Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Ðôi điều về Cảm và Cúm ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.15 KB, 4 trang )

Ðôi điều về Cảm và Cúm
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
(714) 531-7930

Gần đây có nhiều độc giả nêu lên nhiều thắc mắc về cảm cúm, sự khác nhau về cảm và
cúm, nên kỳ này loạt bài về cao huyết áp sẽ được tạm gác lại để dành cho việc trả lời các
câu hỏi về chuyện cảm cúm.
Mục này chỉ nhằm giải đáp các thắc mắc về sức khỏe có tính cách tổng quát. Cho các vấn
đề cụ thể, chi tiết, của từng bệnh nhân, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ để được thăm
khám trực tiếp.

Cảm, cúm thường kéo dài bao lâu? Có biến chứng gì không? Mỗi bệnh có các biến
chứng như thế nào?
Các triệu chứng của cảm thường lên đến cao điểm vào ngày thứ hai đến thứ tư sau khi
nhiễm bệnh, thời gian trung bình là khoảng một tuần. Có khoảng 25% bệnh nhân có thể
bị các triệu chứng kéo dài như ho đến vài tuần.
Cảm thường dễ lây nhất trong vòng 24 tiếng đầu tiên, tuy nhiên, khi nào còn triệu chứng
thì khi đó bệnh nhân còn có thể lây bệnh sang người khác.
Một tỉ lệ nhỏ các bệnh nhân cảm có thể bị các biến chứng, các biến chứng thường là viêm
xoang, viêm phổi, viêm tai giữa ở trẻ em.
Cúm có thể kéo dài chỉ 24 tiếng đồng hồ, hoặc có thể một tuần hay hơn. Trung bình, cúm
kéo dài khoảng bốn đến năm ngày. Giống như cảm, khi nào còn có triệu chứng thì bệnh
nhân còn có thể lây bệnh sang người khác.
Biến chứng thường gặp nhất của cúm là viêm phổi. Các biến chứng có thể gặp khác của
cúm là viêm bắp thịt, hội chứng Reye, viêm cơ tim, viêm màng cơ tim, và các biến chứng
trên hệ thống thần kinh.
Viêm phổi thường gồm các triệu chứng sốt, rét, khó thở, đàm, đau ngực. Viêm phổi có
thể do chính vi rút cúm gây ra, do bội nhiễm vi trùng, hoặc do kết hợp cả hai. Viêm phổi
do chính vi rút cúm gây ra thường ít gặp, nhưng thường nặng hơn do vi trùng. Những
người dễ bị viêm phổi là người đã bị các bệnh tim phổi, bị các bệnh kinh niên như tiểu
đường, bệnh thận, suy giảm miễn dịch, những người sống trong các viện chăm sóc, điều


dưỡng, những người lớn tuổi.
Viêm bắp thịt thường xảy ra ở trẻ em hơn, gây ra đau nhức bắp thịt kinh khủng, thường
gặp nhất ở chân. Ðau rêm bắp thịt là triệu chứng rất thường gặp trong bệnh cúm. Tuy
nhiên, viêm bắp thịt thật sự ít gặp hơn rất nhiều.
Hội chứng Reye, cũng thường gặp ở trẻ em, thường bắt đầu bằng buồn nôn, ói mửa, sau
đó tổn thương gan, tổn thương thần kinh với các triệu chứng như co giật, hôn mê. Hội
chứng này dễ gặp hơn ở trẻ em dùng aspirine. Do đó, nên tuyệt đối tránh dùng aspirin ở
trẻ em bị cảm, cúm hoặc các bệnh có triệu chứng tương tự như vậy.
Một số bệnh của hệ thống thần kinh khác, cũng có thể là biến chứng của cúm, như viêm
não, viêm tủy sống...
Viêm cơ tim và viêm màng cơ tim là các biến chứng ít gặp của bệnh cúm.
Cách điều trị cảm và cúm như thế nào? Có gì giống và khác nhau?
Trong cả hai bệnh cảm và cúm, nâng đỡ sức đề kháng của cơ thể và trị triệu chứng đều là
điều rất quan trọng.
Chính sức đề kháng của cơ thể là thành phần chính chống chọi với vi rút cảm và cúm. Do
đó, ta cần chú ý nâng đỡ sức đề kháng của mình bằng cách:
- Uống đủ nước.
- Nghỉ ngơi đầy đủ.
- Ăn uống dễ tiêu và cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể bằng cách nấu thức dễ tiêu hóa,
bổ dưỡng, ăn mỗi lần một ít nhưng ăn nhiều lần hơn.
Ngoài ra, ta có thể trị triệu chứng bằng cách:
- Xúc miệng và họng bằng nước muối ấm và loãng. Cần chú ý là nên pha nước muối chỉ
lạt như nước mắt của ta, nếu mặn quá sẽ làm khó chịu, kích thích niêm mạc cổ họng, có
thể làm ho nhiều hơn.
- Uống thuốc giảm đau, giảm sốt (nhớ tránh aspirin ở trẻ em).
- Thuốc uống khô mũi, thuốc ho.
- Gần đây, một nghiên cứu trên trẻ em cho thấy là mật ong, dùng ở trẻ trên một tuổi, có
thể giúp giảm ho như là hoặc hơn cả thuốc ho (hiện nay đã được khuyến cáo không nên,
không được dùng cho trẻ em nhỏ vì không có tác dụng rõ ràng mà lại có thể gây ra các
tác dụng phụ nguy hiểm). Người ta nghĩ rằng mật ong cũng có thể giúp giảm ho ở người

lớn.
- Xông mũi bằng nước ấm.
- Cần chú ý là trái với nhiều người tin tưởng, rất nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc trụ sinh
và vitamin C không giúp làm cho cảm và cúm mau hết hơn. Ngay cả, nếu nước mũi đổi
màu, đó cũng không phải là dấu hiệu cho thấy ta cần trụ sinh.
Ta nên đi thăm bác sĩ nếu có sốt cao, đau vùng xoang, khó thở, đau nhức mình mNy quá
nhiều. N ên đi sớm, vì nếu đó là cúm, thuốc trị cúm bắt đầu dùng trong vòng 48 tiếng
đồng hồ đầu tiên, có thể làm nhẹ và giảm bớt thời gian bị cúm. N goài ra, bác sĩ cũng có
thể phát hiện và điều trị sớm các biến chứng.
Làm sao để phòng cảm và cúm?
Cảm và cúm lây sang người khác thường nhất bằng các tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết
(như nước mũi) của người bệnh, có thể là từ tay người này sang tay người khác, hoặc qua
trung gian như nắm cửa... Vi rút có thể tồn tại trong môi trường từ hai đến tám tiếng đồng
hồ. Khi tay ta tiếp xúc với các chất tiết này, rồi dụi vào mắt, mũi, miệng của mình, ta sẽ
bị lây bệnh.
Do đó, điều quan trọng đầu tiên để phòng cảm và cúm là:
- N ên rửa tay thường xuyên. Tốt nhất là rửa với xà bông và nước ấm, khoảng 20 đến 30
giây. Hai mươi đến ba mươi giây là khoảng thời gian mà ta hát bài “Happy birthday to
you, happy birthday to you, happy birthday, happy birthday, happy birthday to you”
khoảng hai lần.
- Không vứt bỏ khăn chùi mũi bừa bãi.
- Khi ho hay ách xì, nên che miệng bằng khăn giấy, nên bỏ khăn ngay sau khi dùng. N ếu
không sẵn khăn giấy thì nên che miệng bằng cánh tay, chứ không phải bằng bàn tay, để
giảm bớt các chất tiết dính vào bàn tay rồi qua các vật dụng hoặc bàn tay người khác.
- Tránh sờ, móc tay, ngón tay vào mắt, mũi, miệng.
Các vi rút cảm và cúm cũng có thể lan truyền qua các hạt li ti bay trong không khí sau khi
người bệnh ho hay ách xì, do đó, nên tránh tiếp xúc kéo dài với người bệnh.
N gười bệnh cũng nên nghỉ làm khi còn triệu chứng, để mau giảm bệnh và tránh lây cho
người trong sở làm.
Dù nằm trong các hạt li ti trong không khí sau khi người bệnh ho hay ách xì ra, vi rút lại

không có trong nước bọt của người bệnh trong 90% các trường hợp. Do đó, trên lý
thuyết, điều lý thú là bị (hay được) người bệnh hôn, thường không khiến ta bị lây bệnh.
N hiều người vẫn tưởng là lạnh là một nguyên nhân gây ra cảm hay cúm. Thật ra, nhiều
nghiên cứu cho thấy khí hậu lạnh không phải là nguyên nhân của cảm hay cúm. Lạnh có
thể gây ra viêm mũi do co giãn mạch máu trong mũi (vasomotor rhinitis), có triệu chứng
giống như cảm, nhưng đó không phải là cảm, và không lây. Tuy nhiên, dù sao, giữ cơ thể
đủ ấm vẫn là điều tốt và cần thiết.
Bên cạnh các phương pháp phòng ngừa rất quan trọng kể trên, áp dụng cho cả cảm và
cúm. Ta còn có thể để phòng cúm bằng cách dùng thuốc ngừa.
Thuốc ngừa cúm gồm có vắc xin, và thuốc trị cúm cũng có thể dùng để ngừa cúm.
Vắc xin ngừa cúm thường dùng nhất là loại thuốc chích, ra hàng năm. N ếu ngừa bằng
thuốc này, ta phải dùng hàng năm, vì như đã nói, vi rút cúm rất mau thay đổi cấu trúc di
truyền, và mỗi năm người ta đều phải chế ra thuốc ngừa cho năm đó. Thuốc ngừa có hiệu
quả từ 70 đến 90%, và phải chích sớm, vì thuốc cần khoảng hơn hai tuần để cơ thể có thể
tạo ra kháng thể.
Cho đến thời điểm này (cuối Tháng Ba năm 2008), CDC vẫn khuyến cao những ai chưa
chích ngừa cúm nên chích ngừa, vì cúm vẫn có thể đến trễ vào tận Tháng N ăm. N ăm nay,
một số siêu vi trùng cúm đã và đang lây lan không hoàn toàn trùng hợp với thuốc chủng
ngừa, CDC (Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng N gừa Bệnh Hoa Kỳ), vẫn khuyến cáo
những ai cần chích ngừa mà chưa chích vẫn nên chích ngừa, vì thuốc vẫn có thể giúp ích
trong việc phòng cúm hoặc giảm độ nặng nếu bị cúm.
Hiện nay, cũng có loại thuốc hít ngừa cúm, nhưng chỉ có thể dùng cho người từ 2-49 tuổi
mạnh khỏe và không có thai (những người không mạnh khỏe và có thai không nên dùng
loại thuốc chủng hít qua mũi này), ngay cả ở những người tiếp xúc với những người có
nguy cơ cao.
Ai muốn ngừa cúm đều nên chủng ngừa cúm, nhưng những người có nguy cơ cao bị
bệnh, và nếu bị thì dễ bị nặng, và bị biến chứng, cần chú ý để chủng ngừa hơn. Theo thứ
tự ưu tiên, những thành phần sau đây nên chủng ngừa:
- Tất cả trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi (từ sang năm, tuổi này sẽ được kéo nâng lên đến 18
tuổi).

- Tất cả phụ nữ sẽ có thai.
- N gười lớn từ 50 tuổi trở lên.
- N hững người ở bất cứ tuổi nào có các bệnh kinh niên.
- N hững người tiếp xúc với những người kể trên.
- N hững người tiếp xúc và chăm sóc cho trẻ em dưới 6 tháng.
- N hân viên y tế.
- Bất cứ ai muốn giảm nguy cơ bị cúm.
N goài thuốc chủng ngừa, một số thuốc dùng để trị cúm (như Tamiflu) cũng có thể được
dùng để ngừa cúm. Giống như trong việc điều trị, thuốc cần phải được bắt đầu trong vòng
48 tiếng từ khi tiếp xúc với người bệnh, phải có toa bác sĩ mới mua được thuốc này, và
phải dùng ít nhất là bảy ngày. Liều ngừa bệnh khác với liều trị bệnh. Cho đến hôm nay,
đầu Tháng Tư 2008, trong số bốn loại thuốc trị cúm, chỉ có hai loại Tamiflu và Relenza là
còn được CDC khuyến cáo nên dùng.
Tóm tắt về cảm và cúm
- Cúm thường nặng hơn cảm, thường có sốt cao, rét, đau rêm mình mNy.
- N ếu nghĩ là cúm, hoặc nếu nghi là có các biến chứng nên đi bác sĩ sớm để được chNn
đoán và chữa sớm và thích hợp.
- N âng cao sức đề kháng bằng ăn, uống, nghỉ ngơi đầy đủ và trị triệu chứng là điều cần
làm trong việc điều trị cả hai bệnh cảm và cúm.
- Thuốc trị và ngừa cúm cần phải được dùng trong vòng 48 tiếng đống hồ đầu tiên mới
mang lại hiệu quả tốt nhất.
- Rửa tay với nước và xà bông khoảng 20-30 giây - bằng thời gian hát “Happy birthday to
you” hai lần là điều đơn giản, không tốn kém, nhưng lại rất cần thiết và hiệu quả trong
việc phòng cúm.
- N hững người có nguy cơ cao cần chích ngừa cúm sớm.
Thân mến,
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
(714) 531-7930



Copyright, 2008. Muốn phổ biến bài viết này, cần xin phép tác giả và xin ghi rõ nguồn Y
Dược N gày N ay, www.yduocngaynay.com

×