Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vận dụng đường lối xây dựng nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới để giải quyết các vấn đề văn hóa bức xúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.63 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần được tạo
ra trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Chính vì vậy, văn hóa đã trở thành nền tảng quan trọng tạo nên nguồn sức
mạnh to lớn, giúp dân tộc ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, khắc phục mọi
khó khăn, thử thách, xây dựng và phát triển đất nước.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì “dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh” là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng
thời là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc. Bước vào cơng cuộc đổi mới tồn
diện Đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Hội nghị TW 10 Khóa IX đã nhận định về sự biến đổi văn hóa trong q
trình Đổi mới. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mối quan
hệ giữa cá nhân và cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội , đa dạng
hóa thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hóa. Do phạm vi và vai trị của dân
chủ hóa - xã hội hóa văn hóa và các cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là
những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý cơng tác văn hóa của Đảng
và Nhà nước.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài “Vận dụng đường lối xây
dựng nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới để giải quyết các vấn đề văn hóa bức
xúc hiện nay” làm tiểu luận môn học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu các vấn đề văn hóa xã hội bức xúc hiện nay và đường lối giải
quyết cuả Đảng để giải quyết các đó.

1



3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu phạm trù văn hóa và nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới.
- Tìm hiểu những thành tựu, hạn chế mà nền văn hóa Việt Nam đạt được
trong thời kỳ Đổi mới.
- Tìm hiểu đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
4. Đóng góp của đề tài:
Việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài sẽ cho thấy được những thời cơ, cũng
như những thách thức mà công cuộc Đổi mới mang lại cho nền văn hóa Việt
Nam. Trước sự biến động mới của tình hình xã hội Đảng ta đã có những phương
hướng chỉ đạo kịp thời để xây dựng một nền văn hóa mới trong thời kỳ Đổi mới.
Thơng qua đó để thấy được vai trị, tầm quan trọng của nền văn hóa trong thời
kỳ mới.
5.Bố cục của đề tài:
Bài viết gồm 2 mục:
I. Lý luận chung.
II. Văn hóa Việt Nam thời kỳ Đổi mới và đường lối giải quyết của Đảng.

2


NỘI DUNG
I. Lý luận chung:
1.1. Khái niệm về văn hóa:
Có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, mỗi khái niệm lại có cái nhìn
nhận và đánh giá khác nhau.
Khái niệm văn hóa do UNESCO đưa ra như sau: “Trong ý nghĩa rộng
nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và
xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.

Khái niệm trên vừa nói đến văn hố vật chất và văn hố tinh thần, vừa nói
đến hệ giá trị và đặc biệt là nêu lên “những nét riêng biệt về văn hoá của một xã
hội hay một nhóm người trong xã hội”. Như vậy, khái niệm trên cũng là khái
niệm văn hoá theo nghĩa rộng, kèm theo đó là quan điểm cơng nhận mỗi dân tộc
dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc văn hố riêng biệt.
Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn".
Ở khái niệm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số những sản phẩm
do con người sáng tạo ra, trong đó có văn hố vật thể (những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở…), có văn hố phi vật thể (ngơn ngữ, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật). Chữ “giá trị” được ẩn dưới
câu “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống… nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn”. Những sản phẩm do con người phát minh ra mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh liệt kê nêu trên phải là những sản phẩm nhằm phục vụ cho con
3


người, có nghĩa là chứa đựng những giá trị. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra một khái niệm văn hố theo nghĩa rộng.
1.2. Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới:
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hai mươi năm qua chính là sự chủ
động hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng
tự hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển
khá cao (từ 7,5 - 8% năm), cơ cấu kinh tế được chuyển địch theo hướng tích cực
phát triển công nghiệp và dịch vụ, tốc độ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, khoa học

cơng nghệ với những bước đi dài... tất cả đã tạo điều kiện chín muồi để Việt
Nam vững bước trên tiến trình hịa nhập Thương mại Quốc tế WTO.
Về kinh tế là vậy còn về văn hóa, hơn 20 năm hội nhập văn hóa thế giới
quả là cuộc đấu tranh quyết liệt. Đánh giá về thành tựu hội nhập văn hóa có
nhiều ý kiến khác nhau, không được đồng thuận như khi chúng ta đánh giá về
thành tựu đổi mới kinh tế. Điều này chứng tỏ q trình hội nhập văn hóa của
chúng ta cịn có những vấn đề non yếu. sự non yếu đó đã thể hiện đúng thực
trạng của nền văn hóa Việt Nam hiện nay. Và sự hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay ở nước ta phải đảm bảo được 2 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam đã
được xác định tại Cương lĩnh năm 1991 (được Đại hội VII thơng qua) đó là: tiên
tiến và đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội
dung xã hội.
1.3. Quan điểm của Đảng ta về vai trò và tầm quan trọng của văn hóa:
Về vai trị của văn hố, Đại hội VI đánh giá "khơng hình thái tư tưởng nào
có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người". Đại
hội VI cũng đề cao vai trị của văn hố trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư
tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã khơng cịn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định
đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra mơi
trường văn hố thích hợp cho sự phát triển.

4


Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã
xác định văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của phát triển. Đây là tầm nhìn mới về văn hóa phù hợp với tầm
nhìn của thế giới. Trong đó:
Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa
học và giáo dục đóng vai trị then chốt trong tồn bộ sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thốt ra khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự
nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm
vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ
mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến
bộ thì khơng có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển
kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội cơng bằng, văn minh, con người
phát triển tồn diện.
2. Nền văn hố Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của tồn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
5. Văn hố là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hố là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh...
5


2. Xây dựng mơi trường văn hố.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.

6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hố các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hố đối với tơn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, xây dựng và hồn thiện thể chế văn hố.
Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước
và phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng
bộ với phát triển kinh tế".
HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ
phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm
vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng thời cũng
nhận định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu và phương thức
sinh hoạt văn hố. Do đó phạm vi, vai trị của dân chủ hố - xã hội hoá văn hoá
và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách thức mới đối với
sự lãnh đạo và quản lý cơng tác văn hố của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội X (năm 2006) đã thể hiện và khẳng định quyết tâm “Trong những
năm tới, cần đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hoá lên
nhanh hơn nữa, tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế”. Đại hội X đã chỉ rõ
các quan điểm về phát triển văn hố đó là: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
6


cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống, xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt nam thời kì cơng nghiệp
hố, hiện đại hố”.
Tư tưởng nổi bật ở đây là tập trung nâng cao chất lượng của việc xây
dựng con người và môi trường văn hoá để tạo nhân cách mới của con người Việt
Nam trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển văn hoá từ hội nghị Trung ương 5
(Khóa VIII) Và kết luận của hội nghị trung ương 10 (Khoá IX), Đại hội X đã
xác định cụ thể ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện:
- Xây dựng mơi trường, lối sống và đời sống văn hố của mọi người dân
ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của
nhân dân. Thực hiện theo hướng góp phần nâng cao tinh thần công dân trong
thời kỳ mới, nâng cao ý thức về quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công
dân đối với nhân dân, dân tộc và thời đại.
- Khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm cơng
trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. (Văn kiện Đại hội X)
Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực đặc trưng của văn hoá và có ý nghĩa tạo
nên bộ mặt văn hố dân tộc. Để thực hiện được nhiệm vụ này, cần tạo ra môi
trường thuận lợi về vật chất, tinh thần, phát huy dân chủ, đảm bảo tự do cho mọi
sự sáng tạo. Đồng thời nêu cao trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sĩ
trước nhân dân, dân tộc và thời đại.
- Tập trung xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá,
chú trọng xây dựng các cơng trình văn hố tiêu biểu.
Hệ thống thiết chế văn hố bao gồm tồn bộ bộ máy tổ chức, các cơ quan
hoạt động sáng tạo, biểu diện, nghiên cứu quản lí văn hố, nghệ thuật; các đơn
vị hành chính - sự nghiệp, toàn bộ cơ sở vật chất kĩ thuật và đội ngũ nhân sự

7



cùng với cơ chế hoạt động để xây dựng vấn đề trong Chiến lược xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với xây dựng thiết chế văn hố, Đảng cịn chủ trương tập trung vào
các vấn đề trong Chiến lược xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng các cơng trình văn hố lớn tiêu biểu cho những thành tựu sáng tạo
mới của nền văn hoá Việt Nam hiện đại.
Như vậy là trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng và phát triển văn
hoá - xã hội, Đảng ta tiếp tục bổ sung và phát triển một số quan điểm mới.
II. Vấn đề văn hóa Việt Nam thời kỳ Đổi mới và đường lối giải quyết của
Đảng:
2.1 Thành tựu:
- Tư tưởng, đạo đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa đã
có những bước chuyển quan trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và sáng
tạo ngày càng tỏ rã giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hoạt động của Đảng, của cách mạng nước ta, là nhân tố hàng đầu đảm bảo cho
đời sống tư tưởng xã hội phát triển đúng hướng.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng
chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn hóa, đền ơn
đáp nghĩa những người có công giúp đỡ người hoạn nạn…trở thành phong trào
quần chúng. Tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng được tơn trọng.
- Sự nghiệp giáo dục-khoa học thu được những thành tựu quan trọng, góp
phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân làm tăng thêm sức mạnh
nội sinh.
Văn hóa nghệ thuật là những hoạt động sáng tạo nghệ thuật có những
bước phát triển mới. Nhiều bộ mơn hoạt động truyền thống được giữ gìn. Có
thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công
cuộc đổi mới, nhiều bộ sưu tập cơng phu từ kho tàng văn hóa dân gian và văn
hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản tạo cơ sở cho việc
8



nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mĩ
của dân tộc.
Các hoạt động, phê bình đạt được nhiều kết qủa tích cực khẳng định mạnh
mẽ văn học cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi những quan niệm sai trái.
- Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng và quy mơ, nội
dung và hình thức, về in phát hình, truyền dẫn ngày càng phát huy vai trò quan
trọng trong đời sống văn hóa, tư tưởng xã hội.
Hệ thống mạng thơng tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả
năng lựa chọn khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công
chúng.
- Giao lưu với nước ngồi từng bước được mở rộng, chúng ta có dịp tiếp
xúc rộng rãi với những tư tưởng văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân
dân các nước những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam.
- Hệ thống thể chế văn hóa được xây dựng nhưng chưa hoàn chỉnh, song
về cơ bản đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể
chế văn hóa mới khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng
văn hóa trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ, giúp đội ngũ văn nghệ sĩ làm tốt
vai trò nòng cốt trong sáng tạo giá trị văn hóa mới, tạo điều kiên thực hiện tốt
nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp tiếp thu tinh hoa
văn hóa thế giới. Đảng và Nhà nước quan tâm, tăng cường bộ máy tổ chức, ban
hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của nghành văn hóa.
Một bộ phận quan trọng của thiết chế văn hóa ( nhà văn hóa, câu lạc bộ,
bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí…) đã có những
phương thức hoạt động mới có hiệu quả.
2.2 Hạn chế:
Thời kỳ Đổi mới không chỉ làm cho nền kinh tế nước ta có những bước
phát triển mới, mang lại những thành tựu mới, nền văn hóa có sự giao lưu, tiếp
xúc mà nó cũng mang lại những mặt trái của nó thể hiện trước nhất là trên lĩnh

vực văn hóa.
9


- Nổi lên trước hết ở nhận thức tư tưởng trong đạo đức, lối sống :
Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới một số người dao
động, hoài nghi về con đường CNXH, phủ nhận thành quả của CNXH ở nước ta,
phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khơng ít
người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch
của kẻ thù muốn xuyên tạc, bơi nhọ chế độ ta.
Tệ nạn sùng bái nước ngồi coi thường những giá trị văn hóa dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỉ… đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Vì đồng tiền mà chạy trà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ
thầy trị, đồng chí đồng nghiệp. Bn lậu, tham nhũng ngày càng tăng, ma túy,
mại dâm các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều.
Mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là
trong cưới hỏi, tang lễ, lễ hội… Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức lối
sống ở một bộ phận Đảng viên. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu
xài phung phí, ăn chơi sa đọa khơng được ngăn chặn hiệu quả.
Hiện tượng quan liêu, sách nhiễu, kèn cựu địa vị, cục bộ, địa phương, bè
phái, mất đồn kết cịn phổ biến gây bất bình trong nhân dân, tổn hại đến uy tín
của Đảng và Nhà nước.
- Trong giáo dục và đào tạo sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trị, bè
bạn, mơi trường sư phạm xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi,
nghiện ma túy ở một bộ phận học sinh-sinh viên. Việc coi nhẹ giáo dục đạo đức,
thẩm mỹ và các bộ mơn chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
- Đời sống văn hóa nghệ thuật cịn nhiều mặt bất cập.
Có rất ít những tác phẩm nghệ thuật đạt đến đỉnh cao tương xứng với sự
nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới.
Trong sáng tác và phê bình có lúc nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu

văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị. Một vài tác
phẩm viết về kháng chiến khơng phân biệt được chiến tranh chính nghĩa và
chiến tranh phi nghĩa, xu hướng “ thương mại hóa ” chiều theo những thị hiếu
10


thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn hóa, nghệ
thuật suy giảm.
Các sản phẩm văn hóa độc hại vẫn xâm nhập vào xã hội và gia đình,
nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ăn, khách sạn, sàn nhảy mở ra tràn lan, hoạt
động tùy tiện, không tuân theo quy định của pháp luật, các cơ quan quản lý Nhà
nước khơng có biện pháp hữu hiệu để quản lý.
Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu ,lý luận ,phê bình văn học nghệ
thuật cịn yếu. Nhà nước chậm ban hành các chính sách để phát huy những năng
lực hiên có. Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh thiếu
niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ hở,
thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời của những tác phẩm lớn, cho
giữ gìn và phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống.
- Trong thơng tin đại chúng cịn nhiều sản phẩm thấp chưa được kịp thời
phát hiện và lý giải được những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa
biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực cũng như thiếu
sự phê phán kịp thời những việc làm sai trái với đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và đạo đức của xã hội. Khơng ít trường hợp thơng tin thiếu chính
xác, làm lộ bí mật Quốc gia. Khuynh hướng thương mại hóa, lạm dụng quảng
cáo để thu lợi cịn phổ biến.
Một số ít các nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung
thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội vẫn chưa được xử lý kịp thời theo
pháp luật.
- Giao lưu văn hóa với nước ngồi chưa tích cực và chủ động cịn nhiều

sơ hở.
Số văn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta quá nhiều
trong khi đó số tác phẩm văn hóa có giá trị của ta đưa ra ngồi cịn q ít.
Lực lượng hoạt động văn hóa-văn nghệ trong cộng đồng người Việt ở
nước ngồi khơng nhỏ đã có nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật tốt hướng về
11


Tổ quốc song ta cịn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào hiểu sâu về
văn hóa dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần đấu tranh với những
hoạt động chống phá Tổ quốc.
- Xây dựng thể chế văn hóa cịn chậm và có nhiều thiếu sót.
Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa chậm được ban hành. Bộ
máy tổ chức nghành văn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu
lực lãnh đạo và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa chưa đáp ứng
được yêu cầu, còn hẫng hụt cán bộ văn hóa ở vị trí quan trọng.
Chính sách khuyến khích và đầu tư xã hội cho phát triển văn hóa cịn chưa
rõ. Hệ thống các thiết chế văn hóa nội dung bị xuống cấp hoặc sử dụng kém hiệu
quả. Ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số, vùng căn
cứ cách mạng, vùng kháng chiến cũ đời sống văn hóa cịn nghèo nàn.
2.3 Những nhiệm vụ về văn hóa đặt ra trong thời kỳ hiện nay:
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong
điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
trước mắt chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển biến cơ bản và bước phát triển mạnh
mẽ trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Đẩy mạnh hơn nữa phong trào ''Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn
hoá'' gắn chặt với cuộc vận động chính trị sâu rộng trong tồn Đảng, tồn dân,
toàn quân học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, làm
chuyển biến mạnh mẽ công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp và thanh
niên.

12


Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ trung tâm xây dựng
kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, bảo đảm hoạt động văn hoá tiến
hành đồng bộ với hoạt động kinh tế, hình thành nền tảng tinh thần vững chắc
cho xã hội. Cũng cần nói thêm rằng, để thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể về xây
dựng và phát triển văn hoá, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con
người với những đức tính cơ bản, tốt đẹp, chúng ta phải xây dựng và phát triển
hài hoà các nhiệm vụ khác, từ xây dựng mơi trường văn hố, phát triển văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá đến việc
bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số, chính sách văn hố đối với
tơn giáo và hợp tác quốc tế về văn hoá...
Tiếp tục tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá,
trước hết và tăng mức đầu tư từ ngân sách cho phát triển sự nghiệp văn hố đi
đơi với việc huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân và sử dụng một
cách có hiệu quả nhất các nguồn lực đó; sớm xây dựng và thực hiện chiến lược
tuyển chọn, đào tạo, phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật; tăng cường và
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với văn hố.
Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần nâng cao nhận
thức và trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hoá, song song với các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội ...; nêu cao tinh thần gương mẫu về tư tưởng, đạo đức,
lối sống; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng theo phương châm

''nói đi đơi với làm”, đã nói là làm để cho các quyết định lần này được quán triệt
trong từng cán bộ, đảng viên, nhất và cán bộ chủ chốt, và mọi tầng lớp nhân dân.
Các cấp, các ngành cần có ngay các chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể
để đưa những nội dung đó thấm sâu vào từng địa phương, từng ngành, từng đơn
vị, từng cộng đồng, từng gia đình, từng con người, tạo thành phong trào thi đua
sôi nổi, xây dựng con người mới và mơi trường văn hố mới phong phú, lành
mạnh, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Nếu như mỗi
ngày, mỗi người chúng ta đều làm được một việc tốt hay vài ba việc tốt, và toàn
13


xã hội đều làm như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được các hiện tượng
tiêu cực, làm cho xã hội ta ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn hoá của chúng ta
ngày càng được nâng cao hơn.
2.4 Vận dụng đường lối xây dựng nền văn hóa trong thời kỳ Đổi mới của
Đảng để giải quyết các vấn đề văn hóa:
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ
trương, chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực
văn hóa, chỉ đạo hoạch định các chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
2.4.1. Về chủ trương, đường lối:
Trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986, những nhận
thức mới của Đảng về văn hóa có bước chuyển quan trọng. Nền văn hóa mà
Đảng xác định phải xây dựng là nền văn hóa với đặc trưng dân tộc, hiện đại,
nhân văn. Một hệ thống lý luận văn hóa được hợp thành với lý luận chung trong
quá trình đổi mới tư duy của tồn xã hội.
Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 05 về Văn hóa- Văn nghệ
trong cơ chế thị trường; Nghị quyết của Bộ Chính trị và các kết luận về văn hóa,

văn nghệ (tháng 11 năm 1988); tháng 8 năm 1989, Ban Bí thư Trung ương ra
Chỉ thị số 52- CT/TW về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình Văn họcNghệ thuật; tháng 6 năm 1990, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 61- CT/TW
về công tác quản lý văn học- nghệ thuật; tháng 1 năm 1993, BCHTW ra Nghị
quyết Trung ương 4 về một số nhiệm vụ văn hóa- văn nghệ những năm trước
mắt; tháng 7 năm 1998, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra Nghị quyết về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm
sáng lên bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai. Đó là nền văn hóa
14


với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh
tế- xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn
đề nảy sinh trong xu thế tồn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Đối với cơng tác
lãnh đạo văn hóa, Nghị quyết khẳng định: Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ
bản và chiến lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả cơng tác quản lý
văn hóa, với mỗi cán bộ, đảng viên.
Có thể nói Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã thể hiện sự phát triển
cả nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó cũng
chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa, về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về
phương pháp lãnh đạo văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận
và thực tiễn trong quá trình hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa
của Đảng.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về văn hóa thơng qua việc thể chế
hóa các chủ trương, chính sách của Đảng bằng luật pháp, pháp lệnh, nghị định,
quy định, các chính sách văn hóa... Thơng qua các chương trình hành động,
phong trào thi đua yêu nước, qua hệ thống các thiết chế văn hóa để vận động
quần chúng nhân dân thực hiện; biến chủ trương, chính sách, nghị quyết của

Đảng thành lực lượng vật chất, thành phong trào cách mạng; tạo ra những kết
quả cụ thể nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, thúc đẩy phát
triển kinh tế- xã hội, trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Đến Đại hội IX ( năm 2001 ), những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát
triển văn hóa được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh vị trí của văn hóa
trong lịch sử phát triển của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những
quan điểm, tư tưởng nêu trong Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) trong đời
sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về ý nghĩa, Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm

15


cao, chiều sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn
hóa trong đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Gắn kết chặt chẽ hơn
với phát triển kinh tế xã hội; Làm cho văn hóa thấm sâu và mọi lĩnh vực đời
sống xã hội; Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; Bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên,
sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức
và bản lĩnh văn hóa Việt Nam; Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch
sử cách mạng, kháng chiến, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; Kết hợp hài hịa
giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển

kinh tế du lịch. tinh thần tự nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng
văn hóa; Đa dạng hóa các hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”.
Để thực hiện được yêu cầu trên, trong xây dựng chính sách, tổ chức thực
hiện cần phải phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, nhà
nước, đoàn thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật, khoa học, trí thức, báo chí,
của các cá nhân; Xây dựng và phát triển chương trình giáo dục văn hóa, thẩm
mỹ, nếp sống văn hóa hiện đại trong nhân dân; Phát huy tiềm năng, khuyến
khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật; Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa; Xây
dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định; Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế về văn hóa; Chống sự xâm nhập văn hóa độc hại, lai căng, phản động;
Xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa; Tạo điều kiện cho các
16


lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển; Nâng cao chất lượng tư tưởng
văn hóa, hiện đại về mơ hình, cơ cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật; Xây dựng cơ chế
quản lý khoa học, phù hợp; Đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn
nghệ sỹ; Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội
văn học- nghệ thuật từ trung ương đến địa phương.
Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, đối với văn hóa, văn học nghệ thuật,
Đảng đã dành sự quan tâm cho một số lĩnh vực tinh túy và nhạy cảm thường
xuyên tác động đến đời sống tinh thần của xã hội. Đó là hai kết luận quan trọng
của Ban Bí thư (số 83 ngày 27/6/2008), Bộ Chính trị (số 51 ngày 22/7/2009) chỉ
đạo việc tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về ; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chỉ thị này. Nghị quyết số
23- NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị . Theo đó sẽ có các đề
án của các ban, bộ, ngành phối hợp triển khai nhằm đưa các quan điểm chỉ đạo,
những chủ trương và giải pháp của Đảng về văn học, nghệ thuật thành hiện thực

phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.
2.4.2 Quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển văn hóa:
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo UNESCO: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống
động mọi mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong
hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền
thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được
thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền
lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền
của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
17


- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn
hoá. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng lại không thể
tách khỏi cội nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi
quốc gia dân tộc là văn hoá.
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự
phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần tuý kinh tế tạo ra, mà
động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị
văn hoá đang được phát huy.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái
đúng, cái tốt, cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá

với số lượng và chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử
dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích
vật chất dẫn tới suy thối xã hội.
Trong vấn đề bảo vệ mơi trường vì sự phát triển bền vững, văn hoá giúp
hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ" dẫn đến chỗ
làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển
Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hố
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định: Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ
yêu cầu "tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát
triển văn hố, bảo vệ môi trường".
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là
vấn đề bức xúc. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các
nước độc lập đang tìm tới con đường dẫn tới ấm no hạnh phúc, thì việc giải

18


quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế xã hội càng có ý
nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn
át mục tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch,
chính sách phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển
theo con đường cơng nghiệp hố.
Để làm cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển
chúng ta chủ trương phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
— Khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và

hướng tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn
hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
— Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời xác định
mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh.
- Văn hố có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài
nguyên, vốn v...v.. Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn
kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng tái sinh và
tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có
hiệu quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Năm 1990, chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) đưa ra
những tiêu chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số
phát triển con người, một trong ba chỉ tiêu của cách tính tốn mới này là thành
tựu giáo dục (hai chỉ tiêu khác là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu
giáo dục lại được tổng hợp từ hai tiêu chí: Tình trạng học vấn của nhân dân và
số năm được giáo dục tính bình qn cho mỗi người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ
tồn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng
19


trưởng dồi dào. Như vậy văn hoá trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn "tài nguyên
người".
Việt Nam từ một nước nơng nghiệp lạc hậu, đi vào cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, nên chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ
lệ người biết đọc, biết viết được xếp vào thứ hạng cao trong khu vực nhưng
nguy cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, tin học.
Hai là, Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.

- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được xây dựng, vun đắp qua hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước.
Đó là lịng u nước, ý chí tự lực tự cường tinh thần đồn kết, đó là lịng
nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản
xuất...
Có thể nói bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình
dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình,
biết cạnh tranh, hợp tác để tồn tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư
duy, cách sống, cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, nghệ thuật...nhưng được
thể hiện sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là những gì nhân dân
quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi
được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong
hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn
định xã hội và sự vững vàng của chế độ ta.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm
đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng thành tựu
20


khoa học kỹ thuật... sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có tư duy
độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang bản sắc Việt Nam. Đi vào kinh tế thị
trường, mở rộng giao lưu quốc tế phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại,
song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Để xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ
trương phải mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những cái hay, cái tiến bộ trong

văn hoá dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia
hội nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới
của nền văn hoá Việt Nam đương đại. Đồng thời phải chống những cái lạc hậu,
lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng,
là sự hồ quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em
cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và
bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hố chung nhất.
Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất khơng có sự
đồng hố hoặc thơn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá của các dân tộc.
54 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn
hoá riêng. Các giá trị và bản sắc văn hoá đó bổ sung cho nhau, làm phong phú
nền văn hố Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của tồn dân
do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
- Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền
văn hố của đất nước, trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng trong sự
nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá do Đảng ta lãnh đạo và
Nhà nước quản lý.

21


- Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục và đào tạo,
cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Như vậy, văn hố hiểu theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ. Phát triển nhận thức này đã được nêu ra từ Đại hội

VI của Đảng, đến Hội nghị Trung ương 2, khoá VIII (12/1996) khẳng định:
+ Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của
tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
củng cố quốc phòng - an ninh.
- Thực hiện quốc sách này chúng ta chủ trương:
+ Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện.
+ Chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở - mơ
hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông
giữa các bậc học, ngành học.
+ Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.
+ Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào
tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế
trọng điểm và cho việc xuất khẩu lao động.
+ Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử
dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn
nhân lực chất lượng cao.
+ Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả
các cấp học, bậc học.
+ Thực hiện xã hội hoá giáo dục.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
+ Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
22


+ Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ.
+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và cơng nghệ.

Năm là, văn hố là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận
trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo
nên những giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống
toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là
một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, địi hỏi nhiều thời gian. Trong
cơng cuộc đó, "xây" đi đơi với "chống", lấy xây" làm chính. Cùng với việc giữ
gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh
hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành
kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến
đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện "diễn biến hồ bình".
2.4.3. Định hướng đối với các chính sách văn hóa:
Q trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, vấn đề định hướng phát triển đất
nước là cực kỳ quan trọng. Định hướng đúng để đạt tới mục tiêu mà Cương lĩnh
năm 1991 về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đề
ra, được Đại hội VII của Đảng thông qua. Theo đó, phát triển kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở thành
nước công nghiệp. Nhưng điều cốt lõi là chất lượng phát triển, phát triển muốn
đạt chất lượng nhất thiết phải có nội dung văn hóa- xã hội. Phát triển văn hóa- xã
hội và xây dựng con người ln ln gắn bó với định hướng chính trị, định
hướng phát triển kinh tế đất nước. Và cũng như phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa cũng phải coi trọng chất lượng, phải đúng hướng. Bác Hồ từng nói . Những
con người đó phải được chăm lo cả về bản lĩnh chính trị tư tưởng, học vấn, sức
khỏe, trí tuệ, tình cảm và đạo đức, đó chính là văn hóa.
Nền văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa thơng qua các chính sách văn
hóa mang tính nhân văn, vì con người; phát huy tiềm năng, trí tuệ con người để
23



đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, của nền kinh tế tri thức trong xu
thế hội nhập quốc tế. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng, ý nghĩa, vai trị, vị trí
của văn hóa trong đời sống dân tộc và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã đề cập đến chính sách văn hóa
trong nhiệm vụ thứ 10 đó là . Nhiệm vụ chỉ rõ việc phải hồn chỉnh các văn bản
luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường;
ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Do tầm quan trọng, tính cấp thiết của
nhiệm vụ này nến Nghị quyết đã ghi nội dung đó vào giải pháp thứ II trong cụm
các giải pháp
Đến Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX), Trung ương Đảng khẳng định cần
tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương 5
(khóa VIII) đề ra. Trong kết luận của Hội nghị Trung ương 10, mục tiêu đầu tiên
xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm tiếp theo nêu
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đánh đuổi
giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn
quan tâm đến văn hóa và càng coi trọng hơn trong thời kỳ đổi mới, trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết
Đại hội Đảng các kỳ VIII, IX, X; các kết luận, chỉ thị của Hội nghị Trung ương
các khóa trên đều thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng trong nhìn nhận, đánh
giá, chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, gắn chặt với chiến lược xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo hướng đó, văn hóa
phải thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, đồng thời đòi hỏi
một cơ chế chính sách đảm bảo cho văn hóa và kinh tế cùng phát triển.
Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa
Các chính sách văn hóa phải phản ánh những giá trị nhân văn của văn hóa
Việt Nam. Muốn vậy phải xác định được những giá trị nhân văn của Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tập trung làm nổi bật hệ thống giá trị
nhân văn đó ở tinh thần, đồng thời phải kết hợp hài hịa 3 lợi ích: lợi ích cá nhân,
24



lợi ích tập thể, lợi ích tồn xã hội. Đây cũng chính là một trong những động lực
của sự nghiệp đổi mới.
Các chính sách văn hóa đều theo tinh thần xã hội hóa. Hiện nay cịn
khơng ít người hiểu vấn đề xã hội hóa chưa đầy đủ. Điều đó trở thành lực cản
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Cơng tác giáo dục, tun truyền
cần phải làm cho mọi người nhận thức được xã hội hóa là vấn đề hết sức cần
thiết, nhất là đối với hoàn cảnh kinh tế của nước ta cịn nhiều khó khăn, Nhà
nước khơng thể “bao” tồn bộ. Xã hội hóa là nhằm tạo sự quan tâm của toàn xã
hội; thu hút trí tuệ, nhân lực, vật lực của tồn xã hội; gây nhân tố thúc đẩy các
hoạt động văn hóa phát triển theo hướng biến đổi về chất, đổi mới về hình thức
và nội dung. Xã hội hóa cũng là một nội dung quan trọng của giải pháp xây
dựng, ban hành các chính sách văn hóa trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII). Trong q trình đất nước thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế phát
triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì xã hội hóa hoạt
động văn hóa được coi như một động lực thúc đẩy các hoạt động văn hóa phát
triển.
Chính sách văn hóa đúng định hướng của Đảng, bám sát yêu cầu về tư
tưởng chính trị cịn góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh hóa xã hội. Ở đâu
khơng ổn định thì ở đó khơng thể phát triển. Một gia đình, tập thể, cộng đồng và
lớn hơn là tồn xã hội nếu có đời sống văn hóa phong phú, chất lượng cao, bình
đẳng… tức là có chính sách văn hóa nhân văn.
Xây dựng đời sống văn hóa được coi như bước đi ban đầu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa, là nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng mơi
trường văn hóa lành mạnh. Đồng thời xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh
cũng chính là góp phần tạo ra mơi trường chính trị- xã hội ổn định, an toàn và
bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo.

25



×