ gây tổn thất lớn về
kinh tế, làm thiệt hại tính mạng con người mà cịn gây ơ nhiễm mơi trường, bệnh
dịch ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân. Chính vì những lí do đó nên
việc phát hiện, theo dõi và dự báo bão có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1. Phát hiện và theo dõi bão
Bão là một thiên tai nguy hiểm nên qua hàng ngàn năm lao động sản xuất,
đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và giao thông đường biển con
người đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm nhận biết, phán đoán sự phát sinh
của bão. Đến nay, nhiều kinh nghiệm đã được giải thích bằng các kiến thức khoa
học, những kinh nghiệm này chủ yếu dựa vào những thay đổi trạng thái của bầu
trời, mặt biển và những biểu hiện khác thường trong hoạt động sống của một số
sinh vật...
a. Trạng thái bầu trời
Bầu trời quang đãng, khơng khí oi bức, ngột ngạt, lặng gió kéo dài vài ba
ngày, sau đó xuất hiện mây ti tích (một loại mây tầng cao ở độ cao khoảng 7km
trở lên, gồm các đám, màn hoặc lớp mây mỏng khơng có bóng, cấu thành từ
những phần tử rất nhỏ có hình dạng trơng như những hạt hay nếp nhăn) hội tụ về
một hướng chân trời. Sau mây tầng cao xuất hiện mây vũ tích (một loại mây lớn
và đặc, phát triển dữ dội theo chiều thẳng đứng trông như những dãy núi đồ sộ,
giới hạn trên thường nhẵn lì hay dạng tơ sợi, hình dẹt như cái đe, chân mây đen
và có kèm theo mây thấp rách xác xơ), gió tăng dần. Đây là dấu hiệu cho thấy
bão có thể đang di chuyển từ hướng đó tới.
21
Hình 7: Mây ti tích (trái) và mây vũ tích (phải)
Chớp xa xuất hiện liên tục, đều đặn, gây nhiễu âm, cản trở hoạt động của
máy thu thanh. Hướng có chớp sáng nhất là hướng đang có bão hoạt động. Đối
với vùng ven nước ta, trước khi bão tới thường xuất hiện chớp ở hướng đông
nam. Kinh nghiệm này đã được đúc kết thành ca dao:
“Đơng nam có chớp chéo nhau
Thấp sát mặt biển hôm sau bão về”
Ngư dân vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ có kinh nghiệm: sáng sớm
nhìn về phía đơng thấy mây ti tích dạng “vẩy tê tê” di chuyển từ phía đơng về
phía tây là dấu hiệu cho thấy có khả năng một vài ngày tới sẽ có bão, biển sẽ
động mạnh. Kinh nghiệm này khá phù hợp với thực tiễn của mây bão, vì mây ti
tích ở tầng cao thường tỏa rất xa về phía trước bão.
b. Trạng thái mặt biển
Sự xuất hiện của sóng lừng, hướng lan truyền của sóng khơng trùng với
hướng gió là dấu hiệu cho thấy có bão hoạt động ở cách xa hàng trăm km. Nhìn
chung, hướng lan truyền của sóng gần trùng với hướng di chuyển của bão. Tuy
nhiên, sóng lừng có thể khơng xuất hiện ở những vùng biển quá gần bờ hoặc có
nhiều đảo. Mặt biển từ trạng thái lặng chuyển dần sang trạng thái động, mức độ
tăng dần.
22
c. Dấu hiệu khác thường của gió và sinh vật
Nhiều kinh nghiệm đã được đúc kết thành các câu ca dao, tục ngữ về bão
lưu truyền từ bao đời nay, chẳng hạn như:
"Tháng bẩy heo may
Chuồn chuồn bay thì bão"
Hoặc:
"Kiến đắp thành thì bão
Kiến ẵm con chạy ráo thì mưa".
Tháng bẩy trong câu ca dao trên là tháng bẩy âm lịch, thường là tháng tám
dương lịch, là một trong những tháng chính của mùa bão ở miền Bắc nước ta.
Trong tháng này, “gió bắc heo may”, tức là gió ở vùng phía trước của bão đang
hoạt động ở ngồi biển khơi và có khả năng ảnh hưởng đến đất liền trong vài ba
ngày tới.
Kinh nghiệm dân gian tuy có rất nhiều, song không phải mọi kinh nghiệm
đều đúng và sử dụng được. Hiện nay, dưới sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì
việc phát hiện, theo dõi bão đã được tiến hành một cách khoa học và chính xác
tạo rất nhiều thuận lợi cho cơng tác phịng chống bão.
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, bão được phát hiện và theo dõi thơng
qua việc phân tích các bản đồ thời tiết dựa trên các số liệu khí áp, mây, mưa…
thu nhận được từ lưới trạm quan trắc khí tượng ven bờ biển, trên các hải đảo và
tàu biển trên các khu vực rộng lớn hoặc toàn cầu.
Đến nay, các trạm quan trắc khí tượng khơng ngừng hồn thiện và các tiến
bộ kỹ thuật, đặc biệt là các vệ tinh khí tượng cung cấp thường xuyên các ảnh
mây đen trắng hoặc ảnh mầu có độ phân giải cao bao trùm tồn bộ trái đất, các
cơn bão có thể được phát hiện ngay từ khi chúng mới hình thành ở giữa đại
dương cách xa đất liền hàng ngàn km. Ngoài ra, khi bão cách bờ biển vài trăm
km, rađa thời tiết cũng là phương tiện hữu để theo dõi bão. Hiện nay, các cơn
bão được các cơ quan khí tượng quốc tế, khu vực (trong đó có Trung tâm Khí
tượng Thủy văn Quốc gia) theo dõi sát sao từ khi bắt đầu hình thành, trong suổt
23
q trình di chuyển, phát triển đến khi hồn tồn tan rã. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp bão phát sinh ngay sát bờ biển nước ta, di chuyển về hướng tây và
đổ bộ vào đất liền chỉ trong khoảng từ vài giờ tới nửa ngày kể từ khi hình thành.
Trong trường hợp này, thời gian dự báo sớm nhất cũng chỉ được từ vài giờ đến
nửa ngày.
Ví dụ như ở nước ta các mạng lưới quan trắc khí tượng cũng rất phát
triển. Hiện có 6 trạm ra đa thời tiết gồm 8 ra đa phục vụ phát hiện, theo dõi bão
và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác, trong đó có 03 ra đa thời tiết TRS 2730 do Pháp chế tạo đặt tại Phù Liễn (Hải Phòng), Vinh (Nghệ An) và Việt Trì
(Phú Thọ), 03 ra đa thời tiết DOPPLER do Hoa Kỳ chế tạo đặt tại Tam Kỳ
(Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hoà) và Nhà Bè (Tp. Hồ Chí Minh), 02 ra đa
thời tiết MRL - 5 do Liên Xô (cũ) chế tạo, đặt tại Phủ Liễn (Hải Phòng) và Vinh
(Nghệ An). Mặt khác, ở nước ta hiện cịn có 17 trạm khí tượng thủy văn biển
quan trắc các yếu tố khí tượng và các yếu tố hải dương: sóng, mực nước biển,
thủy triều v.v... Ngồi ra, cịn có 1 tàu nghiên cứu biển phục vụ điều tra khảo sát
biển và1 trạm thu số liệu vệ tinh địa tĩnh GMS và vệ tinh quỹ đạo cực NOOA
với độ phân giải cao ở Hà Nội.
Đài Khí tượng thuỷ văn khu
Một trạm khí tượng ở Việt Nam
vực Đơng Bắc
Hình 8: Các địa điểm quan trắc khí tượng
2. Dự báo bão
24
a.. Trên thế giới
Để phục vụ cho công tác dự báo thời tiết người ta sử dụng thang đo sức
gió, hiện nay chủ yếu thường sử dụng thang sức gió Beaufort và thang bão Saffir
- Simpson.
Thang sức gió Beaufort là thang đo kinh nghiệm về sức gió, chủ yếu dựa
vào tình trạng của mặt biển hay trạng thái của sóng. Thang này được tạo ra bởi
sĩ quan hải quân người Ailen - Sir Francis Beaufort vào năm 1805. Sau đây là
bảng mơ tả cụ thể thang cấp gió Beaufort:
Thang độ và miêu tả thang sức gió Beaufort
Cấp
Beaufort
0
1
2
3
4
5
Vận tốc gió ở
10 m trên mực
nước biển (hải
lý/km/h/mph)
Độ cao
Mơ
sóng
tả
(m)
Nhỏ hơn 1/1
Êm
đềm
2/1 - 6/2
Gió
rất
nhẹ
5/7 – 11/6
9/12 – 19/11
Gió
thổi
nhẹ
vừa
phải
Gió
nhẹ
nhàng
13/20 - 29/15
Gió
vừa
phải
19/30 - 39/22
Gió
mạnh
vừa
phải
0
Tình trạng
mặt biển
Phẳng lặng
Tình trạng
đất liền
Êm đềm
Chuyển động
Sóng lăn tăn, khơng của gió thấy
0,1
có ngọn.
được trong
khói.
0,2 Sóng lăn tăn.
0,6 Sóng lăn tăn lớn.
Cảm thấy gió
trên da trần.
Tiếng lá xào
xạc.
Lá và cọng
nhỏ chuyển
động theo gió.
Bụi và giấy rời
bay lên.
Những cành
cây nhỏ
chuyển động.
1
Sóng nhỏ.
2
Sóng dài vừa phải
Cây nhỏ đu
(1,2 m). Có một chút
đưa.
bọt và bụi nước.
25