Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Yếu tố văn xuôi tự sự trong thơ mới 1932 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.92 KB, 78 trang )

Tr-ờng đại học Vinh
Khoa ngữ văn
=== ===

đậu thị bình b

yếu tố văn xuôi tự sự
trong Thơ mới 1932 - 1945

khóa luận tốt nghiệp đại học

Vinh 2006
= =


Tr-ờng đại học Vinh
Khoa ngữ văn
=== ===

yếu tố văn xuôi tự sự
trong Thơ mới 1932 - 1945

khóa Luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học Việt Nam hiện đại

Cán bộ h-ớng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Lớp:

Vinh, 5/2006
= =



lê văn tùng
đậu thị bình b

42E2 - Ngữ văn


Lời cảm ơn
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin trân trọng cảm ơn
thầy giáo Lê Văn Tùng đà trực tiếp h-ớng dẫn tôi rất tận tình chu đáo kể
từ khi nhận đề tài cho đến khi hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, tổ Văn
học Việt Nam đà tạo điều kiện và thời gian giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài này.
Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn t- liệu và khả năng nghiên cứu của
bản thân nên khóa luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong sự chỉ dẫn và góp ý xây dựng của quý thầy cô, bạn bè để khóa luận
đ-ợc hoàn chỉnh hơn.

Vinh, tháng 5 năm 2006.
Sinh viên
Đậu Thị Bình B


Mục lục
Trang
Mở đầu ........................................................................................................... 1

I. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
II. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2

III. Ph-ơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài ......................................................................... 6
V. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 7
Ch-ơng 1. Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại văn học hiện đại ...... 8
1.1. Hiện t-ợng cộng sinh thể loại................................................................... 8
1.2. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và sự thâm nhập của văn xuôi tự
sự vào thơ ............................................................................................... 16
Ch-ơng 2. Đối thoại trong Thơ mới 1932 - 1945 ....................................... 27
2.1. Đối thoại và đối thoại trong tác phẩm văn học ...................................... 27
2.2. Đối thoại trong Thơ mới (1932 - 1945).................................................. 32
2.3. Hình thức thể hiện đối thoại trong thơ và hiệu quả của việc sử dụng
đối thoại trong Thơ mới (1932 - 1945) .................................................. 45
Ch-¬ng 3. Ỹu tè chun kĨ trong Th¬ míi (1932 - 1945) ........................ 49
3.1. Chi tiÕt .................................................................................................... 50
3.2. Câu chuyện ............................................................................................. 54
3.3. ý nghĩa cách tân thi pháp của việc gia tăng yếu tố chuyện kể trong
Thơ mới (1932 - 1945) ........................................................................... 66
Kết luận ..................................................................................................... 71
Tài liƯu tham kh¶o................................................................................. 73


Khóa luận tốt nghiệp

Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

1. Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) là một cuộc cách mạng trong thơ
Việt Nam, là một trong những sự kiƯn lín nhÊt vỊ th¬ ca thÕ kû XX. Sù ra đời
của Thơ mới đà tạo ra một b-ớc ngoặt lớn trong lịch sử thơ ca dân tộc, nó đÃ
phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của thơ cũ, chuyển thơ ca Việt Nam từ

phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại. Những thành tựu của phong trào
Thơ mới vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở và in dấu ấn trong thơ ca hiện đại nhmột nhân tố tích cực.
Trải qua biết bao biến cố thăng trầm cùng lịch sử, thời đại ngày nay,
Thơ mới đà đ-ợc trả lại những giá trị vốn có của nó trong nền văn học dân tộc.
Trên cơ sở kế thừa thơ ca truyền thống và tiếp thu một cách có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa nhân loại với tinh thần "hòa nhập nh-ng không hòa tan", Thơ
mới thực sự v-ơn lên đạt tới những đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca hiện đại.
Bằng việc đ-a yếu tố văn xuôi tự sự vào trong thơ, Thơ mới đà đem đến cho
thơ ca "ở chốn n-ớc non lặng lẽ này" không chỉ một nguồn cảm xúc mới mà
còn mang tới cách thể hiện thế giới tâm hồn sáng tạo, độc đáo. Những cung
bậc của tình cảm, cảm xúc đ-ợc bộc lộ thông qua những chi tiết, những câu
chuyện, những sự kiện - một cách thể hiện hoàn toàn mới lạ và hấp dẫn mà ta
chỉ có thể bắt gặp và cảm thụ nó, nắm bắt nó ở Thơ mới mà thôi.
Đến với Thơ mới, ta nh- lạc vào một xứ sở với đầy đủ mọi cung bậc của
cảm xúc nh- Hoài Thanh - Hoài Chân trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" nhận
định: "Ch-a bao giê ng-êi ta thÊy xt hiƯn cïng mét lÇn mét hồn thơ rộng
mở nh- Thế Lữ, mơ màng nh- L-u Trọng L-, hoành tráng nh- Huy Thông,
trong sáng nh- Nguyễn Nh-ợc Pháp, ảo nÃo nh- Huy Cận, quê mùa nhNguyễn Bính, kỳ dị nh- Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn nhXuân Diệu" [9; 29]. Tất cả những hồn thơ ấy đà làm nên một cuộc cách mạng
trong thi ca, một thời đại trong thi ca mà hai ông "quyết rằng trong lịch sử thi
ca Việt Nam ch-a bao giờ có một thời đại phong phú nh- thời đại này". Sự
phức tạp, đa dạng, phong phú và vai trò hết sức to lớn của Thơ mới nh- vậy đÃ
có sự đóng góp của những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Những đóng
góp này là sản phẩm của một thời đại khi nền thơ ca dân téc võa b-íc qua
1


Khóa luận tốt nghiệp
ngàn năm trung đại t-ởng nh- đà yên tĩnh. Sự thâm nhập của các yếu tố văn
xuôi tự sự vào thơ nói nh- Hoài Thanh là cuộc "xâm lăng" làm đảo lộn sự yên
tĩnh ngàn năm đó. Muốn hiểu Thơ mới không thể không khám phá cuộc "xâm

lăng" này.
2. Thơ mới (1932 - 1945), một trong vài hiện t-ợng tiêu biểu đầu tiên
của nền văn học hiện đại. Có thể nói tất cả các đặc tr-ng loại hình của văn học
hiện đại đà có mặt trong phong trào thi ca này nh- tính dân chủ, tính hội nhập
nhân loại, tính chuyên nghiệp, tính khoa học và tinh thần lý tính, tính năng
động nghệ thuật. Việc khảo sát những sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới có thể
góp phần làm sáng tỏ những đặc tr-ng mang tính quy luật của loại hình văn
học hiện đại. Đặc biệt, việc tìm hiểu sự thâm nhập của các yếu tố văn xuôi tự
sự vào Thơ mới có thể giúp chúng ta nhìn rõ hơn, sinh động hơn đặc tr-ng về
tính năng động nghệ thuật của văn học hiện đại xét từ góc độ thể loại. Từ đó
có thể rút ra một số biểu hiện của quy luật vận động phát triển của thể loại
trên những chặng đ-ờng tiếp sau của văn học hiện đại.
3. Với đề tài này, ng-ời viết có đ-ợc một vài kinh nghiệm, bài học cho
việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu rộng hơn, thấu đáo hơn về phong trào
Thơ mới cũng nh- ảnh h-ởng của nó đối với nền thơ dân tộc trong cuối thế kỷ
XX và đầu thế kỷ này. Mặt khác, Thơ mới đà đ-ợc đ-a vào giảng dạy trong
nhà tr-ờng từ bậc trung học cơ sở đến bậc đại học, trong đó có nhiều bài thơ
đậm đặc yếu tố văn xuôi tự sự. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong
muốn đem đến một h-ớng tiếp cận mới về những giá trị của Thơ mới, trên cơ
sở đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy học các tác phẩm Thơ mới nói riêng và
thơ hiện đại nói chung.
II. Lịch sử vấn đề

Phong trào "Thơ mới" lÃng mạn (1932 - 1945) là một hiện t-ợng văn
học rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì thế xung quanh vấn đề này, cho
đến nay ý kiến của các nhà phê bình nghiên cứu và của d- luận nói chung vẫn
còn có điểm ch-a thống nhất. Hơn bảy chục năm đà trôi qua kể từ ngày "Thơ
mới" ra đời, những vấn đề "Thơ mới" lÃng mạn cho đến những năm cuối cùng
của thế kỉ vÉn cßn cã ý nghÜa thêi sù.


2


Khóa luận tốt nghiệp
Nhìn chung trên báo chí, sách vở và giảng đ-ờng đại học vẫn còn tồn
tại những khuynh h-ớng đánh giá rất khác nhau. Một khuynh h-ớng hầu nhmuốn phủ nhận hoàn toàn những "nhân tố yêu n-ớc và tiến bộ", giá trị nhân
bản cũng nh- những đổi mới hết sức quan trọng về thi pháp và t- duy thơ của
phong trào Thơ mới. Một số ng-ời xem Thơ mới là bạc nh-ợc, suy đồi phản
động tiêu cực. Khuynh h-ớng thứ hai không thừa nhận "Thơ mới" có khuynh
h-ớng tiêu cực và thoát ly và bằng cách này hay cách khác cố tình đề cao quá
mức mặt tiến bộ và tích cực của thơ ca lÃng mạn hoặc thổi phồng ảnh h-ởng
của các nhà Thơ mới đối với thơ ca thế kỷ XX. Đặc biệt là ở các đô thị miền
Nam tr-ớc ngày đất n-ớc giải phóng, trong các công trình nghiên cứu và giáo
trình đại học lại đề cao một chiều thơ ca lÃng mạn và thơ ca t-ợng tr-ng. Nói
chung, phong trào Thơ mới đà thu hút sự chú ý của đông đảo bạn đọc yêu thơ
và đ-ợc nghiên cứu khá sâu sắc với nhiều cách kiến giải khác nhau. Điều đó
chứng tỏ sự quan tâm của giới nghiên cứu về một phong trào thơ ca có nhiều
thành tựu nh-ng cũng không ít thăng trầm. Tuy nhiên không phải mọi giá trị
của Thơ mới đà đ-ợc làm sáng tỏ. Chẳng hạn vấn đề sự thâm nhập của yếu tố
văn xuôi tự sự trong Thơ mới, các công trình nghiên cứu về nó còn quá ít,
ch-a t-ơng xøng víi sù hiƯn diƯn vµ ý nghÜa cđa nã trong việc chuyển tải nội
dung t- t-ởng của tác phẩm. Nói nh- vậy không có nghĩa chúng ta phủ nhận
hoàn toàn sự đóng góp của các tác giả đà viết, ®· bµn vỊ vÊn ®Ị nµy nh-:
Hoµi Thanh - Hoµi Ch©n trong cn "Thi nh©n ViƯt Nam" (1942) cã
viÕt: "Phong trào Thơ mới lúc bột phát có thể xem là một cuộc xâm lăng của
văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành. Một đặc tính
của văn xuôi là nói nhiều. Cho nên trong thời bấy giờ, thi tứ hình nh- giÃn ra"
[9; 36]. Đây là sự khám phá và đánh giá đầu tiên về sự tác động và sự có mặt
của yếu tố văn xuôi trong Thơ mới. Nó là tiền đề, cơ sở để sau này một số nhà
nghiên cứu đi sâu hơn.

"Tinh hoa Thơ mới - Thẩm bình và suy ngẫm" do Lê Bá Hán chủ biên
(Nxb Giáo dục, 2001) nói nhiều đến sự ảnh h-ởng của yếu tố văn xuôi tự sự
vào trong thơ. Do sự thâm nhập của văn xuôi tự sự vào thơ tạo cho nhiều bài
thơ mang dáng dấp của một câu chuyện với những diễn biến sự kiện, tăng yếu
tố tự sự cho thơ, sản sinh ra những câu thơ "suy lí" ngắt dòng, vắt dòng và đặc
biệt xuất hiện cả lời đối thoại - một đặc tr-ng của văn xuôi tự sự. Chẳng hạn,
Lê Quang H-ng khi nhận xét về thơ của Nguyễn Nh-ợc Pháp: "Với tâm hån
3


Khóa luận tốt nghiệp
đôn hậu, trong sáng với ngòi bút hóm hỉnh, Nguyễn Nh-ợc Pháp đà đem về
cho những câu chuyện ngày x-a của tổ tiên, của ông bà ta vẻ sắc sảo linh hoạt
t-ơi vui, lắm lúc thật ngộ nghĩnh ngay cả khi miêu tả cuộc chiến ác liệt để
giành giật công chúa Mị N-ơng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh" [12; 110]. Cũng
trong tác phẩm này, Lê Quang H-ng khi bàn về tập "Mấy vần thơ" của Thế Lữ
đà viết: "không ít bài ở tập Mấy vần thơ đ-ợc viết theo thể tự do, không cách
khổ, cách đoạn đều đặn chạy dài theo giọng kể (tỉ lệ 18/47 bài) không ít đoạn
trong tập thơ này bị văn xuôi hóa dòng thơ có lúc trên m-ời âm tiết" [12; 23].
Những tìm tòi phát hiện của Lê Quang H-ng về yếu tố văn xuôi tự sự trong
thơ Nguyễn Nh-ợc Pháp, Thế Lữ là rất đáng ghi nhận tạo niềm tin, chỗ dựa
vững chắc cho những ng-ời đi sau khám phá ra các biểu hiện của yếu tố văn
xuôi tự sự trong Thơ mới.
Trần Đình Sử trong một công trình nghiên cứu của thơ Tố Hữu có nhận
xét rằng Thơ mới đà căn bản cải tạo, từ câu thơ "điệu ngâm" sang câu thơ
"điệu nói". Có khi ông không đề cập đến vấn đề này trực tiếp mà thông qua
việc nói về sự học tập của thơ ca cách mạng đối với Thơ mới cũng cho chúng
ta thấy đ-ợc một đặc tr-ng thi pháp của phong trào thơ ca này. Trong cuốn
"Những thế giới nghệ thuật thơ" ông viết: "Về nghệ thuật, thơ cách mạng đÃ
kế thừa những thành tựu của Thơ mới nh- bút pháp tả thực, giọng điệu giÃi

bày" [11; 105]. Mặc dù chỉ gián tiếp nói về Thơ mới, song đó là một gợi ý
quan trọng để những ng-ời quan tâm nghiên cứu về phong trào Thơ mới dựa
vào đó đi sâu hơn và có những tìm tòi khám phá lý thú, mới mẻ hơn về vấn đề
yếu tố văn xuôi tự sự trong Thơ mới.
Hà Minh Đức trong cuốn "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại" (1974) khi bàn về vấn đề phản ánh hiện thực trong thơ, "đặc tr-ng cơ bản
của thơ trữ tình là biểu hiện, là hình t-ợng cảm nghĩ, là chất liệu tâm hồn"
"Những hình ảnh và chi tiết sống trực tiếp giữ một vị trí quan trọng trong
thành phần miêu tả của câu thơ trữ tình. Cũng ở thành phần miêu tả này, sự
kiện sự việc là những nhân tố dễ tạo cho thơ nội dung hiện thực""khi thơ ca
ngày càng đi sâu vào đời sống hiện thực phản ánh sinh hoạt tâm tình, cũng
nh- lao động cụ thể cđa mét con ng-êi, mét ngµnh nghỊ, mét phong trµo thì
thành phần tự sự càng chiếm một phân l-ợng đáng kÓ" [4; 256].

4


Khóa luận tốt nghiệp
Nh- vậy, yếu tố văn xuôi tự sự trong Thơ mới không phải là vấn đề
nghiên cứu mới, nó đà thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lí luận,
phê bình văn học. Tuy không gọi đích danh thuật ngữ nh-ng các khía cạnh
của yếu tố văn xuôi tự sự đà đ-ợc các nhà nghiên cứu văn học quan tâm từ lâu
qua việc dẫn chứng và miêu tả, biểu d-ơng và phê phán khi viết điểm sách,
giới thiệu thơ qua các công trình nghiên cứu về tác giả thơ, về lịch sử văn học.
Từ những phân tích trên có thể nhận thấy hai điểm:
Thứ nhất: Sự thâm nhập của yếu tố văn xuôi tự sự vào Thơ mới là hiện
t-ợng có thật và đà góp phần tạo ra chất l-ợng nghệ thuật mới mẻ của Thơ
mới trong việc phản ánh hiện thực.
Thứ hai: Các hiện t-ợng văn xuôi tự sự thâm nhập vào Thơ mới đ-ợc
giới nghiên cứu quan tâm hoặc để khát quát một vấn đề lớn hoặc để chứng

minh cho một vấn đề khác. Bản thân nó ch-a từng là một đề tài chuyên biệt để
nghiên cứu sâu vào quy luật thể loại gắn liền với đặc tr-ng loại hình văn học
hiện đại xét ở tính năng động thể loại của nó.
Tóm lại có thể nói rằng sự phức tạp, đa dạng phong phú của Thơ mới là
một nguồn dữ liệu hết sức lôi cuốn và hấp dẫn để các nhà nghiên cứu, phê
bình và bạn đọc khám phá, tìm hiểu. Rất nhiều vấn đề về nội dung và nghệ
thuật của Thơ mới đà đ-ợc đ-a ra tranh luận và làm tốn khá nhiều giấy mực
của các nhà nghiên cứu lí luận và phê bình văn học nổi tiếng cũng nh- tất cả
những ai quan tâm đến phong trào Thơ mới và thơ ca n-ớc nhà. Trong đó vấn
đề yếu tố văn xuôi tự sự trong Thơ mới cũng đ-ợc một số ng-ời bàn qua.
Nh-ng ng-ời đọc vẫn ch-a đ-ợc tiếp nhận một công trình chuyên sâu mang
tính hệ thống về vấn đề này bởi vì ch-a có một tác giả nào nghiên cứu nó nhmột đặc tr-ng thi pháp của Thơ mới. Do đó, đây đang còn là một khoảng
trống lí thú để chúng tôi làm luận văn này.
III. Ph-ơng pháp nghiên cứu

Yếu tố văn xuôi tự sự trong Thơ mới 1932 - 1945 là một đề tài hấp dẫn
nh-ng cũng đầy phức tạp.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, ph-ơng pháp đầu tiên mà chúng tôi
sử dụng là ph-ơng pháp so sánh trong quá trình khảo sát. ở đây chúng t«i tiÕp

5


Khóa luận tốt nghiệp
cận vấn đề qua giáo trình, tài liệu, tạp chí, những tác giả, những tác phẩm giai
đoạn này, qua đó so sánh với văn học trung đại để thấy đ-ợc yếu tố văn xuôi
tự sự trong thơ là một thành tựu mới của văn học Việt Nam hiện đại.
Trong khóa luận này, chúng tôi dùng ph-ơng pháp phân tích từng khía
cạnh một cách cụ thể, chi tiết của yếu tố văn xuôi tự sự trong Thơ mới 1932 1945. Chẳng hạn nh- đi vào tìm hiểu yếu tố đối thoại trong thơ nh- thế nào,
yếu tố chuyện kể trong thơ ra sao. Trong quá trình đó sẽ đi sâu vào một số tác

giả tác phẩm cụ thể nhằm làm rõ hơn sự thâm nhập của yếu tố văn xuôi tự sự
trong Thơ mới.
Quá trình tiến hành khảo sát, đánh giá, chúng tôi tự xác định cho mình
một nguyên tắc đó là phải có một cách nhìn biện chứng để thấy đ-ợc yếu tố
văn xuôi tự sự trong Thơ mới là một thành tựu hiện đại hóa văn học dân tộc
trong xu thế phát triển, xu thế khẳng định cái mới hiện đại.
IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Với đề tài này, đối t-ợng quan tâm của nó không phải là một tác giả,
một tác phẩm nào cụ thể mà nó là việc nghiên cứu của một hiện t-ợng văn học
khá phức tạp. Hiện t-ợng này xuất hiện trong một thời kỳ văn học khá dài.
Cho nên đây là một đề tài có những thuận lợi riêng song cũng có cái khó riêng
của nó. Mặc dù đà có những công trình nghiên cứu, các đề tài về sự thâm nhập
giữa các thể loại, đặc biệt là sự thâm nhập lẫn nhau hai chiều giữa văn xuôi và
thơ, nh-ng ở đề tài này chúng tôi chỉ tìm hiểu ảnh h-ởng của văn xuôi vào
trong Thơ mới chứ không nghiên cứu ng-ợc lại (ảnh h-ởng một chiều). Do
nhiều điều kiện nh- sự hạn chế về năng lực, thời gian nên trong đề tài này
chúng tôi chỉ tìm hiểu nghiên cứu khảo sát ảnh h-ởng của yếu tố văn xuôi tự
sự trong thơ của một số nhà thơ tiêu biểu cũng nh- một số tác phẩm tiêu biểu
của phong trào Thơ mới 1932 - 1945.
Mặt khác, sự thâm nhập của văn xuôi tự sự vào Thơ mới biểu hiện trên
nhiều ph-ơng diện chẳng hạn: Đối thoại trong Thơ mới, yếu tố chuyện kể,
giọng điệu Thơ mới, không gian và thời gian tự sự trong Thơ mới ở cấp độ
một khóa luận tốt nghiệp đại học và điều kiện trình độ hạn chế của mình,
chúng tôi chỉ b-ớc đầu khảo sát hai yếu tố: Đối thoại trong Thơ mới và yếu tố

6


Khóa luận tốt nghiệp

chuyện kể, các ph-ơng diện khác sau này nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ tiếp
tục khảo sát.
V. Cấu trúc luận văn

Trên cơ sở mục đích và ph-ơng pháp đà đề ra ở trên, luận văn của
chúng tôi sẽ theo cấu trúc nh- sau:
Mở đầu.
I. Lý do chọn đề tài.
II. Lịch sử vấn đề.
III. Ph-ơng pháp nghiên cứu.
IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
V. Cấu trúc luận văn.
Ch-ơng 1. Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại văn học hiện đại.
1.1. Hiện t-ợng cộng sinh thể loại.
1.2. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và sự thâm nhập của văn xuôi tự
sự vào thơ.
Ch-ơng 2. Đối thoại trong Thơ mới 1932 - 1945.
2.1. Đối thoại và đối thoại trong tác phẩm văn học.
2.2. Đối thoại trong Thơ mới (1932 - 1945).
2.3. Hình thức thể hiện đối thoại trong thơ và hiệu quả của việc sử dụng
đối thoại trong Thơ mới (1932 - 1945)
Ch-ơng 3. Yếu tố chun kĨ trong Th¬ míi (1932 - 1945).
3.1. Chi tiÕt.
3.2. Câu chuyện.
3.3. ý nghĩa cách tân thi pháp của việc gia tăng yếu tố chuyện kể trong
Thơ mới (1932 - 1945).
KÕt luËn.

7



Khóa luận tốt nghiệp
Ch-ơng 1:
Sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại
văn học hiện đại
Mỗi thể loại là một hƯ thèng nghƯ tht, mét kiĨu t- duy nghƯ tht đặc
thù. Thể loại theo cách nhìn thi pháp không phải là cái khuôn cơ giới vô hồn,
bởi thể loại là một yếu tố của sáng tạo đà có mặt trong tác phẩm. Thể loại là
lựa chọn của tâm hồn, t- t-ởng, t- duy nhà văn, nó là một phần cuộc sống của
tác phẩm.
Trong văn học trung đại mỗi thể loại th-ờng khép kín đặc điểm của
mình, các đặc điểm thể loại khác hầu nh- không có điều kiện để có mặt trong
thể loại này. Tính chất yên tĩnh này đến văn học hiện đại đà bị phá vỡ do tính
năng động nghệ thuật của loại hình văn học này. Tính năng động nghệ thuật
của văn học hiện đại chi phối mọi ph-ơng diện của nền văn học, biến văn học
hiện đại thành một hệ thống mở - và mỗi ph-ơng diện của nó cũng trở thành
một hệ thống mở khác. Thể loại văn học hiện đại là một hệ thống mở nh- vậy.
Tính năng động nghệ thuật của thể loại hiện đại cũng biểu hiện trên nhiều
ph-ơng diện nh-ng rõ nhất, độc đáo nhất chính là hiện t-ợng thâm nhập lẫn
nhau giữa các thể loại để tạo ra các thể trung gian, các vùng nối của thể loại
có những khả năng nghệ thuật mới. Sự thâm nhập lẫn nhau của các thể loại
đ-ợc gọi là hiện t-ợng "cộng sinh thể loại" - vậy hiện t-ợng "cộng sinh thể
loại" là gì?
1.1. Hiện t-ợng cộng sinh thể loại
1.1.1. Khái niệm cộng sinh
"Từ điển tiếng Việt" định nghĩa: "Cộng sinh là sự hợp lại hai hoặc nhiều
cơ quan khác nhau để cùng sinh sèng" [13; 250].
Nh- vËy, hiƯn t-ỵng céng sinh cã thĨ là hiện t-ợng của các yếu tố khác
nhau hợp lại tạo ra một yếu tố khác. Yếu tố đ-ợc tạo ra bëi hiƯn t-ỵng céng
8



Khóa luận tốt nghiệp
sinh phong phú hơn, đa chức năng hơn so với các yếu tố tạo ra nó. Trong quá
trình xâm nhập đó cả hai yếu tố cùng có lợi.
1.1.2. Khái niệm thể loại
Thể loại, một trong những quan niệm quen thuộc và ổn định của lý luận
văn học cũng nh- trong thực tiễn sáng tạo, là các dạng tổ chức tác phẩm, quy
tụ những hình thức nhìn nhận và phản ánh đời sống.
Chúng ta đều biết rằng tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn các
yếu tố đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Nh-ng sự thống
nhất ấy đ-ợc thực hiện theo những quy luật nhất định. Thể loại tác phẩm văn
học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm trong đó ứng với một loại
nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình
thức tồn tại chỉnh thể.
Trong thể loại văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy định lẫn nhau
của các loại đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết cấu và
hình thức lời văn. Chẳng hạn nhân vật kịch, kết cấu kịch, hành động kịch, với
lời văn kịch, nhân vật trữ tình, kết cấu thơ trữ tình và lời thơ, luật thơ Sự
thống nhất này lại do những ph-ơng thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau đối
với hiện thực, mang những khả năng khác nhau trong tái hiện đời sống tạo ra.
Bởi vì các ph-ơng thức ấy ứng với các hình thức hoạt động nhận thức của con
ng-ời, hoặc trầm t-, hoặc chiêm nghiệm hoặc qua các biến cố liên tục hoặc
qua xung đột, mâu thuẫn hoặc qua các sự thật sinh độngĐến l-ợt mình, các
thể loại tạo cho nó một kênh giao tiếp với ng-ời đọc. Giao tiếp thơ khác giao
tiếp kịch, giao tiếp bằng tiểu thuyết khác với giao tiếp bằng thể loại kí. Mỗi
kiểu giao tiếp nh- vậy lại đòi hỏi những ngôn ngữ và ph-ơng tiện riêng,
truyền thống và kinh ngiệm riêng. Chính vì vậy mà thông tin về thể loại tác
phẩm là rất cần thiết đối với sáng tác và tiếp nhận văn học. Không phải ngẫu
nhiên mà sau nhan đề tác phẩm ng-ời ta th-ờng thông báo ngay tên thể thể

loại tác phẩm: "Epghêni. Ônêghin" - tiểu thuyết bằng thơ, "V-ờn anh đào" Hài kịch bốn hồi. "Con trâu" - Tiểu thuyết, "Ng-ời đàn bà trên chuyến tàu tốc
9


Khóa luận tốt nghiệp
hành" - Truyện ngắn, "Ng-ời đàn bà ngồi đan" - Thơ. Hoặc xa x-a hơn, tên
thể loại trở thành một bộ phận không tách rời của tên tác phẩm: "Hoàng Lê
Nhất Thống Chí", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Bình Ngô đại cáo", "Chinh
phụ ngâm" ở đây nói tới thể loại là nói tới một cách tổ chức tác phẩm, một
kiểu tái hiện đời sống và một kiểu giao tiếp nghệ thuật.
Thể loại văn học là một hiện t-ợng loại hình của sáng tác và giao tiếp
văn học hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác phẩm.
Đó cũng là cơ sở để ng-ời ta tiến hành phân loại tác phẩm. Nh-ng thể loại tác
phẩm không đơn giản là loại hình và lặp lại. Bản chất sáng tạo nghệ thuật là
tính độc đáo không lặp lại. Sự vận động cuộc sống cũng luôn luôn sản sinh và
biến động các giới hạn phản ánh, đổi mới các kênh giao tiếp và làm chúng tác
động vào nhau trong các tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Vì vậy, đối với từng
tác phẩm văn học cụ thể có tầm cỡ, thể loại là toàn bộ ph-ơng thức tổ chức,
phản ánh và giao tiếp độc ®¸o cđa nã nh- mét hƯ thèng chØnh thĨ. Sù phân
loại là một yêu cầu không thể thiếu để nhận thức các hiện t-ợng phức tạp,
muôn vẻ của thế giới và của cả văn học. Sự phân loại thể loại cũng nh- sự
phân loại đề tài, chủ đề, cảm hứng, nhân vật, phân loại kết cấu, phân loại lời
văn, dẫu quan trọng đến đâu thì cũng chỉ là vấn đề cã tÝnh thø hai, cã tÝnh -íc
lƯ, nh»m hƯ thèng hóa các sự vật bề bộn.
Vấn đề có tính thứ nhất ở đây là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác
phẩm. Một hình thức nh- vậy trên thực tế đa dạng hơn bất cứ hệ thống phân
loại nào. Ng-ời sáng tác, khi xây dựng tác phẩm, không đơn giản là làm cho
tác phẩm của mình giống với các mẫu mực có tr-ớc. Rõ ràng, muốn nhận thức
đặc điểm thể loại của một tác phẩm có giá trị, ng-ời ta vừa phải có tri thức về
các quy luật lặp lại của thể loại, lại vừa phải biết nhận ra tính độc đáo trong sự

vận dụng, sáng tạo thể loại của tác giả.
Thể loại văn học là "dạng thức của tác phẩm văn học, đ-ợc hình thành
và tồn tại t-ơng đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại
10


Khóa luận tốt nghiệp
hiện t-ợng đời sống đ-ợc miêu tả và tính chất của mối quan hệ của nhà văn
đối với các hiện t-ợng đời sống ấy" [5; 299].
Thể loại văn học trong bản chất, phản ánh những khuynh h-ớng phát
triển bến vững, vĩnh hằng của văn học và các thể loại văn học tồn tại là để gìn
giữ, đổi mới th-ờng xuyên các khuynh h-ớng ấy, do đó mà thể loại văn học
luôn luôn vừa mới vừa cũ, vừa biến đổi vừa ổn định. Vì vậy, khi tiếp cận cần
tính đến thời đại lịch sử của văn học và những biến đổi thay thế của chúng.
1.1.3. Hiện t-ợng cộng sinh thể loại của văn học hiện đại
Mỗi thể loại có con đ-ờng phát triển riêng với yêu cầu định hình đặc
tr-ng và mở rộng khả năng nghệ thuật của thể loại, nh-ng cũng thấy rõ sự
cộng sinh giữa chúng: Các thể loại này th-ờng xuyên có sự thâm nhập lẫn
nhau trong tiến trình văn học. Mỗi thể loại có quy luật phát triển của riêng
mình đồng thời lại có nhu cầu kiên kết với thể loại khác rồi thâm nhập lẫn
nhau để tạo ra một thể loại thứ ba. Trong quá trình đó mỗi thể loại tự làm
phong phú mình thêm, phát triển thêm khả năng chiếm lĩnh nghệ thuật đối với
hiện thực. Quá trình đó gọi là quá trình cộng sinh thể loại. Quá trình cộng sinh
thể loại tạo ra những vùng nối - các khu trung gian thể loại từ đó tạo ra "thể
ghép" làm phong phú rất nhiều cho mặt bằng thể loại. Nói cách khác hoạt
động tích cực này tạo ra bội số công năng thể loại. Mỗi thể loại không chỉ là
nó mà rộng hơn, giàu có hơn bản thân nó. Chẳng hạn nh- sự ảnh h-ởng lẫn
nhau giữa văn xuôi và thơ.
Vào giai đoạn khởi phát Thơ mới, văn xuôi mở một cuộc xâm lăng "tràn

vào thơ, phá phách tan tành" (chữ dùng của Hoài Thanh). Đây cũng là dấu tích
của cuộc di chuyển của văn xuôi vào khu vực trung tâm của văn học và ảnh
h-ởng mạnh mẽ đến các thể loại khác. Nh-ng cuộc "xâm lăng" ấy là hợp quy
luật và để lại nhiều hiệu quả tích cực cho việc kiến thiết mô hình câu "Thơ
mới", và chính cuộc "xâm lăng" này góp phần tạo ra sự mạch lạc trong sáng
của lối thơ điệu nói, tính lôgic của mạch thơ, tăng yếu tố tự sự cho thơ và sản

11


Khóa luận tốt nghiệp
sinh ra những câu thơ "suy lí", ngắt dòng, vắt dòng. Xuân Diệu đà có những
câu thơ bỏ lửng ý rồi bắt tiếp vào câu thứ hai. Nó rất gần với lời nói thông
th-ờng:
Cũng nh- xa quá nên ta chỉ
thấy núi yên nh- một miếng bìa.
(Xuân Diệu)
Hay câu thơ của Thế Lữ lại ngắt dòng ngay giữa câu thơ:
"Trời cao xanh ngắt - Ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai"
Sự thâm nhập của văn xuôi vào thơ tạo ra thể thơ văn xuôi, một loại
hình kết hợp còn tiếp tục sự sống nh- một thể ®éc lËp trong nhiỊu thËp kØ sau.
C¸c t¸c phÈm nh- "Giọt s-ơng hoa" của Phạm Văn Hạnh, "Kinh cầu tự" của
Huy Cận, "Chơi giữa mùa trăng" của Hàn Mặc Tử có lẽ là những áng thơ
đầu tiên bằng văn xuôi mang một dáng vẻ, một màu sắc thi vị, độc đáo và mới
mẻ, ở đây chất văn xuôi không làm mất đi chất thơ mà còn làm "lạ hóa" phong
phú thêm thế giới thơ.
ở một chiều ng-ợc lại, thơ cũng thâm nhập vào văn xuôi và tạo ra một
hiện t-ợng mới văn xuôi có chất thơ. Bản chất thuộc tính của văn xuôi là tìm
kiếm một lối văn ngắn gọn, chính xác để diễn tả cho đúng, cho thật câu

chuyện của hiện thực, dẫn tới hậu quả tình trạng "văn khô" "văn cộc". Do đó
văn xuôi cũng có nhu cầu mở một lối cho chất thơ b-ớc vào tạo cho văn xuôi
một cái cảm bên cạnh cái đúng cái thật. Từ đó hình thành một thể loại mới mà
ta gọi là loại truyện trữ tình (tự sự có chất trữ tình). Tùy từng tác giả và tác
phẩm, chất trữ tình có khi có màu sắc mờ nhạt chẳng hạn trong tác phẩm hiện
thực phê phán. Văn học lÃng mạn mà nổi bật là tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn
có -u thế hơn về mặt này. Nhiều trang tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn thực sự
hấp dẫn ng-ời đọc bởi chất thơ trong đó - thứ chất thơ đằm thắm xao xuyến
của "Thơ mới" mà cuốn tiểu thuyết lÃng mạn nh- "Tố Tâm" của m-ời năm
12


Khóa luận tốt nghiệp
tr-ớc ch-a thể có. Văn xuôi Thạch Lam ("Gió lạnh đầu mùa", "D-ới bóng
hoàng lan", "Hai đứa trẻ"), nhiều truyện ngắn của Thanh Tịnh, Hồ Dzếch
man mát chất thơ, còn với "Phấn thông vàng", "Tỏa nhị kiều" của Xuân Diệu,
"Nhặt lá bàng" của Nhất Linh, ng-ời ta có thể nghĩ đến sự xuất hiện một dạng
văn xuôi thơ.
Sự pha trộn thơ và kịch tạo nên "kịch thơ". Kịch thơ là một thể loại có
vận mệnh riêng của nó và phát triển cho đến tận ngày nay. Đó là thành tựu
tổng hợp của sự lai ghép "Thơ mới" và kịch nói. Độ đậm nhạt trong sự phối
hợp thơ - kịch này cũng khá biến hóa, nó tạo nên hai xu h-ớng trong kịch thơ:
Yếu tố kịch đậm hơn yếu tố thơ. Đó là những vở kịch thơ lấy kịch tính và
xung đột làm trọng tâm nh-: "Lý Chiêu Hoàng" (Phan Khắc Khoan), "Quán
Thăng Long" (L-u Quang Thuận). Xu h-ớng thứ hai đó là chất thơ đậm hơn
xung đột kịch - đó là những vở kịch chỉ giữ một tuyến kịch mờ nhạt mà chú
trọng đến không khí thơ chất thơ trong lời thoại, có những đoạn thơ có thể
đứng riêng nh- một bài thơ trữ tình - chẳng hạn vở "Bóng giai nhân" của
Nguyễn Bính và Yến Lan hoặc những câu thơ quen thuộc của Vũ Hoàng
Ch-ơng: "Ôi ta đà làm chi cho đời ta. Ai đà làm chi cho lòng ta? Cho đời tàn

tạ lòng băng giá. S-ơng mong manh quanh chớm thu già" lại chính là lời tâm
sự của một nhân vật trong kịch thơ "Vân Muội"...
Phóng sự là thể loại mở đ-ờng cho tiểu thuyết, ngay tõ ci thÕ kØ XIX
ghi chÐp vỊ nh÷ng chun vụn vặt hàng ngày đăng trên Gia định báo để tập
d-ợt cho nhà văn viết tiểu thuyết và sau đó để lại dấu ấn khá rõ trong tiểu
thuyết. Về sau tiểu thuyết lại tác động vào phóng sự tạo cho phóng sự chất
tiểu thuyết tức là tiểu thuyết đà truyền cho phóng sự một phần linh hồn của
mình: chất tổng hợp, chất h- cấu phân tích của tiểu thuyết. Điều này thể hiện
khá rõ trong một số phóng sự của Vũ Trọng Phụng nh- "Cơm thầy cơm cô",
"Cạm bẫy ng-ời"
Khi tiểu thuyết phát triển chín muồi vẫn tồn tại loại tiểu thuyết đậm
chất phóng sự nh- "Ngoại ô", "Ngõ hẻm" của Nguyễn Đình Lạp.
13


Khóa luận tốt nghiệp
Trong các thể văn xuôi cũng có thể nhận ra sự thâm nhập lẫn nhau
phong phú để hình thành những thể mới. Tiểu thuyết tự truyện "Những ngày
thơ ấu" (Nguyên Hồng), "Sống nhờ" (Mạnh Phú T-) là một dạng hóa thân của
hồi ký, còn cuốn tiểu thuyết "Sống mòn", một cuốn tiểu thuyết theo đúng
nghĩa tiểu thuyết, hơn thế còn đứng ở đỉnh cao thể loại đậm chất tự truyện
đến nỗi ng-ời ta vẫn th-ờng qua đó mà đọc ra tiểu sử Nam Cao. Truyện ngắn
ngay từ những tác phẩm đầu đà có t- thế xác định nh- một thể văn xuôi độc
lập nh-ng quá trình phát triển của nó gắn bó chặt chẽ với tiểu thuyết, tiếp
nhận rất nhiều ở thể này khả năng khái quát và ph-ơng thức t- duy tổng hợp.
Những truyện ngắn thuộc loại đặc sắc của Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nam
Cao nh- "Cô hàng xén", "Ng-ời đàn bà Tàu", "Một buổi chiều xám", "Chí
Phèo", "LÃo Hạc" có khi khá nhiều chất tiểu thuyết đ-ợc dồn nén vào
khuôn khổ truyện ngắn.
Nh- vậy, các thể loại văn học nh- văn xuôi, thơ, kịch có sự ảnh h-ởng

thâm nhập lẫn nhau khá mạnh mẽ. Trong luận văn này chúng tôi chỉ đi sâu
khảo sát hiện t-ợng cộng sinh thể loại một chiều văn xuôi vào thơ. Cụ thể là
sự thâm nhập của yếu tố văn xuôi tự sự vào trong Thơ mới 1932 - 1945.
1.1.4. Có hay không hiện t-ợng cộng sinh thể loại trong văn học trung đại?
Văn học trung đại Việt Nam sử dụng nhiều thể loại nh- hịch chiếu
cáo, thơ, th-, văn tế Ngay tên gọi của một số thể loại chúng ta biết đ-ợc
chức năng mà nó đảm nhận. Mỗi thể loại có chức năng riêng và cuộc sống
độc lập của nó.
Văn học trung đại kéo dài suốt 10 thế kỉ d-ới thời kỳ xây dựng quốc gia
phong kiến độc lập. Sáng tác thơ văn thời kỳ này mang đặc tr-ng "thi dĩ ngôn
chí", "văn dĩ tải đạo". Ng-ời sáng tác thông qua tác phẩm văn ch-ơng để nói
lên cái chí và cái đạo của mình. Thời kỳ trung đại Việt Nam, văn ch-ơng
không đ-ợc l-u hành rộng rÃi. Nó chỉ bã hĐp trong ph¹m vi bé phËn vua chóa
quan l¹i, những nhà nho trí thứchay những bậc quân tử. Họ th-ờng mang tt-ởng lớn nh- tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cho nên, cái "chí" ở đây
14


Khóa luận tốt nghiệp
là cái "chí" của những bậc quân tử, những ng-ời có địa vị cao trong xà hội.
Còn tầng lớp bình dân cũng có sáng tác nh-ng không đ-ợc coi trọng, không
đ-ợc xuất bản.
Thời kỳ này, ng-ời ta quan tâm nhiều hơn đến thể văn hành chức. Văn
xuôi nghệ thuật ch-a đ-ợc chú ý, ở vào vị trí thứ yếu. Thơ ca đ-ợc phát triển
vì phù hợp với tâm lý của bộ phận ng-ời sáng tác lúc bấy giờ thích sáng tác
thơ ca để th-ởng thức ngâm vịnh. Nh-ng thơ ca sáng tác mang tính quy phạm
nghiêm ngặt. D-êng nh- ng-êi s¸ng t¸c chØ cã viƯc lùa chän những câu chữ
phù hợp theo những cái khuôn đà định hình sẵn. Thơ càng chuẩn càng đúng
luật thì càng đ-ợc đánh giá cao là uyên bác, trang trọng. Nếu thơ ca sáng tác
không đúng luật bị đánh giá là "sái" là "thất", là làm loạn trong thơ ca. Có thể
nói sáng tác ít phát huy đ-ợc tính sáng tạo vốn có của nó. Ng-ời sáng tác

không có những đột phá trong nghệ thuật xét về mặt thể loại. Mỗi thể loại là
một hệ thống khép kín yên tĩnh. Vì vậy, hiện t-ợng cộng sinh thể loại trong
văn học trong văn học ch-a có điều kiện nảy nở và phát triển phổ biến. Mặc
dù trong sáng tác văn xuôi chẳng hạn, tác giả trung đại nhiều lúc cũng bộc lộ
cảm xúc của mình tr-ớc sự kiện đ-ợc kể bằng những câu văn mềm mại réo rắt
có chất thơ. Hoặc khi diễn tả những cảm xúc và tâm trạng bất hạnh của mình,
nhân vật trong tác phẩm thể ngâm cũng có nhắc đến thời gian và sự kiện làm
nền cho tình cảm:
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng lắm nỗi truân chuyên"
(Chinh phụ ngâm)
Đến thế kỷ thứ XVIII, sự phát triển của bộ phận văn học chữ Hán
mạnh về văn xuôi hơn là về thơ. Cả thơ chữ Hán lẫn văn xuôi chữ Hán giai
đoạn này đều tăng c-ờng nội dung hiện thực, chất liệu hiện thực, đều cố bám
sát cuộc sống, đồng thời cố gắng v-ơn lên mức độ hoàn thiện về ph-ơng diện
nghệ thuật.

15


Khóa luận tốt nghiệp
Còn bộ phận văn học chữ Nôm mặc dù ch-a có văn xuôi nghệ thuật mà
chỉ có thơ, nh-ng thơ Nôm giai đoạn này không dừng lại ở những thể tài lớn,
có khả năng bao quát sâu réng cc sèng. Thµnh tùu chđ u cđa bé phËn văn
học chữ Nôm là "truyện thơ". Vậy đây có phải là hiện t-ợng cộng sinh thể loại
giữa văn xuôi và thơ hay không? Thực ra đây chỉ là hiện t-ợng kí sinh trong
văn ch-ơng. Tâm lí của ng-ời x-a thích sáng tác thơ cho nên họ đà dùng thơ
làm hình thức để truyền tải một cốt truyện. Hay có thể nói đây là hiện t-ợng
truyện kí sinh vào thơ. Truyện ch-a tìm đ-ợc hình thức văn xuôi phù hợp để
thể hiện, trong khi nhà thơ trung đại lại "thiên tính thơ" hơn là mê văn xuôi,

họ đành "trao thân gửi phận" câu chuyện của mình cho hình thức thơ. Nh- vậy
xét từ góc độ sinh thành đây là một hiện t-ợng kí sinh thể loại, nh-ng khi
chuyện đà đ-ợc thể hiện qua thơ trong tác phẩm tính truyện và tính thơ có sự
cộng h-ởng để cùng thực hiện một chức năng nghệ thuật.
Vì vậy, có thể nói văn học trung đại ch-a có hiện t-ợng cộng sinh thể
loại, nếu xét từ quan điểm quan ph-ơng chính thống về thể loại. Còn xét trong
thực tế sáng tạo, thực ra cũng có những dự báo về hiện t-ợng này qua những
cách tân táo bạo về câu thơ của Hồ Xuân H-ơng. Nhìn chung "cộng sinh thể
loại" ch-a phải là hiện t-ợng mang tính quy luật phổ biến trong văn ch-ơng
trung đại. Hiện t-ợng này chỉ đến văn học hiện đại mới xuất hiện và đó là một
trong những thành tựu rực rỡ mà trong quá trình phát triển không ngừng văn
học hiện đại đà đạt đ-ợc về thể loại.
1.2. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và sự thâm nhập của văn xuôi
tự sự vào thơ

1.2.1. Hoàn cảnh xuất hiện phong trào Thơ mới
Hoài Thanh (Thi nhân Việt Nam) là ng-ời đầu tiên quan tâm hoàn cảnh
lịch sử xuất hiện của Thơ mới. Ông đà thấy đ-ợc cả hai nguyên nhân bên
ngoài và bên trong. Hoài Thanh đà nhấn mạnh nguyên nhân bên ngoài - ảnh
h-ởng ph-ơng Tây, ý Hoài Thanh đúng nh-ng ch-a đầy đủ. Theo quan điểm
16


Khãa ln tèt nghiƯp
cđa nh÷ng ng-êi duy vËt trong hai nguyên nhân bên ngoài và bên trong thì
nguyên nhân bên trong là nguyên nhân quyết định.
Đến l-ợt mình, Phan Cự Đệ phân tích 3 nguyên nhân:
Thứ nhất: Sự xuất hiện ngày càng đông đảo của tiểu t- sản thành thị và
nhu cầu khẳng định cái tôi của chính tầng lớp này. Chúng ta biết tầng lớp tiểu
t- sản vừa là tác giả lại vừa là độc giả của Thơ mới thì lúc bấy giờ do sự lớn lên

của bộ máy cai trị cho nên tầng lớp tiểu t- sản ngày càng đông: 1932 - 1933
năm Thơ mới ra đời: 352.000 ng-ời tiểu t- sản, tầng lớp này sống theo lối sống
mới ph-ơng Tây, những thay đổi trong sinh hoạt kéo theo sự thay đổi những
suy nghĩ mới, cảm xúc mới dẫn đến quan niệm về cái đẹp (thẩm mĩ) thay đổi.
Tầng lớp này không còn nhiều ràng buộc đối với nho giáo và họ chủ yếu
tr-ởng thành trong các nhà tr-ờng Pháp - Việt, do đó họ th-ờng h-ớng về văn
hóa Pháp, văn học Pháp, xem đó nh- là chân trời mới của mình. Vì thế xuất
hiện ở tầng lớp này nhu cầu khẳng định cái "tôi" của mình, chúng ta thấy luôn
hiện ra cái tôi ở bình diện thứ nhất:
"Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta"
(Xuân Diệu)
Nhu cầu khẳng định cái tôi đà đem lại rất nhiều giá trị cho Thơ mới, đề
cao cái riêng t-, đề cao lòng yêu đời, ham sống:"tôi là kẻ đ-a răng cắn bấu mặt
trời". Thơ mới ra đời gắn liền với nhu cầu khẳng định cái tôi của tiểu t- sản và
họ đà thấy ở thơ ca nh- là nơi đắc địa.
Thứ hai: Tâm lí thoát ly của chính tầng lớp tiểu t- sản trong bối cảnh
thoái trào cách mạng. Nhà n-ớc rất quan tâm đến thời điểm ra đời của Thơ
mới, gần nh- ra đời của Tự Lực văn Đoàn 1932 là thời điểm thoái trào cách
mạng, không khí xà hội ở thành thị là không khí rất ngột ngạt, u uất, do tr-ớc
đó thực dân Pháp đà tiến hành nhiều cuộc khủng bố trắng 30 - 31, khởi nghĩa
Yên Bái. Tầng lớp tiểu t- sản vốn dễ hoang mang dao động, họ thấy v« cïng
17


Khóa luận tốt nghiệp
bế tắc. Trong không khí có tâm lí chạy trốn xà hội, chạy trốn cuộc đấu tranh
giai cấp. Chỉ có một con đ-ờng là tìm vào văn thơ lÃng mạn, vào văn thơ lÃng
mạn họ vẫn tự có đ-ợc một sự an ủi, góp phần bảo vệ văn hóa dân tộc.
Nhu cầu thoát ly và nhu cầu khẳng định gần nh- xuất hiện song song.

Tạo nên hai tâm trạng đối lập: Một bên là yêu đời háo hức, nhập cuộc và một
bên là buồn cô đơn: Có trong Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu. Trong Thơ mới có
đủ mọi nẻo đ-ờng chạy trốn: Trốn vào cõi tiên (Thế Lữ), chạy vào tình yêu,
vào thiên nhiên, đồng quê và tôn giáo (Hàn Mặc Tử), vào vũ trụ nh- Huy Cận.
Hầu hết các nẻo đ-ờng thoát ly là trong sạch.
Thứ ba: Nhu cầu đổi mới là hiện đại hóa thơ ca: Có thể nói công cuộc
đổi mới văn học xuất hiện những năm đầu thế kỷ XX, nhiều ng-ời đà nhận ra
cái lỗi thời của thơ cũ và họ tìm cách thay đổi, ng-ời có công đầu cho đổi mới
thơ ca là Tản Đà ngoài ra có Đông Hồ, Trần Tuấn Khải,cũng có những đóng
góp đáng kể. Những đổi mới này chỉ mang tính chất lẻ tẻ, ch-a thay đổi đ-ợc
phạm trù thơ. Công cuộc hiện đại hóa thơ ca phải chờ đến những năm 30 với
trách nhiệm của những nhà Thơ mới và cũng chính thế hệ này họ đà có đủ tài
năng và quan tâm làm cuộc cách mạng trong thơ ca.
1.2.2. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và thơ cũ
Ngày 10 - 3- 1932, Phan Khôi đà đăng trên tờ "Phụ nữ tân văn" một số
bài viết: "Về một lối Thơ mới trình chánh giữa làng thơ" và để minh chứng cho
lối Thơ mới này ông đ-a ra bài 'Tình già". Đây là một bài thơ không mấy giá
trị về nghệ thuật nh-ng những ý kiến của Phan Khôi đáp ứng đòi hỏi của lịch
sử văn học lúc đó. Sau bài viết của Phan Khôi hàng loạt nhà Thơ mới lên tiếng
tán thành lập tr-ờng của Phan Khôi. Ng-ời có nhiều đóng góp tích cực là L-u
Trọng L-, L-u Trọng L- thực ra đà sáng tác tr-ớc năm 1932 sau khi "Tình
già" ra đời, ông mới công bố tờ "Phụ nữ tân văn" thành cơ quan ngôn luận của
Thơ mới, tờ báo này cho đăng nhiều Thơ mới của L-u Trọng L-, Nguyễn Thị
Kiêm, Hồ Văn Hảo. Sau đó, phong trào Thơ mới chuyển ra Bắc.

18


Khãa ln tèt nghiƯp
ë MiỊn B¾c, tê "Phong hãa" cho đăng hàng loạt Thơ mới của L-u

Trọng L-, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông, đồng thời cho
đăng những bài viết để công kích thơ cũ, phê phán, mạt sát Tản Đà, họ gọi
những ng-ời làm thơ cũ là sáo rỗng, là trổ rồng trổ ph-ợng trên gỗ mục, đồng
thời họ tán d-ơng Thơ mới. Ng-ợc lại, phía thơ cũ cũng phản ứng kịch liệt:
Huỳnh Thúc Kháng, Tân Việt, Nguyễn Văn Hanh, Hoàng Duy Từ, cho công
bố các bài báo bảo vệ thơ cũ, công kích Thơ mới trên hai tờ báo: "Công luận"
và "Văn học tạp chí", cho in một số tập thơ Đ-ờng, tổ chức diễn thuyết.
Nh-ng cuối cùng, phe Thơ mới đà hoàn toàn thắng lợi, sự chiến thắng
chủ yếu không phải vì lí lẽ mà nhờ thực tế sáng tác. Trong khi thơ cũ gần nhkhông có một sáng tác nào thực sự có giá trị thì hàng loạt Thơ mới ra đời tạo
đ-ợc tiếng vang trong d- luận: "Yêu đ-ơng", "Tiếng địch sông Ô" (Huy
Thông), "Máy vần thơ" (Thế Lữ), "Ngày x-a" (Nguyễn Nh-ợc Pháp), "Gái
quê" (Hàn Mặc Tử). Cuộc trah cÃi giữa Thơ mới và thơ cũ đ-ợc khép lại
19/2/1936 khi L-u Trọng L- cho công bố một bài thơ Đ-ờng trong đó có hai
câu "thể hiện nụ c-ời khinh mạn của ng-ời chiến thắng" (Hàn Mạc Tử):
"Nắn nót miễn sao nên bốn vế
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ"
Từ đây, Thơ mới gần nh- chiếm địa vị -u thế trên mặt báo, thi đàn và
sau đó đ-ợc đ-a vào ch-ơng trình nhà tr-ờng. Thơ cũ thất bại nh-ng không
chết, nó lui về các thôn xÃ.
Và chúng ta đều biết rằng, để tồn tại cho đến ngày hôm nay và cả mai
sau, Thơ mới thực sự trải qua những biến cố thăng trầm. ĐÃ có rất nhiều cuộc
tranh luận nổ ra xung quanh vấn đề thơ cũ - mới, kéo theo nó hàng chục cây
bút phê bình với rất nhiều bài báo, bài nghiên cứu. Có những giai đoạn mà
cuộc tranh luận không chỉ là một cuộc tranh luận đơn thuần mà lên tới đỉnh
điểm của nó, xuất hiện rất nhiều các cây bút, các ý kiến trái ng-ợc nhau khá
gay gắt. Thơ mới đà đ-ợc đ-a ra mổ xẻ, xem xét khá kỹ l-ỡng có nhiều khi là

19



Khóa luận tốt nghiệp
khắt khe và bất công, điều này lại xảy ra bởi chính những ng-ời từng gắn bó,
xem Thơ mới là tâm huyết của đời họ. Nh-ng cuối cùng Thơ mới cũng đà đ-ợc
trả về đúng với vị trí đích thực của nó, đứng vững trên bục vinh quang góp
phần to lớn trong việc làm giàu và hiện đại hóa thơ ca, cũng nh- ảnh h-ởng sâu
rộng của nó đối với nền văn học n-ớc nhà, nh- ý kiến của V-ơng Trí Nhàn:
"ảnh h-ởng của Thơ mới diễn ra trên phạm vi toàn xà hội, phải nói Thơ mới đÃ
in dấu vào nó cả thế kỷ và bây giê chóng ta vÉn sèng d-íi ¶nh h-ëng cđa nã".
1.2.3. Thử lý giải nguyên nhân sự thâm nhập yếu tố văn xuôi tự sự vào
trong Thơ mới 1932 - 1945.
Phong trào văn học nào cũng có những đặc tr-ng nhất định. Đó là
những đặc diểm riêng biệt, độc đáo để khu biệt nó với những phong trào văn
học tr-ớc, cùng thời và sau nó. Riêng phong trào Thơ mới có đặc tr-ng nổi bật
là sự thâm nhập của yếu tố văn xuôi tự sự. Chúng ta dễ dàng tìm thấy những
câu chuyện hoàn chỉnh, những chi tiết miêu tả tỉ mỉ những lời văn mang tính
chất kể lể và cả ngôn ngữ đối thoại (vốn là đặc tr-ng của văn xuôi tự sự). Vậy
những nguyên nhân nào đà đ-a tới cho phong trào thơ ca này đặc tr-ng đó? Đi
sâu vào tìm hiểu những nguyên nhân của vấn đề trên, chúng tôi thiết nghĩ
d-ờng nh- không thể không xuất phát từ những tiền đề xà hội và thẩm mĩ vì
văn học tr-ớc hết là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mÜ cđa mét tÇng líp ng-êi, cđa
mét giai cÊp trong xà hội. Đồng thời thông qua việc làm này ta cũng thấy đ-ợc
quy luật phát triển của văn học và mèi quan hƯ cđa nã ®èi víi ®êi sèng x· hội.
a) Tiền đề xà hội:
Một chân lí đà đ-ợc các nhà lí luận văn học khẳng định từ lâu đời: XÃ
hội nào thì văn học ấy. Quả vậy, hoàn cảnh xà hội quy định hay nói đúng hơn
tác động chi phối rất nhiều lên nền văn học đ-ợc sản sinh trong lòng xà hội đó.
Không nằm ngoài quy luật ấy, muốn lí giải nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhập
yếu tố văn xuôi tự sự trong phong trào Thơ mới, chúng ta phải tìm hiểu những
đặc điểm của xà hội n-ớc ta từ đầu thế kỷ XX đến 1945, nó ®· ¶nh h-ëng nh-


20


Khóa luận tốt nghiệp
thế nào tới sự phát triển của Thơ mới, đó phải chăng là sự ảnh h-ởng theo
chiều h-ớng tốt đẹp.
B-ớc sang đầu thế kỷ XX, bộ mặt xà hội n-ớc ta có nhiều thay đổi.
Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp về mặt khách
quan đà làm nền kinh tế n-ớc ta phát triển. Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp
đà bắt đầu xuất hiện mầm mống của kinh tế t- bản chđ nghÜa. NỊn kinh tÕ tb¶n chđ nghÜa tuy míi chỉ manh nha nh-ng đà ảnh h-ởng không nhỏ đến xÃ
hội Việt Nam. Một số đô thị mới hình thành và phát triển: Hà Nội, Nam Định,
Hải Phòng, Huế, Sài Gòn Những trung tâm công nghiệp với nếp sống đô thị
thu hút dân nghèo ra kiếm việc làm. Từ đó, thành phần giai cấp trong xà hội
Việt Nam cũng thay đổi. Bên cạnh giai cấp nông dân vẫn tiếp tục khai thác
theo lối cổ x-a, giai cấp công nhân cũng đang hình thành và lớn mạnh song
song với tầng lớp dân nghèo thành thị, tiểu t- sản trí thức và giai cấp t- sản dân
tộc. Trong đó tầng lớp tiểu t- sản trí thức và giai cấp t- sản dân tộc là những
giai tầng có tác động rất lớn đến phong trào Thơ mới cũng nh- quy định những
đặc tr-ng của phong trào thơ ca này.
Để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa đạt hiệu quả cao, thực
dân Pháp đà ra sức tuyên truyền cho việc "khai thác văn minh" của quốc mẫu
đại Pháp, các tr-ờng Pháp - Việt đ-ợc xây dựng từ năm 1896. Các sách báo về
khoa học kỹ thuật, văn học, triết học của Pháp và của cả các n-ớc ph-ơng Tây
đ-ợc dịch sang chữ quốc ngữ và đăng tải trên các báo: Đông D-ơng tạp chí,
Nam Phong, Phụ nữ tân văn, Phong hóaCùng với việc tuyên truyền văn minh
Pháp, năm 1915 thực dân Pháp và triều đình phong kiến đà bÃi bỏ chế độ khoa
cử nặng nề và thối nát ở Bắc Kỳ, sau ®ã lµ ë Nam Kú, ë Trung Kú. Khoa cư
mµ bỏ thì thơ Đ-ờng thất ngôn bát cú cũng theo đó mà mất dần địa vị độc tôn
và thế vào vị trí đó là văn học Pháp. Trong nhà tr-ờng thanh niên học sinh say
s-a học văn học Pháp. Do tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn học lÃng

mạn Pháp nên tầm mắt của ng-ời Việt Nam đ-ợc mở rộng, sinh hoạt của một
số tầng lớp nhân dân có sự thay đổi. "Ng-ời ta ở nhà lầu, ®i « t«, dïng ®Ìn

21


×