Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.49 KB, 12 trang )

Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Dàn ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
a. Giới thiệu khái quát về 2 tác phẩm
- Người lái đị sơng Đà: Là tùy bút đặc sắc, in trong tập Sơng Đà, Nguyễn Tn đi tìm
chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao
động miền Tây Bắc.
- Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Là bút kí viết về vẻ đẹp của dịng sơng Hương, qua đó
ca ngợi vẻ đẹp của một vùng văn hóa xứ sở và con người xứ Huế.
=> Đều là thể kí in đậm phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của hai nhà văn
b. Giải thích khái niệm phong cách nghệ thuật
- Là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình
tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong các
sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân
tộc.
- Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác phẩm như một
thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở
những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo.
c. Khái quát về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
- Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho
cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng
nhất, có khả năng là lay động người đọc nhiều nhất.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong
phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí. Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng
nội, súc tích,mê đắm và tài hoa.
d. Nêu những nét tương đồng trong phong cách nghệ thuật của hai tác giả g thể
hiện qua hai tác phẩm:
- Đều là thể loại tùy bút và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép , miêu tả chi tiết cụ
thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến trong văn bản, qua đó bộc lộ cảm xúc,
suy tư và nhận thức đánh giá của mình về đối tượng đó. Cụ thể:


+ Người lái đị sơng Đà: Miêu tả dịng sơng Đà với hai tính cách đối lập nhau, sông

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Đà sinh thể sống, có tâm trạng, có tính cách, rồi sơng Đà như một cố nhân. Bên cạnh
đó là người lái đị bình dị mà tài hoa, trí dũng, rất đáng khâm phục và trân trọng.
+ Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Miêu tả dịng sơng Hương thấm đẫm chất thơ: thơ
mộng, dịu dàng, chung tình làm mê đắm lịng người bởi có vẻ đẹp của một người
thiếu nữ, của một người mẹ phù sa bồi đắp cho một vùng văn hóa xứ sở.
- Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác
+ Người lái đị sơng Đà: Nguyễn Tn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khi miêu tả
con sông Đà như: địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và tài hoa ở cách sử dụng ngôn từ:
nhiều từ ngữ độc đáo mới lạ, sử dụng nghệ thuật liên tưởng, tưởng tượng, so sánh,
nhân hóa.
+ Ai đã đặt tên cho dịng sơng: Hồng Phủ Ngọc Tường am hiểu về các lĩnh vực địa lí,
lịch sử, văn hóa, thi ca và miêu tả dịng sơng bằng bút pháp nghệ thuật miêu tả đặc sắc
như: liên tưởng, tưởng tượng, so sánh nhân hóa.
e. Nét khác biệt: Thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo:
- Nguyễn Tn với Người lái đị sơng Đà: Nghiêng về phát hiện và diễn tả những hiện
tượng đập mạnh vào giác quan người đọc (Phân tích con sơng Đà Hung bạo và cuộc
chiến giữa người lái đò với con sơng).
- Hồng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dịng sơng?: Thiên về chất thơ trữ tình
dịu ngọt ( Phân tích sơng Hương để nhận thấy).
g. Đánh giá nhận xét.
- Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm với nghề.
- Có tình yêu quê hương đất nước thiết tha.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Bài làm mẫu 1
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy địi hỏi người sáng tác phải có phong
cách nổi bật tức là phải có nét gì đó rất riêng biệt mới lạ thể hiện trong tác phẩm của
mình. Phong cách văn học là một yếu tố quan trọng và góp phần khơng nhỏ trong q
trình định giá tác giả, tác phẩm đó. Bởi thế mỗi nhà văn, nhà thơ phải tạo cho mình
một nét riêng khơng thể trộn lẫn, đem đến cho người đọc một sự mới lạ mà khi nhìn
vào những tác phẩm ấy độc giả sẽ biết ngay đó là sản phẩm của tác giả nào. Và
Nguyễn Tn, Hồng Phủ Ngọc Tường chính là hai tiêu biểu cho điều đó mà có lẽ nổi
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

bật nhất trong việc làm nên phong cách của các nhà văn là hai bài Tùy bút “Người Lái
Đị Sơng Đà” và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”.
Thật vậy, “phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc
đi những cái khơng phải của bản thân anh ta, và tất cả những cái anh ta giống người
khác”. Nói cách khác đi, phong cách nghệ thuật của Nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo
của nhà văn ấy, trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống thể hiện trong tất cả
các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, đối với người
cha để của “Người Lái Đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân mang một phong cách uyên bác,
tài hoa không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong
phú, bổn bể nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động
lòng người đọc nhất. Ngược lại nét đặc sắc trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận
sắc bén với suy tư đa chiều, được tổng hợp từ cuốn kiến thức phong phú về triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lí. Hai nhà văn mang trong mình hai phong cách khác nhau,
nhưng tuy nhiên vẫn có những nét chung mà độc giả dễ dàng nhận thấy. Xuyên suốt
hay bài “Người Lái Đị Sơng Đà” và “Ai đã đặt tên cho dịng sông”, chúng ta thấy
được điểm giống nhau trước hết thể hiện qua chất trí tuệ uyên bác.

Nếu như Nguyễn Tuân có khả năng vận dụng trí tuệ của nhiều ngành, nhiều nghề khác
nhau trong khi miêu tả về đối tượng sáng tác của mình, thì Hồng Phủ Ngọc Tường
cũng vậy. Điều đó thể hiện qua cảnh con sơng Đà hung bạo với những trận thủy chiến
của người lái đò, đã được Nguyễn Tuân ghi lại bằng những tri thức về điện ảnh. “Tôi
sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khán giả đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền". Cho đến “bị vứt vào một cái cốc
pha lê nước, khổng lồ vừa rút lên, cái gậy đánh phên”, về địa lý, về thể dục thể thao
“hàng tiền vệ, có hai hịn canh, một cửa đá trơng như là sơ hở, nhưng chính hai đứa
giữ vai trị dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa…”, về quân sự “vịng đấu vừa rồi
nó mở ra năm cửa trận, có 4 cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn
sơng…”, về võ thuật “đánh địn chả đánh đến ầm vào chỗ hiểm”.
Đến với “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” của Hồng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã cung
cấp cho người đọc một lượng kiến thức phong phú, đa dạng về sơng Hương. Nhờ đó
mà chúng ta có cái nhìn sâu sắc, tồn diện về vẻ đẹp của sơng Hương. Dưới góc độ địa
lý, tác giả đã cung cấp cho ta những kiến thức cơ bản về thủy trình của dịng sơng kéo
dài suốt từ “Cung Thượng Lưu, chảy qua thành phố Huế, vòng về hướng Đơng Bắc để
đi ra biển”. Ở phía thượng nguồn sơng Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ, “rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh khác cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn”, “phóng khống và man dại” giống như một cô gái Di gan thích
nhảy múa, ca hát với một vẻ đẹp tự nhiên và trong sáng, chảy qua rừng núi về đến
đồng bằng sông Hương lại trở nên dịu dàng. “Uốn những đường cong dịu dàng”,

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường

“dịng sơng mềm đi như tấm lụa”, “êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành, quách”.
Và để nhân cách hóa lên nhà văn đã hình dung dịng chảy sơng Hương giống như một

cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức của người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa về đến nơi gặp người tình mong đợi và dịng chảy của sơng Hương
lúc này đã biến thành những đường cong mềm mại, quyến rũ của một người gái đẹp.
Khi vào giữa lịng thành phố Huế, dịng sơng lại trở nên tĩnh lặng “trôi đi chậm, thực
chậm, cơ hồ chí là một mặt hồ yên tĩnh”. Điều này đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường
lý giải một cách độc đáo về dịng chảy của sơng Hương dưới góc độ địa lý. Khi vào
đến thành phố Huế sông Hương chia thành nhiều nhánh nhỏ, lại bị hai hòn đảo chặn
nhanh trên dịng sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc của dịng nước. Khi đang xuôi dần về
cồn Hến, nằm mơ màng thì thật bất ngờ khi rời khỏi thành phố Huế sơng Hương đã
“đột ngột đổi dịng rẽ ngoặt Sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc
thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”.
Thêm vào đó dịng chảy của sơng Hương cịn gắn liền với hàng loạt những địa danh
quen thuộc của xứ Huế. Như Hòn Chén, Nguyệt Biều, vọng Canh, Tam thai, Lưu Bảo.
Khiến cho dòng chảy của sông Hương không hề đơn điệu, tẻ nhạt mà vô cùng sống
động. Đồng thời, khẳng định mối quan hệ khơng thể tách rời giữa sơng Hương và
Huế. Dưới góc nhìn lịch sử Hồng Phủ Ngọc Tường lại gọi sơng Hương là “trang sử
thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” đã gợi lên vẻ đẹp của sông Hương. Theo nhà văn
trong các dịng sơng đẹp trên thế giới chỉ có sơng Hương là con sơng chảy duy nhất
trọn vẹn trong lịng một thành phố và chính dịng chảy đặc biệt đó của sơng Hương đã
khiến nó trở thành một chứng nhân lịch sử ghi dấu lại toàn bộ lịch sử của xứ Huế. Tác
giả đã có cái nhìn tận sâu về quá khứ, để thấy được những đóng góp to lớn của sông
Hương trong việc làm nên những trang sử hào hùng của xứ Huế, suốt từ thời các vua
Hùng dựng nước, giữ nước, đến tận cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại, và
Sông Hương cũng chịu tổn thất không nhỏ trong việc làm nên những trang sử hào
hùng đó. Và quả thực sơng Hương đã biến đổi mình là một chiến cơng khi tổ quốc
cần, đất nước kêu gọi.
Nhà văn cịn trích dẫn câu chuyện “tháng trước tơi được dịp có mặt trong cuộc tiếp
đón ở thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu hội nghị tổng kết chiến tranh tại thành
phố, thay mặt Quân ủy Trung ương đồng chí Đại tướng phát biểu “lịch sử Đảng đã ghi
bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng

đáng cho Tổ Quốc. Đồng chí nói đầu cúi xuống ngực hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ
kính cẩn của người già mắt ngấn lệ và người nghe tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột
ngột của một lời thề”, điều đó lại một lần nữa đã khẳng định trong cảm nhận của biết
bao con người Việt Nam nói chung, sông Hương giống như một người anh hùng khiến
ta tơn kính, ngưỡng mộ nhưng cũng đầy cảm phục, xót xa trước những cống hiến vĩ

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

đại và hi sinh thầm lặng của dịng sơng trong việc làm nên lịch sử của xứ Huế nói
riêng, lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung. Về văn học tác giả gọi sơng Hương là
“người mẹ phù sa của một cung văn hóa xứ sở” đã sản sinh, nuôi dưỡng, bồi đắp cho
nền văn hóa Huế. Khơng những thế, sơng Hương cịn là dịng sơng của âm nhạc
“người tài nữ đàn lúc đêm khuya” đã gợi lên một nét văn hóa đặc sắc của xứ Huế.
Người ta thường tổ chức các buổi trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dịng sơng
Hương vào đêm khuya, nhà văn khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc Huế được sản sinh
trên mặt nước dịng sơng này” và hơn thế sơng Hương cịn là dịng sơng của thi ca “có
một dịng thi ca về sơng hương”, dịng sông không bao giờ tự lập lại trong cảm hứng
của các nghệ sĩ.
Đặc biệt chung thứ 2 trong cách viết bút kí của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc
Tường đó là một ngôn ngữ đầy chất thơ, đến với sông Đà người đọc cảm nhận được
chất thơ qua con sông đà trữ tình. Thay vì bề mặt hung bạo, dữ tợn trên kia, thì giờ
đây sơng Đà lại được miêu tả một cách thơ mộng, đậm chất trữ tình, “con sơng đà
tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mây khói núi Mèo đốt
Nương Xuân”. Rồi là “mùa xn đồng xanh ngọc bích như nước sơng Đà không xanh
màu xanh cánh Hến của sông gấm, Sông Lô. Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ các màu đỏ giận dữ ở một người bất

mãn, bực bội gì mỗi độ Thu về”. Khơng chỉ có con sông Đà và Sông Hương cũng hiện
lên mang một chất thi qua những hình ảnh nhịe mờ sương khói, đậm chất Huế: “lập
lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”.
Những câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó
đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, có lúc nó trở nên
dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”,
một loạt hình ảnh so sánh nhân cách hóa Sơng Hương, khi lại là con người lãng mạn,
trữ tình, lúc lại là cơ gái di gan phóng khống, man dại, khi lại là người mẹ phù sa với
vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ. Ngồi ra chất thơ cịn tốt lên từ cảnh tác giả điểm xuyết
những câu ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan vào trong
bài Ký, “dịng sơng trắng – lá cây xanh” hay “như kiếm dựng trời xanh”. Và còn thể
hiện ngay ở nhan đề đầy bâng khuâng, man mát “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”.
Cuối cùng, cả hai tác giả đều tập trung phát huy các biện pháp nghệ thuật như so sánh,
nhân hóa, trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú… Khi miêu tả quãng mặt ghềnh
hát gióng Nguyễn Tuân đã có sự so sánh, kết hợp nhân hóa thật thú vị khiến cho dịng
sơng trở thành một kẻ thù chuyên đi đòi nợ suýt, nham hiểm, hung bạo, tráo trở lúc
nào cũng đi có thể tước đoạt mạng sống của con người. “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng
xơ gió cuồn cuộn luồng gió gầm ghê như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò
nào qua đó”. Hay đoạn miêu tả những hút nước sơng Đà, trường liên tưởng của ông
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường

vơ cùng phong phú. “nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc”, “nước ặc ặc lên
như rót dầu sơi vào”. Đặc biệt nhất là âm thanh của thác nước sông đà, có lúc nó được
nhân hóa thành một con người tráo trở, nham hiểm, đang trong cơn giận dữ với nhiều
cung bậc, khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng
nước réo lại gần mãi, réo to mãi lên. “Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, nối lại

như van xin, khiêu khích giọng đàn mà chế nhạo”. Có lúc nó lại được động vật hóa
thành tiếng lóng của một ngàn con trâu mộng. Tác giả đã dùng lửa để tả nước – hai sự
vật vốn tương khắc nhau, hủy diệt nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân lửa lại
hiếp sức cho nước, khiến sức nước trở nên dữ dằn vô cùng. “Thế rồi nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vào rừng tre, nứa nuốt lửa,
đang phá tuông tường lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, để
nội tâm hóa hình dáng của dịng sơng, biến nó thành “nỗi vấn vương”, “cả một chút
lẳng lơ kín đáo của tình u”. Nhờ đó ta khơng chỉ cảm nhận được dịng chảy của
sơng Hương một cách cụ thể, sống thực mà cịn thấy nó hiện lên rất giống con người
“mãi mãi chung tình với quê hương, xứ sở”. Đó là một vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng
“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, với những vẻ đẹp như triết lý, như cổ thi của một
mảnh đất Cố Đô gắn liền với những lăng tẩm, Thành quách, in bóng giấc ngủ ngàn thu
của những vua chúa Nguyễn. Những cách so sánh liên tưởng bất ngờ, sơng Hương
uốn hình một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”.
Nguyễn Tuân, và Hồng Phủ Ngọc Tường có nhiều nét trong phong cách sáng tác
giống nhau như vậy. Tuy nhiên giữa những điểm chung đó, khi bóc hết đi chúng ta lại
thấy được cái riêng biệt, độc đáo trong mỗi bài thơ. Dưới con mắt quan sát của
Nguyễn Tuân sông Đà không cịn là một vật vơ tri, vơ giác hay một hình tượng thiên
nhiên thuần túy, mà hiện lên như một con người với hai nét tính cách trái ngược nhau,
vừa hung bạo, vừa trữ tình. Khám phá con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, hình tượng
người lái đị trong cảm nhận của Nguyễn Tuân một người lái đò bình thường trên sơng
nước sơng Đà, lại được miêu tả như một Dũng tướng tài năng, với một phong thái của
người nghệ sĩ. Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại mang trong mình
một phong cách viết kí kết hợp với nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, hệ thống lập
luận với các luận điểm, luận cứ được sắp xếp một cách logic, chặt chẽ theo dòng chảy
của sơng Hương từ phía thượng nguồn cho đến khi rời thành phố Huế, để đi ra biển.
Thêm vào đó mỗi khi nói đến vẻ đẹp nào đó của sơng Hương, tác giả lại đưa ra những
so sánh, những ví dụ, những bằng chứng thuyết phục để làm nổi bật vẻ đẹp của sông
Hương. Suy tư đa chiều thể hiện nhiều nhất trong cách ông cảm nhận về sông Hương,

dưới nhiều góc độ lịch sử, địa lý, văn hóa để làm nổi bật vẻ đẹp phong phú, đa dạng
của sông Hương. Suy tư đa chiều còn thể hiện ngay trong cách so sánh Sơng Hương
với những hình ảnh như người con gái đẹp, cô gái di gan, người mẹ phù sa của một
vùng văn hóa xứ sở. Tóm lại và dù có những nét tương đồng trong vốn tri thức, cách
sử dụng ngôn từ nghệ thuật, nhưng khi bỏ qua tất cả những cái đó độc giả lại cảm
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

nhận thấy những nét riêng biệt khơng thể trộn lẫn.
Có những sự khác nhau trên đều bắt nguồn từ các nguyên nhân, mà đầu tiên phải kể
đến là do yêu cầu của văn chương, riêng mỗi tác giả có một phong cách tạo nên tên
tuổi của tác giả, tác phẩm. Dòng chảy cuộc sống không bao giờ lặp lại, văn học là tấm
gương phản chiếu cuộc sống, nên nó khơng thể khơng phản chiếu, lý giải, đánh giá,
dự báo về những yếu tố mới mẻ đó. Phong cách văn học cũng nảy sinh do nhu cầu
sáng tạo văn học, bản chất của văn học là sự sáng tạo sự sáng tạo, là yếu tố làm nên
sức hấp dẫn sức sống lâu bền của văn học và phong cách văn học. Ta nhận diện được
từng gương mặt tác giả, những điều độc đáo không lập lại ở họ, cũng qua phong cách
nghệ thuật mà chúng ta nhận thấy được sự trưởng thành không chỉ của nhà văn, mà
cịn nhận thức được trình độ phát triển của một trào lưu văn học. Gương mặt chung
của văn học dân tộc, trong từng thời đại phát triển và Nguyễn Tn và Hồng Phủ
Ngọc Tường chính là hay minh chứng cho ý nghĩa đó. Thực sự đối với mỗi cá nhân
khi đọc hai tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” bất cứ
ai khi đã hiểu rõ về hai tác giả kia thì khơng thể nhầm lẫn, mà đảo lộn ý chí hai tác
phẩm với nhau được. Cũng như không thể lấy cái hung bạo của Sông Đà, để miêu tả
sông Hương được và ngược lại cũng không thể miêu tả sông Đà dịu dàng man dại,
phóng khống khi ở những trạng thái hung dữ như sông Hương được.
Như vậy tất cả các yếu tố và dẫn chứng trên, chúng ta thấy được phong cách viết kí
của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường. Đó đồng thời cũng là sự tài hoa, thẩm

mỹ mang đến giá trị độc đáo cho các tác phẩm, qua đây một mặt hiểu thêm về nghệ
thuật viết kí của các tác giả, đồng thời mặt khác phải luôn nỗ lực rèn luyện vốn tri
thức của bản thân, để hiểu được, cảm nhận được tất cả những gì mà tác giả muốn
truyền đạt cho độc giả.
Bài làm mẫu 2
Trong thế giới văn chương, dường như phong cách đã trở thành một yếu tố không thể
thiếu để khẳng định tên tuổi của mỗi nhà văn. Nhà văn càng tạo được phong cách
riêng độc đáo thì dấu ấn mà họ để lại trong lòng độc giả càng sâu sắc điều này lại càng
có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết. Có lẽ vậy mà khơng ít người đã đặt Nguyễn Tuân
và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng một cán cân để bình xét và so sánh về phong cách
viết kí của họ. So sánh hai bài kí nổi tiếng “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn
và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng“ của Hồng Phủ Ngọc Tường.
Vậy phong cách của một tác giả là gì? và tại sao phong cách lại quan trọng với một tác
giả tới vậy? Xin thưa rằng phong cách của một nhà thơ chân chính là nét riêng biệt
độc đáo của nhà văn trong quá trình nhận xét và phản ánh cuộc sống thể hiện thông
qua tất cả các yếu tố trong tác phẩm từ nội dung đến hình thức. Phong cách riêng rất
quan trọng bởi vì cái riêng ấy mới tạo được cái tơi vững chắc của nhà văn trong lịng
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường

độc giả khơng có phong cách sáng tác nhà văn dễ bị quên lãng và hư vơ.
Đặc Biệt, đối với thể kí, phong cách của người cầm bút có phần hơi khác so với các
thể loại khác . Bởi ký là trần thuật người thật việc thật. Thế nên việc tác giả sáng tạo
hay tạo dấu ấn lại càng trở thành một vấn đề nan giải khi buộc phải đáp ứng được yêu
cầu hiện thực này. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đã làm xuất sắc điều này,
vừa cân bằng được nét đẹp của thế ký vừa phong cách hóa tác phẩm theo cách riêng
của mình.
Trong thể kí, khơng ai có thể vượt qua Ngun Tn. Trong tùy bút Người lái đị sơng

đà, Nguyễn Tuân giống như một người thợ kim hoàn cẩn trọng đính từng chữ vàng lên
dịng sơng xanh ngọc.
Người lái đị sơng đà đã phản ánh đúng chất quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân,
luôn khám phá vạn vật ở góc độ văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người ở góc độ tài
hoa nghệ sĩ. Có thể thấy vào bàn tay nghệ sĩ của Nguyễn Tuân sông Đà không cịn chỉ
là một dịng chảy vơ tri, vơ giác mà hiện lên sống động như một sinh thể. Hơn thế nữa
trong con mắt của Nguyễn Tuân sông Đà từ bao giờ đã trở thành một con người với đủ
mọi cung bậc cảm xúc khác nhau từ vui, buồn, yêu, ghét, đến giận hờn, oán trách, van
xin, nhung nhớ, buổi hồi, “tiếng thác nước nghe như là ốn trách gì; rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo”.
Phải vậy chăng, mà kí của Nguyễn Tuân vẫn thực đấy nhưng, vẫn rất nghệ thuật, đậm
chất văn chương. Đó là đối với con sơng, cịn đối với con người ký của Nguyễn Tuân
tập trung khai thác ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ dễ thấy trong suốt hành trình con người
vượt thác sơng đà, con người qua ngịi bút của Nguyễn Tn trở nên vơ cùng phi
thường, hùng tráng. Đâu phải chỉ có những ai hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật mới
làm nghệ thuật được đâu. Người lái đị sơng Đà trong tác phẩm cũng ngời ngời vẻ đẹp
của một người nghệ sĩ tay lái ra hoa xứng đáng là một nhà nghệ thuật lớn.
Trong bối cảnh Người lái đị sơng đà phải đối diện và chiến đấu với con thủy quái
đang điên cuồng gào thét, hồng hộc thế mạnh như hùm beo mà vẫn giữ bình tĩnh, mà
khơng một chút sợ hãi, nao núng thì cịn gì tuyệt vời hơn. Khéo léo đặt con người vào
tình huống gây cấn, nhà văn đại tài Người lái đị bộc lộ những gì tài hoa nhất, trắc Việt
nhất, nghệ thuật nhất trước mắt độc giả. Các phong cách viết kí vừa thấm nhuần người
thực, việc thực, vừa chuyển giao nghệ thuật điêu nghệ thế này không của Nguyễn
Tuân thì của ai được.
Phong cách viết của Nguyễn Tn trong Người lái đị sơng Đà cịn là tài sử dụng ngôn
ngữ rất linh hoạt, khéo léo, đa sắc thái biểu cảm. Phải nói rằng ngơn từ và vị trí của
ngơn từ trong Người lái đị sơng Đà được tính tốn và sắp xếp một cách thần diệu.
Mỗi từ, mỗi chữ như đã được Nguyên Tuân đẽo gọt, điêu khắc tỉ mỉ. Nó chuẩn xác tới
Tổng hợp: Download.vn



Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

độ mà ta mường tượng như nếu thay đổi bất cứ một từ nào hay sửa lại một vài câu chữ
thì văn phong sẽ kém tinh tế. Chưa hết Nguyễn Tuân có cách thiết lập ngôn ngữ thật
đáng nể, kết cấu câu trùng điệp: “nước sơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”, kết hợp với
cách miêu tả không trùng lập đã diễn tả xuất thần, từng khung cảnh ấn tượng của giàn
thạch trận dưới sông, cũng như tư thế hiên ngang của Người Lái Đị Sơng Đà.
Người ta đã thống kê được khoảng 300 động từ khác nhau trong bài kí này, điều đó
cho thấy bút lực phi phàm của nhà văn cũng như sự phong phú, đa dạng về cả ý nghĩa
lẫn sắc thái của ngơn từ trong Người lái đị sơng Đà. Nói vậy cũng có nghĩa là chính
nhờ số lượng khủng và sự chịu khó đầu tư cơng phu mà người đọc có lẽ khó có thể
quên được, khi đọc bài kí này.
Người lái đị sơng Đà cịn cho thấy phong cách viết kí vơ cùng sắc sảo của Nguyễn
Tn, khi huy động tổng lực kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, mà đầu tiên
phải kể tới là quân sự . “Một thằng trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách
thức cái thế có giỏi thì tiến gần vào”; rồi về thể thao “nước bám lấy thuyền như đồ
vật túm thắt lưng ơng đị địi lật ngửa mình ra”; về lịch sử, địa lý “có vách đá chẹt
lịng sơng như muốn cái yết hầu”; về điện ảnh “cái thuyền xoay tít những thước phim
cũng xoay tít… khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy, cả người quay phim,
cả người đang xem”.
Đọc “Người lái đị sơng Đà”, chính bởi phạm trù kiến thức rộng lớn như vậy, nên ta bị
cuốn theo mạch ký tới mức không dứt ra được. Hơn thế nữa Nguyễn Tuân đã phá tan
mọi giới hạn, mở rộng trường liền tưởng, phong phú liên thơng hồn tồn giữa các
lĩnh vực của đời sống, khiến hình dung của độc giả trở nên thơng thống, phóng
khống nhưng lại rất đỗi nghệ thuật. Phong cách viết kí của Nguyễn Tuân, một lần
nữa chinh phục hoàn toàn bạn đọc.
Phong cách Nguyễn Tuân đa dạng, độc đáo là thế, vậy làm sao hiểu được chút “ngọt”,
chút “thơ” của nghệ thuật. Đọc “Người lái đị sơng đà” có những trang văn độc giả

như nín thở trước vẻ đẹp thanh nhã, cao khiết, tinh tế của cảnh vật. Nào là sông Đà
tn dài, tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt
nương xn”. Nào là “tơi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu n hoa tam nguyệt
hóa dương châu”, hay như “cỏ xanh đồi núi đang ra những non búp. Một đàn hươu cúi
đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm xương đêm. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
xưa”.
Ngơn ngữ và văn phong của Nguyễn Tn có thể mơ mộng, trữ tình tới như vậy. Đọc
những câu văn thấm đậm chất thơ, khiến cho tâm hồn thổn thức vấn vương. Qua bàn
tay của Nguyễn Tn, thể kí đâu cịn khơ khan, nhàm chán. Kí đối với Nguyễn Tuân là
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

vừa ghi nhận thực tế, vừa cảm nhận có một cách rất riêng. Tới đây khơng thể phủ
nhận gì nữa, chất trữ tình quyện hòa trong ngòi bút Nguyễn Tuân làm nên dư vị thật
khó qn cho người lái đị sơng Đà. Văn phong của Nguyễn Tuân được làm sáng tỏ từ
đây, phong cách ấy độc đáo cũng từ đây mà được định hình.
Ai đã đặt tên cho dịng sơng cũng là một bài lí xuất sắc. Tác phẩm quy tụ đầy đủ
những tinh hoa trong gịi bút viết kí của Hồng Phủ Ngọc Tường từ nội dung đến hình
thức nghệ thuật. Trước hết cần khẳng định rằng đây thực là một bài Ký có sự hịa
quyện hài hịa giữa chất trí tuệ và chất thơ. Nói “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” sở hữu
vẻ đẹp của trí tuệ, bởi trong suốt những trang văn của bài kí người đọc như lạc vào
dịng trí thức miên man của thể loại kí về dịng sơng Hương gắn liền với xứ Huế thân
thương. Ngịi bút Hồng Phủ Ngọc Tường có khả năng huy động kiến thức từ nhiều
lĩnh vực khác nhau của đời sống, để làm sáng tỏ vẻ đẹp của sông Hương.
Đọc ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc rất tự nhiên, được tiếp thêm những
thông tin tri thức, khách quan về thủy trình của sơng Hương, suốt từ vùng thượng
nguồn. “Nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây bạt ngàn,

mãnh liệt qua những ghềnh khác, cuộn xốy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”,
tới khi sơng Hương lộ vẻ u kiều, thì về đồng bằng sông Hương đã chuyển động một
cách liên tục, khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Khi
vào giữa lịng thành phố Huế, sơng Hương bỗng trở nên thẹn thùng đến lạ. Nó “kéo
một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”, sau đó đột ngột đổi
dịng rẽ ngoặt sang hướng Đơng Tây để gặp lại thành phố ở góc trấn Bảo Vinh cổ
xưa”.
Tri thức trong ký của nhà văn lồng ghép tự nhiên, phù hợp với mạch ký trở nên hài
hòa, đậm nét trí tuệ. Chưa hết Hồng Phủ Ngọc Tường còn cung cấp cho người những
tri thức về lịch sử của dịng sơng, qua mạch văn rất nhuần nhị. Thì ra Hương khơng
chỉ “nhu mì hiền thục” và cịn trở thành một chứng minh lịch sử mang theo khí phách
hào hùng của một thời oanh liệt. Đây, chính là nơi đây đã phải chịu biết bao tổn
thương suốt những năm tháng kháng chiến, dịng sơng quanh co, uốn lượn lai đang
oằn mình vì đau thương. Bất giác đọc những trích đoạn như thế này người đọc như
cảm nhận, hình dung ra cả một thời lịch sử huy hồng.
Thế mới nói chất trí tuệ như đọng trên từng dịng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nhưng hay là ở chỗ Hoàng Phủ Ngọc Tường đem đến cho “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng” khơng chỉ là vốn tri thức, mà cịn là chất trữ tình miên man trong giọng văn tinh
tế hướng nội. Có thể nói ngoại trừ khi miêu tả về dịng sơng Hương phía thượng
nguồn, thì trong cả bài kí khơng có một câu nào là vội vã, mãnh liệt, gào thét, giọng
điệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường thực rất nhẹ nhàng, nho nhã, thanh tao. “Người tình
mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu
hóa đầy hoa dại”. Cũng chính nhờ chút ngọt thanh, thơ mộng này đan xen với vốn
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

hiểu biết phong phú của tác giả, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm được chỗ
đứng riêng trong nền văn học Việt Nam.

Kí của Hồng Phủ Ngọc Tường có sự kết hợp hài hòa giữa chất nghị luận sắc bén và
chất suy tư đa chiều, để ý sẽ thấy ngay trong suốt bài ký tác giả gọi Sông Hương bằng
rất nhiều cái tên như “Bản trường ca của rừng già, cô gái di gan man dại và phóng
khống, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, người tài nữ đánh đàn khúc
đêm khuya”, điều đáng nói là cứ sau mỗi lần định nghĩa Hoàng Phủ Ngọc Tường ngay
lập tức lý giải nguyên nhân, tại sao khiến luận điểm bài kí được làm sáng tỏ ngay
trong quá trình người đọc tiếp nhận tri thức. Chất nghị luận sắc bén là vậy, còn thế nào
là suy tư đa chiều cần phải hiểu rằng tác giả “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” nhìn sơng
Hương dưới rất nhiều góc độ khác nhau, lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn hóa, thi ca trên
Sơng Hương hiện lên rất cụ thể, sống thực, tỏa sáng ở nhiều khía cạnh. Bởi vậy nhận
định “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”, là một tác phẩm kí có sự kết hợp tài tình giữa
nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều là hồn tồn đúng đắn.
Kí của Hồng Phủ Ngọc Tường cịn hút hồn độc giả bởi chính hình thức nghệ thuật
độc đáo, nhờ sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt hai biện pháp nghệ
thuật nhân hóa, so sánh được tác giả vận dụng một cách triệt để và kết quả là sông
Hương hiện lên giống như một con người hay đúng hơn là một kiều nữ e thẹn, dịu
dàng, duyên dáng, “từ đây như đã tìm đúng đường về sơng Hương vui tươi hẳn lên
giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực
yên tâm theo hướng Tây Nam, Đơng Bắc”.
Hay như chi tiết Hồng Phủ Ngọc Tường so sánh dịng chảy của sơng Hương với
dịng chảy của sơng Phủ để làm nổi bật điểm khác biệt hút hồn rất con người của sông
Hương và hàng loạt những yếu tố khác. Câu phức giọng điệu, cách miêu tả trùng lập
cũng đóng vai trị khơng nhỏ trong việc khẳng định chất kí đặc sắc của Hồng Phủ
Ngọc Tường.
Nhìn chung, cả Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường khi đặt bút viết kí đều ý
tưởng được yêu cầu của thể kí, người thực, việc thực. Thêm vào đó, để gia cơng thêm
cho tác phẩm của mình, cả hai nhà văn đều huy động tổng lực vốn ngôn ngữ đồ số, kết
hợp kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Chưa hết dù đã viết về hai con sơng
hồn tồn khác nhau nhưng cả Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường đều khơng
bỏ qua góc nhìn trữ tình, thơ mộng. Có vẻ như đây là chút rung động đặc thù của

người làm nghệ thuật, thấy cảnh sinh tình, thấy đẹp mà si mê, ý vị tình từ dịng chảy
của cảm xúc mà ra, làm sao mà ăn cho được.
Đan xen những biện pháp nghệ thuật được lồng ghép vào hai bài kí một cách khéo
léo, tinh vi càng như lơi cuốn hấp dẫn người đọc. Giống nhau đó, nhưng ký của Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân lại khơng thể gộp chung là một, vì sao vậy? đơn
Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường

giản vì hai tác giả cịn có những điểm sáng riêng được thể hiện theo một cách rất
riêng. Nguyễn Tuân lập luận, khai thác nét đẹp của con người bằng phương diện thẩm
mỹ nghệ thuật, tác giả khám phá và đặt ở góc độ văn hóa thanh tao khiến cho bài kí
hiện lên đẹp đẽ, thấm đẫm văn phong nghệ thuật. Trong bài kí của Hồng Phủ Ngọc
Tường ,người ta kính phục cái sắc bén của lập luận và cái nhẹ nhàng êm đềm lãng tử.
Ai đã đặt tên cho dịng sơng có cái chính xác của khoa học lại có cái thơ mộng trữ tình
của con tim, có cái phóng khống man dại của Phương Tây có nét dịu dàng của
Phương Đơng. Chính điều này làm cho cả hai nhà văn đều tạo dựng được phong cách
riêng khơng thể lẫn lộn trong lịng bạn đọc biết bao thế hệ qua.
Như vậy để tạo lập được phong cách cá nhân mỗi tác giả buộc phải lựa chọn cho mình
một cách thể hiện mới mẻ, hài hịa về nội dung và hình thức. Đây khơng cịn là một
vấn đề mang tính lý luận nữa, mà có thể nói đây là vấn đề sống cịn của mỗi cây bút.
Nếu muốn tồn tại, làm xuất sắc, hoàn hảo điều này Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường xứng đáng là những bậc thầy của thế kỉ. Quay lại câu hỏi ban đầu bạn nghĩ
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường ai có phong cách viết kí tuyệt vời hơn, có lẽ
thật khó để tìm ra được câu trả lời khi mà cả hai đều xuất sắc tới vậy.
Với “Người lái đị sơng Đà” và “Ai đã đặt tên cho dịng sơng”, một lần nữa ta trân
trọng những đóng góp mà Hồng Phủ Ngọc Tường cũng như Nguyễn Tn đã cống
hiến cho thể ký nói riêng, cho văn học Việt Nam nói chung. Khơng có họ người đọc
chẳng thể nào được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về cả nội dung lẫn hình

thức. Như vậy, đồng thời chính sự thành công này của hai nhà văn đã tạo ra một vấn
đề lớn lao. Viết văn nhất định phải có phong cách riêng, sức sáng tạo dồi dào, vốn
ngơn từ phong phú, khả năng thụ cảm tinh tế và quan trọng nhất là một trái tim yêu
nghệ thuật chân thành.

Tổng hợp: Download.vn



×