Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CƠ sở TRIẾT học của VIỆC xác ĐỊNH đổi mới KINH tế là TRỌNG tâm NHƯNG ĐỒNG THỜI PHẢI TIẾN HÀNH đổi mới CHÍNH TRỊ và các mặt KHÁC của đời SỐNG xã hội TRONG QUÁ TRÌNH đổi mới ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.73 KB, 15 trang )

-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN
ĐỀ BÀI: CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH
ĐỔI MỚI KINH TẾ LÀ TRỌNG TÂM NHƯNG
ĐỒNG THỜI PHẢI TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI CHÍNH
TRỊ VÀ CÁC MẶT KHÁC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM.

Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Mã SV:
GVHD:

.....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021

1


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG
1. Cơ sở triết học của việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng
thời phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
quá trình đổi mới ở Việt Nam
1.1. Khái niệm kinh tế
1.2. Khái niệm chính trị
1.3. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
1.3.1. Kinh tế có vai trị quyết định chính trị
1.3.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với


kinh tế.
2. Thực tiễn việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải
tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị trong giai đoạn hiện nay.
2.1.1. Thực tiễn đổi mới kinh tế trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
2.1.2. Thực tiễn đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
2.2 Một số đề xuất kiến nghị về quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề
này của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức
vai trò kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống sối, quyết định kinh tế và
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế
trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn
giản về tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế.
Chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống
những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ

máy hành chính cịn quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Quá trình đổi mới của nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết, trong đó có vấn đề “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế;
năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm
vụ”. Việc nghiên cứu quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị để trên cơ sở đó cung cấp cho chúng ta phương pháp luận nhằm giải
quyết tốt mối quan hệ này ở nước ta là cần thiết.
Vì vậy, trong bài tiểu luận này em chọn đề tài: “Cơ sở triết học của việc
xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải tiến hành đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam”.

3


NỘI DUNG
1. Cơ sở triết học của việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng
đồng thời phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động
trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như q trình phát
triển của lồi người. Do đó, khi nghiên cứu về quá trình vận động, phát triển
của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã bàn đến khá nhiều vấn đề kinh
tế, chính trị và mối quan hệ của chúng. Việc nghiên cứu quan điểm của
C.Mácvà Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là cơ sở phương
pháp luận để xem xét việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng
thời phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
1.1. Khái niệm kinh tế
Theo C.Mác, muốn tồn tại, con người cần phải ăn, uống, mặc, ở, đi lại...

Tất cả những hoạt động gián tiếp hoặc trực tiếp tạo ra những thứ thỏa mãn nhu
cầu đó đều thuộc về kinh tế. Trong quá trình sản xuất, con người không thể tiến
hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ, trái lại, muốn sản xuất, con người
chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà cịn phải có quan hệ với nhau.
“Người ta khơng thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo một
cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau;
và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong
khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”.
Khái niệm “kinh tế” theo quan điểm của C.Mác, chứa đựng trong nó cả
những quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con
người trong q trình sản xuất vật chất. Do đó, kinh tế là toàn bộ hoạt động sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải và những quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người và tự nhiên, giữa xã hội và tự nhiên.
4


1.2. Khái niệm chính trị
C.Mác khẳng định: “Tồn bộ những quan hệ ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng
với cơ sở hiện thực đó”. Điều này cho thấy, chính trị được C.Mác xem xét dưới
khía cạnh kiến trúc thượng tầng chính trị, trong đó bao hàm ý nghĩa quyền tác
động, chi phối, thống trị của một giai cấp đối với tồn bộ xã hội. Nói cách
khác, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc
gia có liên quan đến vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước.
Để làm sáng tỏ thêm điều này,Ph.Ăngghen khẳng định, nhà nước khơng
phải là một quyền lực từ bên ngồi áp đặt vào xã hội. Nó càng khơng phải là
cái “hiện thực của ý niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực của lý tính” như
quan điểm Hêghen. Trái lại, nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển

tới một giai đoạn nhất định; nó là sự thể hiện rằng xã hội đó đang ở trong một
mâu thuẫn không thể giải quyết được; rằng xã hội đó đã bị phân chia thành
những mặt đối lập khơng thể điều hịa mà xã hội đó bất lực khơng sao loại bỏ
được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có lợi ích kinh tế
mâu thuẫn đó, khơng đi đến chỗ tiêu diệt nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong
một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết, tựa hồ như
đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột
đó nằm trong vịng trật tự, và lực lượng đó nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại
đứng lên trên xã hội và ngày càng xa rời xã hội. Đó chính là nhà nước.
1.3. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
1.3.1. Kinh tế có vai trị quyết định chính trị
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, trước hết con người phải có khả năng sống
đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần
phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Để có thức
ăn, thức uống, nhà ở, quần áo để mặc; con người phải lao động sản xuất để tạo
ra những tư liệu nhằm thoả mãn những nhu cầu tối thiểu ấy.

5


Việc sản xuất ra đời sống của bản thân con người bằng lao động sản xuất
tạo nên một quan hệ kép - quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên và
mặt khác là quan hệ xã hội. Theo C.Mác, những quan hệ ấy hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội mà trên đó con người xây dựng lên kiến trúc thượng tầng,
trong đó có thượng tầng về chính trị: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý
muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là
cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và

chính trị”. Như vậy, kinh tế có vai trị quyết định chính trị.
Theo tinh thần đó của C.Mác, trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm cho rằng chính trị quyết định kinh tế và
dẫn chứng, phân tích bằng thí dụ cụ thể về bạo lực. Ph.Ăngghen khẳng định:
bạo lực cũng do tình trạng kinh tế quyết định; tình trạng kinh tế tạo cho bạo lực
những phương tiện để vũ trang; toàn bộ việc tổ chức và phương pháp chiến đấu
của quân đội, thắng lợi và thất bại đều phụ thuộc vào những điều kiện vật chất,
điều kiện kinh tế, vào nhân lực và vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng
của dân cư và cả kỹ thuật. Khơng phải chính trị mà là “khơng có ngoại lệ và
khơng thương xót, sự phát triển kinh tế cứ tự mở đường đi cho nó” và do đó
kinh tế ln có vai trị quyết định đối với chính trị.
V.I.Lênin cũng đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị như sau: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"; "Chính trị tức là
kinh tế được cơ đọng lại". Sự khẳng định này có nghĩa, chính trị ra đời từ kinh
tế, do kinh tế quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai so với kinh tế.
Chính trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, khơng được thốt ly những
đặc trưng và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở kinh tế biến đổi,
chính trị phải biến đổi theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế
để tạo được môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách
quan.
6


Tóm lại, tất cả các yếu tố của chính trị, từ giai cấp và đấu tranh giai cấp,
nhà nước, chính đảng và hoạt động nhà nước, đến những quan điểm chi phối
các hoạt động đó đều có nguồn gốc từ kinh tế. Vì thế, cần phải lấy những quan
hệ kinh tế và sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích chính trị và lịch
sử chính trị, chứ không phải ngược lại. Khẳng định này của Ph.Ăngghen là sự
tiếp tục quan điểm của C.Mác trước đó về vai trị quyết định của kinh tế đối với
chính trị. Điều đó cho thấy quan điểm duy vật triệt để của C.Mác và

Ph.Ăngghen khi xem xét các vấn đề lịch sử, xã hội - điều mà các nhà triết học
duy vật trước đó chưa có được.
1.3.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với
kinh tế.
Khơng chỉ khẳng định vai trị quyết định của kinh tế với chính trị,
C.Mác và Ph.Ăngghen ln nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động
trở lại của chính trị đối với kinh tế. C.Mác cho rằng: "Sự phát triển về mặt
chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v. v. là dựa trên sự
phát triển kinh tế. Nhưng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và
cũng tác động đến cơ sở kinh tế. Hồn tồn khơng phải điều kiện kinh tế là
nguyên nhân duy nhất chủ động, cịn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động".
V.I.Lênin cũng cho rằng, "chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế". Khẳng định đó của Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương
đối và vai trị tác động trở lại rất tích cực của chính trị đối với kinh tế. Sự tác
động của chính trị đối với kinh tế thông qua sức mạnh của các thể chế của hệ
thống chính trị, đặc biệt là của nhà nước được thể hiện ở chỗ nếu một nền chính
trị đúng đắn, khoa học, phù hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển, và vì thế, nó sẽ góp phần to lớn
vào tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất, làm lành mạnh hóa các quan
hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, không khoa học, không phù hợp với
thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là lực lượng kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí
đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định chính trị
- xã hội.
7


Điều này trước hết được thể hiện ở chỗ, thắng lợi của chính trị là tiền
đề, điều kiện tiên quyết cho phát triển kinh tế. Việc giành lấy lợi ích chính trị
khơng có mục đích tự thân, mà chỉ là phương thức, phương tiện để đạt lợi ích
kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế. Nói cách khác, đấu tranh giành lợi ích chính

trị cũng nhằm phục vụ cho việc giành lợi ích kinh tế, bảo vệ lợi ích kinh tế. Do
đó, C.Mác đã cho rằng, trong cách mạng vô sản, để bảo đảm sự thống trị về
mặt kinh tế của giai cấp công nhân, điều kiện đầu tiên là phải đập tan bộ máy
nhà nước tư sản, thiết lập quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản, vì “việc giải
phóng giai cấp cơng nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong
trào chính trị nào cũng đều phải phục tùng”.
Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế cịn được thể hiện ở
chỗ, chính trị tạo mơi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng những điều
kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh tế. Nói cách khác, chính trị lãnh đạo
kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho
kinh tế phát triển. C.Mác khẳng định: “Tất cả các chính phủ, ngay cả những
chính phủ chuyên chế nhất, xét đến cùng, chỉ là người thực hiện tính tất yếu
kinh tế bắt nguồn từ tình hình đất nước... họ có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm
sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn
từ sự phát triển kinh tế ấy”.
Như vậy, trên lập trường duy vật về lịch sử, mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị đã được phân tích cụ thể và thấu đáo trên cả hai mặt. Quan điểm đó
tuy được các nhà triết học đưa ra trong những hồn cảnh lịch sử cụ thể nhưng
nó là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng ta xem xét, giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong giai đoạn hiện nay, cụ thể chính là vấn đề “xác định
đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải tiến hành đổi mới chính trị
và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay”.
2. Thực tiễn việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời
phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
8


2.1.


Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác -

Lênin nói chung, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị nói riêng; Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi mới cả kinh tế và chính trị.
Qua hơn 30 năm đổi mới, trong cả nhận thức và thực tiễn giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có nhiều biến
chuyển theo hướng ngày càng sáng rõ, hợp lý hơn. Về quan điểm, Đảng tachủ
trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Như vậy, Đảng
ta đã xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải tiến hành đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình đổi mới.
Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử.
2.1.1. Thực tiễn đổi mới kinh tế trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
"Đổi mới về kinh tế" là đổi mới tư duy về kinh tế, khác với tư duy này
trước đây (trước thời kỳ đổi mới) đã khơng cịn phù hợp (lạc hậu, không sát
thực…), bao gồm các chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật về những
vấn đề kinh tế cơ bản ở Việt Nam hiện nay: xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với kinh tế tri thức; phát triển đồng bộ nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Việt Nam.
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản
xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trị của hệ

thống động lực…, nước ta đã thốt khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về
9


kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, cịn tiếp tục duy trì được tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp
tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế…, tạo mơi trường
thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngồi, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự đa dạng của các
hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mơ hình quản lý theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành
thơng suốt.
2.1.2. Thực tiễn đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
"Đổi mới chính trị" là đổi mới tư duy về chính trị, khác với tư duy này
trước đây (trước thời kỳ đổi mới) đã khơng cịn phù hợp (lạc hậu, khơng sát
thực…), bao gồm các chủ trương, đường lối và chính sách, pháp luật về những
vấn đề chính trị cơ bản ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng và phát huy nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện đường lối đại đoàn kết tồn
dân tộc…
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và
phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị theo hướng dân chủ
hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh, xơ
cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh
hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta khẳng định:
“Những kết quả đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tư duy, chính sách, pháp
luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã

tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
quốc phòng an ninh.
Với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị,
10


nước ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật
khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời
sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và
có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai q trình đó có
quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực
hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước.
2.2.

Một số đề xuất kiến nghị về quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, q trình đổi mới đất nước nói

chung và đổi mới kinh tế, chính trị ở nước ta nói riêng vẫn cịn những bất cập,
hạn chế. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển
theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn,
tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học cơng
nghệ, thiếu nhiều lao động có kỹ năng”. Ngồi ra, đổi mới chính trị cịn chậm
và hiệu quả còn thấp: “Tổ chức bộ máy của Đảng và tồn hệ thống chính trị
cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn
chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống
chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các
cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên
chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả cịn thấp. Số lượng
cán bộ, cơng chức khơng những không giảm mà lại tăng...”.

Để tiếp tục đổi mới kinh tế và chính trị có hiệu quả, cần vận dụng một số
ngun tắc có tính phương pháp luận như sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là mọi sự biến đổi của
chính trị đều là sự phản ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì
vậy, phải xuất phát từ đổi mới kinh tế mà tiến tới đổi mới chính trị; hay nói
cách khác, phải xuất phát từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, chính trị
có vai trị định hướng, dẫn dắt (thơng qua cơ chế, chính sách) đối với kinh tế
nên phải khơng ngừng đổi mới chính trị. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy

11


cảm và phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến
hành từng bước.
Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong
xu thế phát triển của thời đại và trong các mối quan hệ khác của cơng cuộc đổi
mới. Cần khắc phục tính tự phát do ảnh hưởng của xã hội tiểu nông, xác định
những yêu cầu mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội nhập quốc tế. Theo đó, giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và
hoàn thiện thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hịa; xây dựng nền
kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh, phù hợp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại
diện và ngày càng coi trọng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Thứ ba, xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý
kinh tế của Nhà nước, nhằm khắc phục những sai lầm thường xảy ra trong quản
lý kinh tế ở nước ta là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn

cơ quan nhà nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp. Đảng ta cần nắm
vững những quan điểm có tính chỉ đạo, những yêu cầu về sự thay đổi tương
thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để có sự lựa chọn và vận
dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chúng.
Thứ tư, cần giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong
suốt 30 năm đổi mới, quan điểm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị từng
bước được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Sự vận
động của thực tiễn ở mỗi giai đoạn đã đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải có
những điều chỉnh cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, giải quyết mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cần được đặt trong bối cảnh mới tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0. Từ đó, có
12


những chủ trương, chính sách cho phù hợp với đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị.

13


KẾT LUẬN
Trên lập trường duy vật về lịch sử, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã
được phân tích cụ thể và thấu đáo trên cả hai mặt. Kinh tế có vai trị quyết định
đối với chính trị và các mặt khác trong đời sống xã hội, bên cạnh đó chính trị
và các mặt khác của đời sống xã hội cũng có những tác động nhất định đến
kinh tế. Dựa trên cơ sở đó, Đảng ta đã xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm
nhưng đồng thời phải tiến hành đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Từ đó đã thúc đẩy được nền kinh tế
của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, đạt được những thành tựu

nhất đinh, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành cơng sự
nghiệp đổi mới tồn diện đất nước
Tuy nhiên trong đổi mới chính trị những năm qua, chúng ta mới chỉ nhấn
mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị, cịn đổi mới con người chính trị cơ cấu và cơ chế của hệ thống chính trị - cịn mới ở mức khiêm tốn. Vì vậy,
thời gian tới chúng ta cần tập trung đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy gắn với
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị.
Nhìn lại thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước, có thể thấy, mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng trở thành nội dung quan
trọng trong các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Do vậy, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này không chỉ là
khâu đột phá mà còn giúp giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của thực tiễn
đất nước đang đặt ra.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lê Nin, NSB Chính Trị Quốc Gia.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 1993
3. “Quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị”, TS Lê
Thị Thanh Hà - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2017.
4. “Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị - ý nghĩa với Việt Nam hiện nay”, TS Lê Thị Chiên - Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2018.

15




×