Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Từ quan điểm của hồ chí minh về xây dựng nền văn hóa việt nam, bạn hãy cho biết đảng nhà nước cần phải làm gì để đưa ra giải pháp xây dựng 1 nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.01 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP. HỒ CHÍ MINH
⋇⋇⋇⋇ δ ⋇⋇⋇⋇

TIỂU LUẬN
Đề: Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam, bạn hãy cho biết Đảng & Nhà nước cần phải làm gì để đưa ra
giải pháp xây dựng 1 nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Từ chuyên ngành đào tạo của mình, bạn có thể đóng góp gì cho
việc xây dựng nền văn hóa VN?

SV:

Lê Trần Thanh Thuận

LỚP HP :

TP. HCM 5/2018

000005005


BÀI LÀM
Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt
xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lỗi lạc, danh nhân văn
hóa thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.

Nội dung


I/ Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa VN:
1.

Khái niệm văn hóa theo quan điểm HCM:

a.

Định nghĩa văn hóa:

Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là những giá trị vật chất và
giá trị tinh thần, tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà lồi người sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn.
Nghĩa hẹp: Là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh kể từ sau Cách mạng
Tháng Tám.

b.

Quan điểm của HCM về xây dựng nền VH:

1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.


2.Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân

trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5.Xây dựng kinh tế.
2.

Vị trí, vai trị của văn hóa:

- Một là, văn hóa là đời sống tinh thấn của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng
Văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ
yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau, được
coi trọng như nhau.
Trong quan hệ với chính trị: Chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới
được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc
xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng đề
có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.
- Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
+Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trị to lớn như một động lực,
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị:
Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng
và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền
văn hóa mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động văn hóa.
+Kinh tế và chính trị cũng phải có văn hóa. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các
giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
3.
a)


Quan điểm về TÍNH CHẤT của nền VH:
Tính dân tộc:


Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa Việt Nam, trước hết phải có gốc rễ từ dân tộc,
gắn với dân tộc, thể hiện được “cốt cách” dân tộc. Đó là những giá trị, tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được xây đắp qua hàng nghìn năm lịch
sử; nền văn hóa mới Việt Nam phải phát huy cao độ lịng u nước, tinh thần
đồn kết, nhân ái, dũng cảm, bất khuất, ý chí độc lập, tự cường,... Những giá trị
đặc sắc của văn hóa dân tộc khơng chỉ được thể hiện ở nội dung mà còn biểu
hiện qua hình thức cũng phải thật độc đáo, mang tính dân tộc sâu sắc.
b)

Tính khoa học:

Theo Hồ Chí Minh, tính khoa học của nền văn hóa dân tộc bao gồm cả ý nghĩa
tiên tiến của CNXH lẫn ý nghĩa hiện đại, từ tư duy, lý luận khoa học, đội ngũ
trí thức tiêu biểu cho một nền công nghiệp, khoa học, nghệ thuật hiện đại, đội
ngũ công nhân... đến đỉnh cao văn hóa . Khoa học là sự tiếp thu tinh hoa, trí tuệ
của thời đại và đỉnh cao văn hóa nhân loại. Một trong những nội dung của tính
khoa học là phải biết chọn lựa, “gạn đục khơi trong”, biết chắt lọc, lấy ra
những cái gì cần thiết và có ích.
Người thường nhấn mạnh việc tìm hiểu các nền văn hóa trên thế giới để tiếp
thu những tri thức tiến bộ của thế giới để phát triển đất nước. Người yêu cầu tất
cả cán bộ, đảng viên và nhân dân phải khơng ngừng học tập, nâng cao sự hiểu
biết cho mình và cho những người khác. Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh sự cần
thiết và tầm quan trọng của việc học tập lý luận, để mỗi người có phương pháp
tư duy khoa học, làm việc hiệu quả.
c)


Tính đại chúng:

Theo Hồ Chí Minh, tính đại chúng của nền văn hóa mới trước hết phải là nền
văn hóa vì nhân dân lao động. Nhân dân chính là sức sống của nền văn hóa
mới. Bởi, nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng
tạo ra giá trị tinh thần. Sáng tác của nhân dân được Hồ Chí Minh đánh giá
là “những hòn ngọc quý”. Nhân dân cung cấp và là tư liệu quý cho văn nghệ sĩ
sáng tạo, đồng thời họ cũng chính là những người thẩm định, đánh giá khách
quan, chính xác các sản phẩm văn hóa, văn nghệ.
Theo Người, điều quan trọng nhất, nhân dân phải là những người được hưởng
thụ các giá trị văn hóa. Người thường căn dặn, những cán bộ làm công tác văn
hóa nghệ thuật phải hịa mình với thực tiễn cuộc sống để nắm bắt tâm tư tình
cảm, nguyện vọng của nhân dân để các sáng tác của mình phục vụ thiết thực
cho cuộc sống của nhân dân. Người cũng thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn lối
sáng tác xa rời nhân dân, khơng phù hợp với trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của


nhân dân. Tóm lại, văn hóa phải “từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần
chúng”, trên cơ sở đó để định hướng giá trị cho quần chúng.
3.
Quan điểm về chức năng của văn hóa: văn hóa có ba chức năng chủ
yếu sau:
- Bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp, đồng thời loại bỏ
tư tưởng sai lầm, tình cảm thấp hèn. Phải có tư tưởng phục vụ cho quốc
dân “có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung mà qn lợi ích riêng”.
- Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí. Văn hóa ln gắn với dân trí, khơng
có văn hóa thì khơng có dân trí.Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang,
phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Phải làm cho người dân biết
đọc, biết viết tiếp điến là hiểu biết về chính trị, kinh tế, văn hóa… Từng bước
nâng cao trình độ học vấn, chun mơn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật. Nhưng

cũng tất cả là vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì “dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”.
- Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh, hướng con
người tới cái chân, thiện, mỹ để hồn thiện bản thân. Có những phẩm chất cho
mọi con người Việt Nam thời đại mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư và cịn nhiều lĩnh vực khác nhau: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy
thuốc… Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh về đạo đức, chính trị của cán bộ
Đảng viên và được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,
hoạt động, cư xử của con người. Văn hóa phải tham gia chống được tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống lạm dụng quyền lực, tham quyền cố
vị dẫn tới thái hóa biến chất con người.
4.

Quan điểm về 1 số lĩnh vực văn hóa:

a) Văn hóa Giáo dục:
- Phê phán nền văn hoá phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế, bất
bình đẳng, trọng nam khinh nữ) và nền văn hố thực dân ( ngu m ̣i, đời bại,
xảo trá)
- Đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh về giáo dục,
định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà.


-  Mục tiêu của VH giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của VH bằng giáo
dục, có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người tồn diện vừa
có đức vừa có tài, những cơng dân biết làm và đủ điều kiện làm chủ để xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đó là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực
hiện cơng nơng trí thức hố, trí thức cơng nơng hố, xây dựng đội ngũ trí thức
ngày càng đơng đảo, trình độ ngày càng cao.

-  Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với
những bước phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và
học chữ mà phải dạy và học làm người.
-  Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với
lao động, phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam. Có
như vậy, văn hố giáo dục mới có tính hướng đích đúng đắn, rõ ràng, thiết
thực.
-  Phải tạo mơi trưịng giáo dục lành mạnh, -dân chủ trường phải ra trường, lớp
phải ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà
trường, gia đình và xã hội trong giáo dục.
-  Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người: học suốt đời; phải coi trọng việc tự
học, tự đào tạo và đào tạo lại.
b) Văn hóa văn nghệ:
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá là đỉnh cao của đời sống
tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong lịch sử phát triển, dân tộc
Việt Nam là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và văn nghệ cũng đã trở thành nhu
cầu không thể thiếu của nhân dân ta.
- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén
trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
Quan điểm trên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày càng đông
đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình trên
tinh thần: nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Và
hướng vào việc “phò chính trừ tà”, “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân”, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới, xã hội
mới.


Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã tạo nên một nền văn nghệ cách mạng và
đội ngũ các nghệ sĩ cách mạng. Nó đặt văn nghệ cách mạng của ta vào vị trí
tiên phịng chống đế quốc thực dân của thế kỷ XX.

- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân.
Thực tiễn đời sống nhân dân là lao động, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã
hội mới. Văn nghệ phản ánh và hướng thực tiễn ấy phát triển theo quy luật của
cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến đổi, do con người tạo ra,
đồng thời cũng tạo ra sự hoàn thiện của con người chứ không phải là cái đẹp
siêu thực, vĩnh hằng. Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh u cầu chiến sĩ văn
nghệ phải thật hồ mình với quần chúng, nguồn nhựa sống sáng tác của nhà
văn là từ nhân dân. Nhà văn qn điều đó thì nhân dân cũng quên nhà văn.
-  Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước,
của dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp
cách mạng của nhân dân.
c) Văn hóa đời sống:
- Đạo đức mới:
Thực hành đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng
định:“ Nếu khơng giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân „, “ Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức
là nhen lửa cho đời sống mới’’- Hồ Chí Minh
- Lối sống mới:
Sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng lối sống mới, Hồ Chí Minh địi hỏi
phải: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi
người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Đó
là 5 cách phải sửa đổi khơng chỉ với mỗi người mà cịn cho cả tập thể, cộng
đồng.
Xây dựng lối sống mới khơng hồn tồn phụ thuộc vào phương tiện sống
nhiều hay ít, giản đơn hay sang trọng mức sống cao hay thấp mà là ở chất văn
hố của lối sống. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách sống khiêm tốn, giản
dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời



gian, ít lịng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ
với nhân dân, bạn bè đồng chí thì cởi mở chân tình, ân cần tế nhị, giàu lòng
yêu thương quý mến con người, trân trọng con người; đối với mình thì chặt chẽ
đối với người thì khoan dung, độ lượng. Làm việc thì quần chúng, tập thể, dân
chủ khoa học.
- Nếp sống mới:
Nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói
quen, phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ
tục lâu đời của dân tộc. Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng
phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà khơng xấu,
nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, Cái gì
mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung.
Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát
triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục
tập quán cũ lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong tục tập qn khơng
cịn phù hợp, loại bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là cơng việc rất
khó khăn, phức tạp. Hồ Chí Minh đã khuyến cáo: “Thói quen rất khó đổi. Cái
tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen, người ta cho là
thường”. Vì vậy, phải nâng cao nhận thức, phải phấn đấu kiên trì mới có thể
xây dựng được những thói quen, phong tục tập quán mới, thực hiện đời sống
mới.

II/ Đảng và Nhà nước vận dụng quan điểm của HCM để đưa ra giải pháp
xây dựng 1 nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc:
1. Thực trạng nền văn hóa VN hiện nay:
a)

Thành tựu:

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng nền KT thị trường, hội nhập KT đã và đang tạo ra

những chuyển biến toàn diện và sâu sắc về VH, XH: xuất hiện hàng loạt nhu
cầu mới phong phú và đa dạng của nhân dân, đi liền với những điều chỉnh về
chuẩn mực giá trị VH - XH phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế; những đòi hỏi ngày càng cao về nguồn đầu tư, phương tiện, công nghệ phục
vụ các hoạt động VH - XH. Kinh tế thị trường đã giải phóng tiềm năng của XH


và huy động các tiềm năng vào sự nghiệp XD, phát triển đất nước. Trong KT
thị trường, hội nhập KT quốc tế tính tích cực của cơng dân được phát huy,
đang đẩy lùi tâm lý ỷ lại, trông chờ, dựa dẫm đã từng tồn tại dai dẳng trong cơ
chế cũ; thế hệ trẻ có ý thức vươn lên lập thân, lập nghiệp; mặt bằng dân trí
được nâng cao, năng lực, sở trường cá nhân được khuyến khích; khơng khí dân
chủ, cởi mở trong XH tăng lên.
Phong trào hướng về cội nguồn, tưởng nhớ anh hùng dân tộc, đền ơn, đáp
nghĩa người có cơng, giúp đỡ người hoạn nạn ngày càng phát triển; cuộc vận
động bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, XD nếp sống văn minh, gia đình VH, làng
ấp VH, ngày càng được nhân dân hoan nghênh và tích cực hưởng ứng. Hoạt
động VH, nghệ thuật, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, v.v... có
những bước phát triển mới, cả về số lượng, chất lượng và phát huy tác dụng
ích cực, làm cho đời sống VH trở nên phong phú và sôi động hơn. Các hoạt
động nhân đạo, giáo dục - đào tạo phát triển, VH trở thành nguồn lực quan
trọng thúc đẩy KT tăng trưởng nhanh.
Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ổn định… Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở
ra điều kiện thuận lợi để nước ta phát huy ảnh hưởng tích cực của những giá trị
truyền thống Việt Nam với bè bạn khắp năm châu, đồng thời tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, khoa học cơng nghệ hiện đại để nâng cao tầm vóc của mình
trên trường quốc tế. Những thành quả văn hóa - xã hội trong đổi mới đang cổ
vũ động viên nhân dân ta ra sức phấn đấu để đạt tới mục tiêu "dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh".
b)


Hạn chế:

Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra
trạng thái dao động, hồi nghi, giảm sút lịng tin ở một số người, kể cả một số
cán bộ, đảng viên. Kinh tế thị trường kích thích khát vọng làm giàu, làm giàu
bằng bất cứ giá nào, lấy đồng tiền làm mục tiêu lớn nhất, dẫn đến nhiều kiểu
làm ăn bất chính, với lối sống hưởng lạc, xa hoa, lãng phí, với thái độ lạnh
lùng, giả dối trong ứng xử. Nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội phát sinh đang làm
xói mịn đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh và quan hệ giàu tình nghĩa của
dân tộc ta.
Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đã
xuất hiện tâm lý sùng ngoại, nhiều người đã chạy theo tâm lý thực dụng và cá
nhân cực đoan, ích kỷ, hưởng lạc trong thế giới tư bản. Họ ngộ nhận những giá
trị văn hóa, coi thường những giá trị dân tộc, tiếp nhận xơ bồ mọi thứ văn hóa


ngoại lai không phân biệt hay dở, tốt xấu. Đời sống văn hóa - nghệ thuật cịn
nhiều bất cập, thiếu vắng những tác phẩm lớn tương xứng với sự nghiệp cách
mạng và kháng chiến; có hiện tượng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng,
tách rời văn nghệ với chính trị, xu hướng thương mại hóa, chạy theo thị hiếu
thấp hèn..
Điều đáng quan tâm và nhức nhối, là sự suy thoái về tư tưởng và đạo
đức, lối sống trong một bộ phận khơng ít cán bộ có chức, có quyền. Tình trạng
tham nhũng, hối lộ, sách nhiễu dân chúng, những hiện tượng quan liêu, cửa
quyền, vi phạm quyền làm chủ của dân, không tôn trọng pháp luật đã diễn ra
khá nặng nề; việc chạy theo chức - quyền - danh - lợi, mua quan, bán chức, cơ
hội, bè cánh, mất đồn kết, lời nói khơng đi đơi với việc làm, khơng cịn là hiện
tượng cá biệt, đã gây bất bình trong nhân dân, gây tổn thương đến những giá trị
văn hóa của chủ nghĩa xã hội.


Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng ta ngày càng nhận thức
rõ hơn tầm quan trọng của lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hóa đối với đời
sống xã hội, với sự phát triển bền vững đất nước. Đại hội VI (1986) của Đảng
nêu rõ: “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải tính đến hiệu quả xã hội, tác
động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN và
trình độ thẩm mỹ của nhân dân”
2. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước:
Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế
hoạch phát triển. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng với sự đầu tư của
Nhà nước, sự tham gia của Nhân dân là những nhân tố quyết định tạo ra những
chuyển biến của sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người”
Tuy nhiên, so với những thành quả trên một số lĩnh vực khác thì thành quả
trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lĩnh
vực văn hóa chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, lợi thế của mình để góp phần
phát triển đời sống KT-XH của đất nước. Một trong những lý do cơ bản đó là
cơng tác lãnh đạo, quản lý nền văn hóa cịn nhiều hạn chế. Một số cấp ủy,
chính quyền nhận thức chưa đúng tầm quan trọng của công tác lãnh đạo, quản
lý lĩnh vực văn hóa, do đó, chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầy đủ, quyết liệt
trong lĩnh vực này. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Việc cụ thể hóa,


thể chế hóa nghị quyết của Đảng cịn chậm, thiếu đồng bộ. Cơng tác quản lý
nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí
bng lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và cịn dàn trải”.
Thực trạng trên đang đặt ra những yêu cầu mới và nặng nề trong quá trình xác
lập những giá trị VH mới, đấu tranh đẩy lùi những tiêu cực XH... xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc VH dân tộc với việc tiếp nhận văn hóa

thế giới trong quá trình mở cửa, hội nhập. u cầu đó địi hỏi phải quán triệt
sâu sắc di sản văn hóa HCM. Tăng cường và đổi mới công tác lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân đối
với các hoạt động VH, XH, đồng thời tạo nên sự tham gia tích cực hơn nữa của
tồn XH trong cơng tác này.
Trong thời gian tới, để quán triệt, thực hiện hiệu quả chủ trương, quan điểm
Đại hội XII của Đảng về xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của
đất nước hiện nay, cần chú trọng thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

a)
Nâng cao nhận thức về vai trò của VH đối với sự phát triển những giá
trị XHCN:
Trong bối cảnh ngày nay, cần có sự thống nhất cao về nhận thức trong tồn bộ
hệ thống chính trị và toàn XH về tầm quan trọng của văn hóa cả về lĩnh vực lý
luận, thực tiễn và cơng tác chỉ đạo xây dựng phát triển VH. Định hướng
XHCN trong lĩnh vực VH trở thành một nhu cầu vô cùng bức xúc, nhằm
phòng ngừa nguy cơ chệch hướng XHCN. Đường lối phát triển văn hóa là hình
ảnh phản chiếu bản chất của chế độ XH. Thể hiện bản chất khác nhau giữa chủ
nghĩa tư bản và XHCN, không chỉ ở hệ thống chính trị, hệ thống KT, mà cịn ở
chính sách VH, phát triển VH lành mạnh, phát triển những giá trị cơng bằng,
bình đẳng, nhân đạo, tiến bộ là mục tiêu hướng tới, là nhu cầu tự thân của
chính cơng cuộc đổi mới hiện nay.Xa rời điều đó có nghĩa là chệch hướng xã
hội chủ nghĩa trong lĩnh vực VH.
Đường lối phát triển văn hóa có vị trí và mục tiêu cụ thể của nó, song lại góp
phần phát triển nhiều lĩnh vực khác, cùng tạo thành một hệ chính sách duy trì
xã hội trong trật tự, kỷ cương, văn minh và đảm bảo an ninh chính trị. Xây
dựng và phát triển văn hóa liên quan và tác động chặt chẽ với các lĩnh vực



khác, cùng nhằm đảm bảo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế cho thấy, sai lầm của một chính sách kinh tế đã khó sửa chữa và gây
hậu quả tiêu cực cho xã hội, nhưng dẫu sao vẫn có thể sửa chữa trong một vài
chu kỳ sản xuất dài hay ngắn, cịn sai lầm của một chính sách phát triển văn
hóa thì khơng dễ gì sửa chữa ngay được, có khi tác hại khơng chỉ một thế hệ
mà cả nhiều thế hệ và muốn sửa chữa phải mất vài ba thập kỷ. Chính vì vậy,
xét trên cả khía cạnh nội dung và hình thức, phát triển văn hóa chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng trong q trình đổi mới đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa mà mỗi tổ chức Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị và tồn xã hội
phủ nhận thức rõ và thực hiện nghiêm túc.
Do vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền trước tiên là trong các cấp ủy
Đảng, và tồn bộ Đảng viên, sau đó là tun truyền cho toàn xã hội nhận thức
một cách đúng đắn, đầy đủ tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trị của
văn hóa, u cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cần phải đặc biệt chú trọng tuyên truyền, giáo dục đến các đối tượng lao động
khu vực ngồi quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngồi, ở vùng sâu,
vùng xa. Bởi khu vực này trình độ học vấn của các đối tượng còn hạn chế. Mặt
khác cần đặc biệt chú ý tới tính khác biệt, tính đặc thù giữa các loại đối tượng
của từng địa bàn, khu vực và trình độ, tâm lý, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp
để lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với đối
tượng, sao cho người đi tuyên truyền, giáo dục phải thuyết phục, thu phục
được người được tuyên truyền, phổ biến theo kiểu khẩu phục, tâm phục, thấu
lý đạt tình.
Tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng HCM về VH phải gắn liền với bồi dưỡng
tư tưởng, tình cảm, rèn luyện đạo đức và lối sống cho mọi đối tượng trong môi
trường lao động và tập thể. Giáo dục không dừng ở thuyết lý, lý giải những tư
tưởng của Người về VH, mà phải bằng nghệ thuật tuyên truyền, cổ động với

những hình thức phong phú, hấp dẫn, sinh động và biểu cảm. Phải đa dạng hóa
linh hoạt và mềm dẻo khi áp dụng các hình thức, phương thức tun truyền.
Báo chí, truyền hình, phát thanh, triển lãm, các sinh hoạt văn hóa cơng cộng,
các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch cũng cần được chỉ đạo để làm tốt các
yêu cầu tuyên truyền, giáo dục nói trên.


Điều quan trọng là công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tư tưởng HCM
về VH phải làm thường xuyên, bền bỉ, khơng rơi vào hình thức, chỉ rộ lên
trong những ngày kỷ niệm có tính chất lễ hội rồi sau đó lại vắng bóng. Giáo
dục nhận thức và cần thực hiện pháp luật là phương diện của công tác vận
động quần chúng, của "dân vận". Phải đảm bảo nhất qn giữa nói và làm thì
mới gây dựng được niềm tin của quần chúng. Vì vậy cần đảm bảo tính khách
quan, chân thực, tính kịp thời, thiết thực trong nội dung tuyên truyền, vận
động. Bởi chỉ cần sơ suất một chi tiết khơng đáng có, có thể gây mối hồi nghi,
giảm sút niềm tin trong quần chúng.
Cán bộ làm công tác tun truyền vận động có vai trị hết sức quan trọng,
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền vận động đòi
hỏi phải đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phổ biến pháp luật. Do
vậy cán bộ làm công tác tuyên truyền vận động phải sâu sát gần gũi quần
chúng công nhân lao động, nắm được những băn khoăn lo lắng, những bức xức
và tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để hướng công tác tuyên truyền vào
những vấn đề quần chúng quan tâm. Trong cơng tác tun truyền phổ biến
pháp luật cịn phải nói tới một phương diện rất quan trọng khác là đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu khoa học để tìm ra những giải pháp gắn lý luận với thực
tiễn, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của xây dựng đời sống văn hóa. Đây là
những 1ĩnh vực cần phải được tập trung nghiên cứu, bởi thực tiễn thay đổi
nhanh chóng, nhận thức của xã hội cịn có nhiều biểu hiện khơng đúng, thậm
chí lệch lạc, có khuynh hướng thực dụng.
b)

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, đồng thời đẩy mạnh cơng tác
xã hội hóa trong xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Sự lãnh đạo của ĐCSVN và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với
mọi hoạt động VH là vấn đề có tính ngun tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ngày nay.
Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề bảo đảm về chính trị, tư tưởng để xây dựng
nền văn hóa trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đi đúng quỹ
đạo và mục tiêu xác định.
Có phát huy vai trò quản lý của Nhà nước mới tập trung được nguồn đầu tư
đúng hướng đi liền với tăng cường quản lý, bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời phát huy vai trị của các đồn thể nhân dân, thực hiện xã hội
hóa cơng tác XH, nhằm phát huy cao nhất tiềm năng, sức mạnh của các đoàn


thể, của cá nhân, cộng đồng và của toàn xã hội vào việc đầu tư, lưu giữ, củng
cố các giá trị văn hóa vào giải quyết các vấn đề xã hội.
Phát huy vai trị của Nhà nước, khơng có nghĩa là Nhà nước bao cấp, áp đặt
nguồn đầu tư tuyệt đối và cách làm của mình, nếu thế sẽ triệt tiêu các khả năng
đóng góp và sáng kiến của các đồn thể và người dân vào phát triển văn hóa.
Cũng khơng thể đồng nhất xã hội hóa với triệt để xoá bỏ bao cấp, chuyển các
lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa... sang hoạt động kinh doanh, thả nổi cho thị
trường. Nhà nước vẫn phải tăng cường quản lý văn hóa, tuy nhiên sự quản lý
của Nhà nước thơng qua hệ thống pháp luật và có những cách thức phù hợp,
linh hoạt. Nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực, những khía cạnh khơng hoặc ít
có khả năng XH hóa.
XH hóa xây dựng, phát triển VH trước hết ở việc huy động các nguồn lực đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển VH. Có những chính sách mang lại
quyền lợi thiết thân cho chính người dân, thì đó chính là "đem tài dân, sức dân

làm lợi cho dân". XH hóa khơng chỉ có ý nghĩa giải quyết vấn đề tài chính, mà
cịn khẳng định truyền thống nhân nghĩa, tăng thêm trách nhiệm của cộng
đồng, xây dựng tinh thần đồn kết dân tộc... nếu khơng phát huy sức mạnh của
tồn dân, của mọi thành phần kinh tế, thì Nhà nước tự mình khơng thể đảm
đương nổi.
XH hóa cịn thể hiện ở khía cạnh tổ chức thực thi các vấn đề VH với sự tham
gia của các tổ chức phi chính phủ, đồn thể và mỗi một người dân. Đó chính là
xu hướng dân chủ hóa và XH hóa việc xây dựng và phát triển văn hóa. XH hóa
và khía cạnh tổ chức thực hiện cần phải có những giải pháp phát huy vai trò
của Mặt trận tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội, cơng đồn, cộng đồng
làng bản, phố phường, dòng họ...
Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều chương trình xố đói, giảm nghèo, lao
động và việc làm, để đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ nhân đạo, toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hố ở khu dân cư... chỉ thành cơng khi phát huy đầy đủ vai
trị của các tổ chức đồn thể xã hội, doanh nghiệp và cá nhân trong XH. Đó
chính là thực hiện phương châm cái gì XH làm tốt hơn Nhà nước thì để XH
làm, Nhà nước chỉ hướng dẫn, hỗ trợ bằng định chế luật pháp; cái gì mà XH
khơng thể làm hoặc làm khơng tốt, thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm; mặt
khác Nhà nước phải quan tâm xây dựng, hồn thiện cơ chế chính sách, chế tài
ổn định đáp ứng yêu cầu XH hóa hoạt động văn hóa.


c)
Nhà nước cần có cơ chế để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế với xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội.
Chính sách phát triển văn hóa phải phù hợp với thực lực của nền kinh tế trong
mỗi giai đoạn, thời kỳ của đất nước. Đại hội XII của Đảng yêu cầu phải:
“Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa
doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tơn trọng, chấp hành pháp luật,
giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp

phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Do vậy, Đảng, Nhà nước cần quan tâm để
giải quyết hài hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng, phát triển văn
hóa.
Thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, địi hỏi việc xác định
mỗi chính sách kinh tế đều nhằm thực hiện mục tiêu văn hóa Đảng, Nhà nước
phải lãnh đạo, tìm giải pháp tạo động lực phát triển kinh tế từ trong cội nguồn
và sức mạnh văn hóa, khơng chạy theo mục tiêu kinh tế đơn thuần với bất cứ
giá nào. Mặt khác, mỗi chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước đều phải
dựa trên cơ sở và khả năng kinh tế nhất định và phù hợp với thực lực kinh tế
của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh phát triển nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo phát
triển kinh tế, nhằm tạo điều kiện vật chất để phát triển văn hóa. Bởi chúng ta
khơng thể thực hiện các mục tiêu phát triển văn hóa, xã hội nếu tách rời với các
khả năng kinh tế, không xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
nếu khơng có quan điểm phát triển văn hóa, xã hội đúng đắn, sẽ có nguy cơ
đẩy xã hội đi đến phân cực thái quá, giữa người giàu và người nghèo, giữa
nông thôn và thành thị, giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn... cùng nhiều tệ
nạn xã hội sẽ xuất hiện, giá trị truyền thống bị mai một, văn hóa - văn nghệ
chạy theo thị hiếu thấp hèn... Những biểu hiện ấy nếu để tích tụ lâu ngày sẽ
khơng chỉ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, mà còn đe dọa đến sự ổn định
chính trị. Do vậy Đảng, Nhà nước cần quan tâm đề ra cách tổ chức, thực hiện
có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để giải quyết đúng
đắn, hài hòa quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng phát triển văn hóa.
d) Xây dựng văn hóa phải bắt đầu với tư cách là chủ thể của văn hóa:
Con người là chủ thể chân chính sáng tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời là
sản phẩm của mơi trường văn hóa. Những phẩm chất cá nhân của con người
được hình thành và phát triển trong q trình phát triển của nền văn hóa. Hồ
Chí Minh đã chỉ dẫn: Phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân,



nghĩa là làm cho văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, xa hoa, xa
xỉ. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Ngày nay, trước tác động đa chiều của kinh tế thị trường và hội nhập, những cơ
hội và thách thức, trước cả thăng hoa và cám dỗ, văn hóa phải trở thành nhân
tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách
mạng, phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Văn hóa phải tham gia tích cực vào việc phát triển nguồn nhân
lực, đào luyện nhân tài cho đất nước. Đảng, Nhà nước phải lãnh đạo để mọi
hoạt động văn hóa đều nhằm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn
diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, thể chất, năng lực, tính sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa,
quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Bởi vậy Đảng phải lãnh đạo, đánh giá cho đúng mặt mạnh, mặt yếu của con
người Việt để đề ra những chủ trương, giải pháp xây dựng con người Việt Nam
mới, đó là những con người được bồi dưỡng, giáo dục về nhiều mặt và phải
được rèn luyện, trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, trong sinh hoạt cùng
với những cộng đồng dân tộc. Vì vậy, phải ra sức đẩy mạnh các phong trào
"người tốt, việc tốt", "dạy tốt, học tốt", "xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa", "xây dựng các làng bản, xã ấp, phố phường văn hóa", "xây dựng
thuần phong mỹ tục",…làm cho các phong trào thi đua thực sự trở thành động
lực thúc đẩy việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, phải thường xuyên biểu
dương, cổ vũ những tấm gương đó, phải tạo ra thành những phong trào quân
chúng ngày càng sâu rộng, làm cho văn hóa mới ngày càng thấm sâu vào đời
sống của nhân dân, đồng thời tạo điều kiện cho tài năng của đất nước ngày
càng nở rộ.
e)
Chủ động giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình
giao lưu, hội nhập quốc tế.
Trước xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, không một quốc gia

nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Chủ
động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức
văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt
hiệu quả thiết thực”. Để thâu hái những tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại,
làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, chúng ta phải ln có bản lĩnh vững vàng, chiến lược phát triển văn
hóa đúng đắn, nếu khơng sẽ dẫn đến nguy cơ sùng ngoại, đánh mất bản sắc văn


hóa dân tộc, văn hóa chỉ cịn là bản sao vụng về, mờ nhạt của thứ văn hóa vay
mượn, ngoại lai. Đại hội XII của Đảng yêu cầu: “tiếp nhận có chọn lọc tinh
hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chủ động đón nhận
cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hồn thiện bản sắc văn
hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của tồn
cầu hóa về văn hóa”.
Giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống, nội sinh của dân tộc, tạo cơ sở
vững chắc để tiếp thu tinh hoa VH nhân loại là yêu cầu khách quan trong quá
trình xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Góp phần cùng: “tồn Đảng, tồn dân và
tồn qn ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN, đẩy mạnh tồn diện
và đồng bộ cơng cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững, thực
hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

III/ Vận dụng:
Từ chuyên ngành đào tạo của mình, bạn có thể đóng góp gì cho việc xây dựng
nền văn hóa VN?

Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên
phải tự đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất
nước, mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần xây dựng 1 nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn
luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, khơng ngừng nâng cao
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng
đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần
xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm
văn hóa khơng lành mạnh.
Riêng bản thân của các sinh viên chuyên ngành Kiến trúc đang được đào tạo
cũng cần có những đóng góp nhất định cho nền văn hóa Việt Nam:


- Luôn trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao trách nhiệm với xã hội, với
cộng đồng và với đất nước. Sáng tác của KTS khi được thực hiện nó liên quan
đến văn hóa, kinh tế, đến an tồn cho người sử dụng, nói rộng ra là với xã hội.
Kiến trúc phải góp phần làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ phát
triển mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Mỗi người học nên tự định hình cách thức mình được đào tạo nhưng cơ bản
vẫn phải kế thừa những di sản của kiến trúc truyền thống.
- Đặc điểm kiến trúc truyền thống ở Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
ngoại lai và là kết quả q trình giao thoa văn hóa, lịch sử Đơng – Tây đem lại
sự đa dạng hình thái các đơ thị – trong đó KTS là người đóng vai trị định
hướng quan trọng thông qua các hoạt động chuyên môn (quy hoạch và kiến
trúc).
KTS không quá ăn sâu bị ảnh hưởng bởi lối kiến trúc ngoại lai mà phải dung
hòa cả yếu tố ngoại lai và yếu tố truyền thống  vừa giữ gìn bản sắc vừa phát
huy sáng tạo. Nghiên cứu, học tập, kế thừa phải có sự phân tích, phê phán,
gạn lọc và sáng tạo để phát triển tạo ra một nền kiến trúc tiên tiến hiện đại

nhưng đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam chứ không phải là mô phỏng hay bắt
chước cái cũ.
- Mỗi vùng miền có những đặc trưng văn hóa khác nhau  ảnh hưởng kiến
trúc cũng khác nhau. Là 1 người làm Kiến Trúc, KTS có những giải pháp thiết
kế kiến trúc riêng càng phải làm rõ từng nét đặc thù vùng miền ấy trong các
thiết kế của mình chứ khơng xóa bỏ triệt tiêu hồn tồn để “gìn giữ nền tảng
và phát huy giá trị kiến trúc truyền thống”.
- Bảo tồn các cơng trình kiến trúc cổ có giá trị văn hóa lâu dài của dân tộc:
đình, đền, chùa, lăng, dinh, ….
- Vận dụng những nét kiến trúc đặc biệt của dân tộc vào các thiết kế, 1 phần
giúp phố biến rộng rãi nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt đến nhân dân,
đến bạn bè các nước…

Tóm lại


Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa sâu xa, đặc biệt
quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Nó khơng chỉ là mục tiêu
phấn đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà cịn có vai trị nền
tảng và sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển các bình diện đời
sống xã hội. Văn hóa là sức sống của sự phát triển kinh tế - xã hội, là động lực
thúc đẩy mọi hoạt động sống của con người. Những quan điểm về văn hóa
trong chiến lược phát triển đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là
“kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân VN” mà cịn
có ý nghĩa thời sự, là chỗ dựa, sự chỉ dẫn cho chúng ta trong nhận thức và giải
quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
hiện nay.

Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Nxb CTQG, Hà Nội 2011.
2. Giáo trình tư tưởng HCM.
3. /> />4. />


×