Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đảng cộng sản việt nam ra đời là một tất yếu lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.92 KB, 31 trang )

A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã từng nói: “ Dân ta phải biết sử ta , cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam”, lịch sử dân tộc Việt Nam là những trang lịch sử hào hùng nhất và
oanh liệt về một thời đấu tranh dựng nước và giữ nước của bao thế hệ, lớp người
anh dũng. Và một trong những trang lịch sử oai hùng của dân tộc đó chính là
Đảng cộng sản Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động
nhất, hào hùng nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành
được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện những
bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là thắng lợi của cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ; tiếp đó là
thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; và đến
nay chúng ta cũng khẳng địng công cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã và đang giành được những thắng lợi lớn, "có ý nghĩa lịch sử sâu
sắc. Tất cả những thắng lợi đó của dân tộc khơng thể phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Giờ đây, với mỗi người dân Việt Nam việc học tập và nghiên cứu về lịch
sử Đảng để biết được những chặng dường gian khổ mà cách mạng đã đi qua và
những thắng lợi oanh liệt mà dân tộc đã đạt được là một điều không thể thiếu.
Và cần thiết hơn đối với thế hệ trẻ hôm nay,việc học tập, nghiên cứu về lịch sử
Đảng khơng chỉ đơn thuần là việc tìm hiểu và tiếp thu kiến thức mà qua đó cịn
bồi đắp cho chúng ta_những thế hệ sinh ra đã được hưởng những thành quả tốt
đẹp nhất, oanh liệt nhất mà các thế hệ cha ông để lại niềm tự hào dân tộc để rồi
từ đó nhận thấy được rỗ hơn trách nhiệm của mỗi cá nhân trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng và Bác đã lựa chọn.
Xuất phát từ nhận thức trên, em chọn nội dung “ Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời là một tất yếu lịch sử” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn
1



qua việc tìm hiểu lịch sử ra đời của Đảng bản thân có cơ hội tiếp thu một cách
cụ thể và toàn diện hơn sự tất yếu ra đời của Đảng năm 1930 cũng như thấy
được vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố làm nên lịch sử hào
hùng của dân tôc.
2.Lịch sử vấn đề
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với
lịch sử dân tộc.Vì vậy,nghiên cứu về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã
có rất nhiều tác giả đề cập tới và nhiều công trình nghiên cứu đã được cơng bố.
Cuốn “Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”
của PGS,TS Nguyễn Viết Thơng làm tổng chủ biên,Nxb chính trị Quốc Gia Hà
Nội-2010 có viết về lịch sủ ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
Cuốn “Giáo trình xây dựng Đảng” của PGS,TS Trần Trung Quang,Nxb
chính trị Quốc Gia-2003 viết về học thuyết Mác-LêNin về Đảng cộng sản.
Cuốn “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh” của PGS,TS Nguyễn Viết
Thơng,Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội-2009 viết về Đảng cộng sản Việt Nam
như:Sự ra đời của Đảng,vai trò của Đảng,bản chất của Đảng…
Cuốn “Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-LêNin của
PGS,TS Nuyễn Viết Thơng,Nxb chính trị Quốc Gia viết về quy luật ra đời của
Đảng cộng sản.
Cuốn “Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam” của Hội đồng trung
ương viết về Đảng cộng sản.
Các cuốn “Hồ Chí Minh tồn tập”,Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội-2000;
“Đảng cộng sản Việt Nam” Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội-1998 cũng viết khái
quát về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhìn một cách tổng thể các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến
những góc độ khía cạnh khác nhau tạo điều kiện thuận lợi cho tơi có thể kế thừa
được cả về nội dung và phương pháp.Tuy nhiên trong q trình tìm hiểu tơi thấy
2



chưa có tác giả nào đề cập đến sự ra đời của Đảng một cách đầy đủ.Vì vậy,tơi đã
chon đề tài : “Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch
sử”nhằm làm rỏ vai trò,ý nghĩa lịch sử to lớn của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam.
3.Mục đích nghiên cứu
-Nghiên cứu tìm hiểu vì sao Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu
lịch sử
-Nghiên cứu làm rõ vai trò,ý nghĩa lịch sử của Đảng cộng sản Việt Nam.
4.Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề này ngoài phương pháp truyền thống,phương pháp
lịch sử logic tơi cịn sử dụng phương pháp sưu tầm,sao chép,xử lí tài liệu liên
quan đến vấn đề ở trường đại học,thư viện,mạng intơnet,nơi tơi học tập.
Trong q trình xử lí tài liệu tơi đã sử dụng phương pháp tổng hợp,thống
kê,so sánh,đánh giá các sự kiện một cách chân thực,khách quan.So sánh,thẩm
định đối chiếu các nguồn tài liệu với nhau.

3


B.NỘI DUNG
Chương 1: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử
1.Quy luật chung về sự ra đời của Đảng Cộng Sản
Theo các nhà kinh điển Mác-LêNin, đảng Cộng Sản ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
Tức là, khi phong trào công nhân tiếp nhận lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin
làm cơ sở lý luận của phong trào làm cho nó phát triển và đến độ nhất định thì
chính phong trào cơng nhân địi hỏi có bộ tham mưu-Tức Đảng của giai cấp vô
sản ra đời để dẫn dắt phong trào cách mạng của giai cấp công nhân tiếp tục phát

triển đi tới đích là chủ nghĩa cộng sản.
Học thuyết Mác-LêNin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân
là một bộ phận cấu thành của CNXH khoa học-khoa học về cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy luật công tác xã
hội của công cuộc xây dựng chủ nghiaax xã hội. Học thuyết chỉ ra những quy
luật về sự ra đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ chức và
hoạt động lãnh đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, tiến lên Chủ Nghĩa Cộng Sản
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản-Chính Đảng cách mạng của giai cấp cơng
nhân khơng ngồi quy luật chung, tức là đều bắt nguồn từ những mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, mà trước hết và chủ yếu là
những mâu thuẫn về lợi ích vật chất. Những mâu thuẫn này là nguồn gốc của
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản.
Phong trào công nhân ở các nước đều trải qua một thời kỳ đấu tranh tự
phát. Phong trào tự phát đó khơng vượt khỏi giới hạn cao nhất của nó lầ Chủ
Nghĩa Cơng Đồn. Theo LêNin, cuộc đấu tranh của các cơng đồn ở các nước tư
bản chỉ là nhằm thay đổi một hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột
khác.
4


Theo LêNin, chính Đảng Cộng Sản của giai cấp cơng nhân ra đời được là
nhờ sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Chủ
nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập nên và sau này được
LêNin làm phong phú thêm cả về lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa xã hội khoa học khi chưa kết hợp với phong trào cơng nhân, thì
về mặt tổ chức sự phát triển cao nhất của nó cũng chỉ dẫn đến sự ra đời của các
hộ truyền bá Chủ nghĩa Mác. Về mặt lịch sử, nó ra đời sau phong trào cơng
nhân, nhưng giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào cơng nhân có chung
một nguồn gốc, đó là những quan điểm kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do qua hệ kinh

tế này, nảy sinh cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp cơng nhân, từ đó
phong trào công nhân ra đời. Mác và Ănghen đã nghiên cứu những quan hệ kinh
tế tư bản chủ nghĩa mà phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và từ
đó xây dựng nên lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chỉ từ khi chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập và soi sáng và phong trào
công nhân, giai cấp công nhân mới thấy rõ bản chất bóc lột của nhà tư bản, thấy
rõ sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và chỉ từ đó, giai cấp cơng nhân mới ý
thức được răng, nó cần phải tự tổ chức ra chính Đảng độc lập của mình đẻ lãnh
đạo cuộc đấu tranh của giai cấp đi đến thắng lợi hồn tồn. Từ khi có chủ nghĩa
xã hội khoa học soi sáng, có chính Đảng cách mạng lãnh đạo, giai cấp công
nhân mới chuyển thành giai cấp tự giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải
phóng nhân loại khỏi ách áp bức và bóc lột, mới từ giai cấp tự mình trở thành
giai cấp của mình.
Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào cơng
nhân là một q trình đấu tranh cách mạng gay gắt, quyết liệt chống các trào lưu
tư tưởng, tư sản, cơ hội, vơ chính phủ. Sự kết hợp đó phải được thể hiện một
cách khoa học thì Đảng mới ra đời được. Có thể nói, chính Đảng Cộng Sản của
giai cấp công nhân, ngay từ khi ra đời đã mang bản chất cách mạng và khoa học.
Những bản chất này được cũng cố và phát triển đồng thời với quá trình xây
5


dựng Đảng, cũng tức là quá trình tiếp tục thực hiện sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học với phong trào công nhân để ngày càng phát triển vững mạnh.
Chủ nghĩa Mác-LêNin là cơ sở khoa học của cơng tác xây dựng Đảng, là
ngọn cờ đồn kết những người cộng sản và là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hoạt
độngchến lược và sách lược của cách mạng.
2.Đặc điểm tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
2.1.Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang

giai đoạn độc quyền (CN đế quốc). CNTB độc quyền xuất hiện do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó chủ yếu lầ các nguyên nhân sau:
*Sự phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các xí nghiệp
có quy mơ lớn.
*Vào 30 năm cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới
xuất hiện như; lò luyện kim mới BetSơme, MacTanh, TôMat… đã tạo ra sản
lượng lớn gang thép với chất lượng cao, phát hiện ra hóa chất mới như axit
Sunphuric, thuốc nhuộm… máy móc mới ra đời: Động cơ Diezeen, máy phát
điện, máy tiện, máy phay…, phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi,
tàu thủy, xe điện, máy bay… và đặc biệt là đường sắt.
*Những thành mức khoa học-kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những
ngành sản xuất mới địi hỏi xí nghiệp phải có quy mơ lớn, mặt khác nó dẫn đến
tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản
xuất lớn
*Trong điều kiện phát triển của khoa học-kỹ thuật, sự tác động của các
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích
lũy, ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế củ xã hội tư bản theo
hướng tập chung sản xuất quy mô lớn.

6


*Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật,
tăng quy mơ tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay
gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát
tài làm giàu với số tơ bản tập trung và quy mơ xí nghiệp ngày càng to lớn
*Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1973 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q
trình tích tụ và tập trung tư bản.

*Sự phát triển hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần tạo
tiền đề.
*Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q
trình tích tụ và tập trung tư bản.
* Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy
mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ
phần tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên LêNin khẳng định: “ …cạnh tranh tự do đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ
nhất định lại dẫn tới độc quyền”.
Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản đã để lại hậu quả của nó đó là: Các
nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên
ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên
cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày
càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các
nước thuộc địa.

7


2.2 . Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-LêNin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư
cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được LêNin
phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác-LêNin.
Chủ nghĩa Mác-LêNin “ là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học

của C.Mác, Ph.Ăng ghen và sự phát triển của V.I LêNin, được hình thành và
phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực
tiễn thời đại, là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản,
giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng
con người.
Chủ nghĩa Mác-LêNin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra Đảng
Cộng Sản.
Sự ra đời Đảng Cộng Sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Tun ngơn của Đảng Cộng Sản
(1848) xác định: Những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích của tồn
bộ phong trào, là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở các nước,
họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản. Những
nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính Đảng của giai cấp công nhân cần
thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu ttranh của giai cấp công nhân để thực
hiện mục đích giành chính quyền và xây dựng xã hội mới.
Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến
lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp cơng nhân.
Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động. Bởi
vì, giai cấp cơng nhân chỉ có thê giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng
8


cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác-LêNin đã
lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở
các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác-LêNin được truyền bá vào Việt Nam, phong
trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-LêNin vào
thực tiễn cách mạng Việt nam, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác-LêNin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.3.Tác động của Cách Mạng Tháng Mười Nga và Quốc Tế Cộng Sản
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với
đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga 1917. Chính cuộc cách mạng vĩ đại này
đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”.
Cách Mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập
chính quyền Xơ Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. Cuộc cách
mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự giải
phóng các dân tộc bị áp bức “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế
quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga nhiều dân tộc vốn là thuộc
địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết, hính
thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên Bang Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết (1922).
Là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều Đảng Cộng
Sản: Đảng Cộng Sản Đức, Đảng Cộng Sản Hunggari (1918); Đảng Cộng Sản
Mỹ (1919); Đảng Cộng Sản Anh, Đảng Cộng Sản Pháp (1920); Đảng Cộng Sản
Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Mông Cổ (1921); Đảng Cộng Sản Nhật Bản
(1922).
9


Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra
một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của chủ nghĩa
Mác-LêNin trong lịch sử.
Về ý nghĩa cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc

mơ hàng thế kỷ này. Và “ Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách
mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có Đảng bền
vữn, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
nghĩa Mã Khắc Tư và Lê Nin”.
Tháng 3/1919, Quốc Tế Cộng Sản (Quốc Tế III) được thành lập. Sự ra
đời của Quốc Tế Cộng Sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lê Nin được công bố tại Đại hội II Quốc Tế Cộng Sản vào năm 1920 đã
chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con
đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc Tế Cộng Sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác – LêNin vào thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc Tế Cộng Sản
đối với phong trào cách mạng thế giới mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ chức
này đối với cách mạng Việt Nam “ An Nam muốn cách mệnh thành cơng thì tất
cả phải nhờ Đệ Tam Quốc Tế”.
Trên đây là các điều kiện để cho ra đời một chính Đảng ở các nước thuộc
địa trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời phù
hợp với xu thế phát triển chung của lịch sử.

10


Chương 2: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu khách
quan của cách mạng Việt nam
1. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
Năm 1958, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta.
Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta,
thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.

* Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
Về chính trị:
- Pháp đặt ra chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối
ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
- Chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thiết lập chế
độ cai trị riêng. Đứng đầu xứ Nam Kỳ là thống đốc, đứng đầu xứ Trung Kỳ là
quan Khâm Sứ, đứng đầu Bắc Kỳ là quan Thống Sứ.
- Thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế
và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế:
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột: cướp đoạt ruộng đất để lập
đồn điền, khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đường giao
thông bến cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
- Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển
biến cơ cấu kinh tế ở nước ta (xuất hiện ở cấc ngành mới…), du nhập quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, nền kinh tế Việt
Nam phụ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vịng lạc hậu.
Về văn hóa:
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân: duy trì
các thủ tục lạc hậu (đầu độc bằng thuốc phiện, bằng rượu, thực hiện chính sách
ngu dân để cai trị…)
11


- Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông
Dương: “ Chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách nhụ nhã, mà
còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc phiện, bằng rượu…
chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì vậy chúng tơi khơng có quyền
tự do học tập”.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam

Dưới tác động của chính sách cai trị và chinh sách kinh tế, văn hóa, giáo
dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc, xuất hiện các
giai cấp tầng lớp mới trong xã hội:
-Giai cấp địa chủ:
Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức
nơng dân . Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân
hóa, một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham
gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
-Giai cấp nơng dân:
Là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong
kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nơng
dân Việt Nam đã làm tăng thêm lịng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm
tăng them ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành ruộng đất và
quyền sống tự do.
-Giai cấp công nhân Việt Nam:
Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 -1914) của thực dân
Pháp, giai cấp công nhân tập trung ở nhiều các thành phố và vùng mỏ như: Hà
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Năm 1914 có 10 vạn
thì năm 1929 có 22 vạn công nhân.
Đặc điểm: đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông
dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thhi
hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ
12


với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp
bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là: “ Ra đời
trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh
sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – LêNin, nhanh chóng trở thành một lực
lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc Trung Nam”.

-Giai cấp tư sản Việt Nam:
Bao gồm tư sản công nghiêp, tư sản thương nghiệp… trong giai cấp tư
sản có một bộ phận kiêm địa chủ.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản
người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai
cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không
đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
-Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam:
Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do.
Trong đó giới trí thức và học sinh lầ bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu tư sản.
Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trử thành những
người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù đế quốc, thực
dân, lại chịu ảnh hưởng của nhứng tư tưởng tiến bộ từ bên ngồi truyền vào. Vì
vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao. Đồng thời, “họ tỏ ra thức thời
và rất nhạy cảm với thời cuộc. Được phong trào cách mạng rầm rộ của công
nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đơng và
đóng một vai trị quan trọng trong quá trình đấu tranh của nhân dân, nhất là ở
thành thị”.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến
xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó,
đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang than phận người dân mất
nước, và ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.
13


Trong xã hội Việt Nam bấy giờ, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân,
chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa
cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đới sống dân tộc đó là: mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất

của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trước tình hình đó, thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu:
Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân.
Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ
yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu.
2. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những
phong trào tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
-Phong trào Cần Vương (1885 -1896): Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa
phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 11/11/1888 vua Hàm Nghi bị
Pháp bắt nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
-Cuộc khởi nghĩa Yên Thế diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã
đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc
chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918), các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn nhưng đều không thành
công.

14


Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến về hệ tư
tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước

dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sỹ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân
chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sỹ phu lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một
bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục
chủ quyến quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách
là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu với chủ trương dùng
biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân
tộc.
Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước thăng trầm,
đi từ lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân chủ tư sản nhưng đều thất
bại, con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “ đuổi hổ cửa trước, rước beo
cửa sau”. Vào nửa đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh
hưởng của Cách Mạng Tháng Mười Nga, “ Ơng cũng có cảm tình với nước Nga
Xơ Viết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào Nguyễn Ái Quốc”. Nguyễn
Ái Quốc dánh giá Phan Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân, đã kích
bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu tranh
vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng
yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, về phương pháp, “Cụ Phan Châu

15


Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương… điều đó là sai lầm, chẳng
khác gì đến xin giặc giũ lịng thương”.
Ngồi ra, trong thời kỳ này ở Việt Nam cịn có nhiều phong trào đấu tranh

khác như: Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907); phong trào “tẩy chay
Khách trú” (1919); phong trào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở Cảng Sài
Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi
cải cách tự do dân chủ…
Từ phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến
(1923); Đảng Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (1926);
Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sau nhiều lần đổi tên tháng 7/19928 lấy tên là Tân
Việt Cách Mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12/1927). Các đảng
phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu
nước chống Pháp đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân
Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh hội Việt
Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh, đã tác động mạnh mẽ đến Đảng
này. Trong nội bộ Đảng diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng: Tư
tưởng cách mạng vô sản và tư tưởng cải lương. Cuối cùng khuynh hướng cách
mạng theo quan điểm vô sản thắng thế. Một số đảng viên của Tân Việt chuyển
sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Số đảng viên tiên tiến cịn lại trong
Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa
Mác – LêNin.
Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư
sản. Điều lệ Đảng ghi mục tiêu hoạt động là: trước làm dân tộc cách mạng, sau
làm thế giới cách mạng; đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền
dân quyền. Sau vụ án sát Ba Danh, trùm mộ phu đồn điền cao su của Pháp
(tháng 2/1929) Đảng bị khủng bố dữ dội, tổ chức đảng bị vỡ ở nhiều nơi. Trước
tình thế nguy cấp, lãnh đạo Việt Nam quốc dân Đảng đã quyết định dốc hết lực
16


lượng vào trận đấu tranh sống mái với kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam
quốc dân Đảng bắt đầu từ đêm ngày 9/2/1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, Hải Dương,

Thái Bình… trong tình thế hồn tồn bị động nên đã bị thực dân Pháp nhanh
chóng dập tắt.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu
tranh chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này
đều hướng tới giành độc lập cho các dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp
khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập
hiến hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh
diễn ra với phương thức và biện pháp khác nhau; với quan điểm tập hợp lực
lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách hoặc dựa vào
ngoại viện để đánh Pháp... nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều bị thất bại.
Các phong trào và tổ chức trên do những hạn chế về giai cấp, về đường
lối chính trị hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản (công
nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các
phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trính
cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử
dân tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận
lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-LêNin, quan điểm cách mạng Hồ Chí
Minh.

Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời

của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

17



3. Nguyển Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng, và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nứơc (1911_ 1920)
Năm 1911 Nguyển Tát Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách
mạng điển hình trên thế giới: đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng,bác ái và
quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như cách mạng Mỹ
(1776), cách mạng Pháp (1789), nhưng cũng nhận thức được các hạn chế của
cách mạng tư sản.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu đến cách mạng tháng 10
Nga năm 1917, Người rút ra kết luận: “trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga đã thành cơng và thành cơng đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự”.
Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp.
Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của LêNin với nội dung:
.Lên án chủ nghĩa đế quốc, thực dân đã nơ dịch bần cùng hóa nhân dân
các nước thuộc địa.
. Kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh.
. Phong trào đấu tranh các nước chính quốc phải có trách nhiệm giúp đỡ
các phong trào ở nước thuộc địa.
. Phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa phải liên kết với phong trào
đấu tranh ở chính quốc.
Tại đại hội Đảng xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người-

18



từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn “con đường cách mạng vơ sản”
Tóm lại, trong 10 năm của q trình tìm tịi đấu tranh: Đây là chặng
đường Nguyễn Ái Quốc đi tìm một con đường cứu nước, chứ khơng phải cầu
viện và cuối cùng Người đã tìm thấy con đường đó (giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người).
Nguyến Ái Quốc bắt đầu từ khảo nghiệm thực tiễn trước rồi mới từn
bước tiếp cận lý luận. (Khi sang Mác xây Bác nhận định: Người Pháp ở nước
Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương; Bác thừa nhận ở đâu cũng có hai hạng
người: Người giàu và người nghèo… Sau quá trình chu du về Pháp Bác mới học
lý luận).
Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tự lực, tự lao động để kiếm sống, là quá trình
rèn luyện nghị lực sau này. (Một hịn gạch nóng nung tâm huyết; mẩu bánh mì
con ni chí bền; Bác nói:Bác làm 12 nghề nhưng chỉ làm một nghề thơi là nghề
cách mạng).
Nguyễn Ái Quốc là người đặt nền móng cho quan hệ kinh tế quốc tế và
sớm trở thành chủ nghĩa quốc tế (lộ trình cuẩ Nguyến Ái Quốc là chiến sỹ quốc
tế trước khi là lãnh tụ dân tộc; là chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân và của dân tộc).
-Giai đoạn 1921-1930: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện để
thành lập Đảng:
Sau khi trở thành người cộng sản và quyết định đưa cách mạng nước ta
theo con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập đảng:
Về tư tưởng truyền bá chủ nghĩa Mác-LêNin vào Việt Nam thông qua
những bài đăng trên các báo người vùng khổ, Nhân đạo… Đặc biệt là tác phẩm
bản án chế độ thực dân Pháp, trong đó đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới vỏ bọc “khai hoa văn minh”, từ đó đã khơi

19


dậy lòng yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược.
Về xây dựng tổ chức cách mạng: Tháng 11/1924 Bác về Quảng Châu và
đến thang6 năm 1925 Người thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên với
mục đích của hội: Làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; sau khi cách
mạng thành cơng sẽ thành lập chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản
các nước, với phong trào cách mạng thế giới và đào tạo các bộ từ năm 19251927 hội cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ
cạch mạng Việt Nam; Xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế năm
1928 với chủ trương “vơ sản hóa” đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,
để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân; để truyền bs chủ nghĩa
Mác_LêNin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên ưu tú gửi đi
học tại đại họa Phương Đông(Liên Xô) và trường lục quân Hòang Phố (Trung
Quốc) để đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Về chính trị: năm 1927 bộ tuyên truyền của hội các dân tộc thuộc địa bị
áp bức xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh, nó thể hiện đường lối cách mạng,
đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị:
Thứ nhất, xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, mục tiêu cách mạng là đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho
toàn thể nhân dân.
Thứ ba, về lực lượng cách mạng, người nhấn mạnh cách mạng la sụ
nghiệp của quần chúng chứ khơng phải của một hai người do đó phải đoàn kết
toàn dân.


20


Thứ tư, lãnh đạo cách mạng do Đảng lãnh đạo và để cách mạng thành
cơng thì Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác-LêNin (Đảng có vững, cách mạng
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa trân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin).
Thứ năm, về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế
giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam.
Thứ sáu, về phương pháp cách mạng phải giác ngộ và tổ chức quần
chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rỏ mục đích của cách mạng,
biết đồng tâm hiệp lực, làm cách mạng phải biết cách làm, phải có “mưu trước”
thì mới đmả bảo thành cơng cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
4. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử của cách
mạng Việt Nam.
4.1Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và sự ra đời của
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập
trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức, bóc lột của tư sản, thực
dân cũng diễn ra từ rất sớm. Trong những năm 1919 – 1925, phong trào cơng
nhân diễn ra dưới các hình thức đình cơng, bãi cơng, tiêu biểu như các cuộc bãi
cơng của cơng nhân Ba Son(Sài Gịn) do Tơn Đức Thắng tổ chức(1925) và cuộc
bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30/4/1925, đòi chủ tư bản
phải tăng lương, phải bổ đánh đập, giãn đuổi thợ…
Nhìn chung, phong trào cơng nhân những năm 1919 – 1925 đã có những
bước phát triển so với trước chiến tranh thế giới làn thứ nhất. Hình thức bãi cơng
đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào cơng nhân đã có sự lãnh đạo

của các tổ chức như: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ va các tổ
21


chức cộng sản ra đời năm 1929. Ở giai đoạn này, nhiều cuộc bãi công của công
nhân dã diễn ra. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của
cơng nhân diễn ra trong tồn quốc.
Các cuộc đáu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926 –
1929 mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa
các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lơi
cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
cuối tháng 3-1929, ở Hà Nội một số hội viên tiên tiến của tổ chức thanh niên ở
bắc kỳ đã lập ra chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Việt Nam do đồng chí Trần
Văn Cung làm bí thư chi bộ.
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 51929) đã xảy ra bất đồng giữ các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập Đảng cộng
sản, mà thực chất là sự khác nhau giữa những đại biểu muốn thành lập ngay một
Đảng cộng sản và giải thể tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với
những đại biểu cũng muốn thành lập Đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ
chức đảng ở giữa Đại hội thanh niên và cũng muốn phá Thanh niên trước khi
thành lập đảng”. Trong bối cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản đảng: Ngày 17/06/1929 tại Hà Nội, đại biểu các
tổ chức cộng sản đảng ở Miền bắc họp Đại hội quyết định thành lập Đông
dương cộng sản đảng. Tuyên ngôn của đảng nêu rỏ: Đông dương cộng sản đảng
tổ chức đại đa số và thực hành cơng nơng lien hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa; Đánh đổ tư bản chủ nghĩa; Diệt trừ chế độ phong kiến; Giải phóng
cơng nơng; Thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái, tức là xã hộ cộng sản.
An Nam cộng sản Đảng: Trước sự ra đời của Đông dương cộng sản đảng
và để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu 1929, các đồng chí
trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ

đã thành lập An Nam cộng sản đảng. Về điều kiện kết nạp đảng viên, điều lệ của
22


đảng viết: “Ai tin theo chương trình của Quốc tế cộng sản, hăng hái phấn đấu
trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh của đảng và góp nguyệt phí có
thể cho vào đảng được”.
Đơng Dương cộng sản liên đồn: Việc ra đời của Đông dương cộng sản
đảng và An Nam cộng sản đảng đã làm cho nội bộ Tân Việt cách mạng đảng
phân hóa mạnh mẻ. những đảng viên tân tiến của Tân Việt đã thành lập Đông
Dương cộng sản liên đồn: Tun đạt của Đơng Dương cộng sản liên
đồn(tháng 9-1929), nêu rỏ: “Đơng Dương cộng sản lien đồn lấy chủ nghĩa
cộng sản làm nền móng, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để
thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng
ta hồn tồn độc lập xóa bỏ nạn người bóc lột người, áp bức người, xây dựng
chế đọ cơng nơng chun chính tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong tồn xứ Đơng
Dương”.
Mặc dù đều dương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế quốc, phong kiến,
xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt
động phân tán, chia rẻ ảnh hưởng đến phong trào cách mạng Việt Nam lúc này.
Vì vậy, để khắc phục sự chia rẻ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu
cần thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả
những người cộng sản ở Việt Nam.
4.2 Hội nghị thành lập đảng
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức
cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng
cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẻ trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Điều này phản ánh sự tự ý thức của những người cộng sản Việt Nam về nhu cầu
phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất.
Ngày 27.10.1929, Quốc tế cộng sản gửi những người Cộng sản Đông

dương tài liệu về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu
những người cộng sản Đông Dương khắc phục ngay sự chia rẻ giữa các nhóm
23


cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế cộng sản chỉ rỏ
phương thức để tiến tới thành lập đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi
bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; Chỉ rỏ mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Đông
Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẻ của những người Cộng sản ở Đông Dương,
Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đãng, tại Hương Cảng Trung Quốc(từ ngày 6.1-7.2.1930). Trong báo cáo gửi
Quốc tế cộng sản(ngày 18/2/1930), Nguyễn Ái Quốc viết: “chúng tôi họp vào
ngày 6/1…các đại biểu trở về An Nam ngày 8/2”. Nghị quyết đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam(ngày 10/9/1960) quyết nghị lấy
ngày mồng 3/2 dương lịch hàng năm kỷ niệm ngày thành lập đảng.
Thành phần hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế cộng sản; 2
đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; 2 đại biểu An Nam cộng sản đảng. Hội
nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn với nội dung:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột củ, thành thật hợp tác đẻ thống nhất các
nhóm cộng sản ở Đông Dương;
2.Định tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3.Thảo chính cương và điều lệ sơ lược của Đảng;
4.Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5.Cử một ban trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 2 đại biểu chi
bộ cộng sản Trung Quốc ở Đơng Dương”.
Hội nghị nhất trí với 5 điểm lớn theo đề nghị của Nguyện Ái Quốc và
quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ

vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng
sản trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam.
24


Ngày 24/2/1930 theo yêu cầu của Đông Dương cộng sản Liên đoàn, Ban
chấp hành trung ương lâm thời họp và ra nghị quyết chấp nhận Đơng Dương
cộng sản Liên Đồn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày
24/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn tất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp của ba yếu tố:
Chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện
chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đến 3 tổ chức cộng sản, đến Đảng cộng sản Việt
Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mac-Lênin và quan điểm cách mạng Nguyễn Ái
Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử đối với cách
mạng Việt Nam, xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam thể hiện
trong cương lỉnh chính trị đầu tiên của Đảng.
4.3 Cương lỉnh chính trị đầu tiên của Đảng
Là sự hợp thành của chánh cương vắn tắt của đảng, sách lược vắn tắt của
đảng, chương trình tóm tắt của đảng. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam:
*Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
*Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến; Làm
cho nước Việt Nam được hồn tồn độc lập; Lập chính phủ công nông binh, tổ
chức quân đội công nông.

Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; Tịch thu tồn bộ sản nghiệp lớn
(như cơng nghiệp, vận tải, ngân hàng…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý; Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọ
25


×