Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghệ thuật tiểu thuyết của nguyễn quang lập qua hai tác phẩm những mảnh đời đen trắng và tình cát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN NGỌC

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN QUANG LẬP QUA HAI TÁC PHẨM
“NHỮNG MẢNH ĐỜI ĐEN TRẮNG” VÀ “TÌNH CÁT”

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN NGỌC

NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN QUANG LẬP QUA HAI TÁC PHẨM
“NHỮNG MẢNH ĐỜI ĐEN TRẮNG” VÀ “TÌNH CÁT”

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN HUY DŨNG

NGHỆ AN - 2018



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................................5
3.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................................................5
3.2. Phạm vi nghiên cứu .........................................................................................................................5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................................................6
4.1. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................................6
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................................6
6. Đóng góp của luận văn ...........................................................................................................................6
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................................................7
Chương 1 ........................................................................................................................................................8
TIỂU THUYẾT NGUYỄN QUANG LẬP TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI CỦA TIỂU THUYẾT VIẾT
NAM ĐƯƠNG ĐẠI .......................................................................................................................................8
1.1. Khái quát về những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam thời hậu chiến ...............................................8
1.1.1. Xác lập thái độ đối thoại với “cái hôm nay” của hiện thực ........................................................8
1.1.2. Phát triển nhiều khuynh hướng tìm tịi đa dạng .........................................................................12
1.1.3. Vận dụng nhiều thủ pháp - kỹ thuật của tiểu thuyết hiện đại .....................................................17
1.2. Sự phong phú của gia tài văn học Nguyễn Quang Lập .....................................................................21
1.2.1. Những truyện ngắn gây tiếng vang thời Đổi mới .......................................................................21
1.2.2. Những tạp văn với thể nghiệm hình thức “khẩu văn” ...............................................................25
1.2.3. Những kịch bản văn học làm nền tảng cho các vở diễn, bộ phim xuất sắc ................................31
1.2.4. Những tiểu thuyết với nỗ lực mở rộng quy mô khái quát hiện thực ...........................................33
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập – cuộc tìm đường đi riêng trong xu hướng đổi mới chung ............34
1



1.3.1. Những mảnh đời đen trắng – bức tranh bi hài về hiện thực thời chiến ......................................34
1.3.2. Tình cát – hành trình của ký ức từ nỗi nhức nhối hiện tại ..........................................................37
1.3.3. Đánh giá chung về vị trí của tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập ....................................................40
Chương 2 ......................................................................................................................................................42
TÍNH VĂN XI CỦA CÁC SỰ KIỆN, MẪU HÌNH NHÂN VẬT ĐƯỢC NHẬN THỨC TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN QUANG LẬP ..................................................................................................42
2.1. Chiến tranh với bộ mặt hung tàn của nó............................................................................................42
2.1.1. Chiến tranh - sự phá hủy cuộc sống đời thường ........................................................................42
2.1.2. Những sự ly tán do chiến tranh ..................................................................................................44
2.1.3. Những cái chết bất đắc kỳ tử trong chiến tranh .........................................................................47
2.2. Những bất cập trong công cuộc xây dựng xã hội mới.......................................................................51
2.2.1. Những nhận thức xơ cứng về xã hội mơ ước ..............................................................................51
2.2.2. Sự bất cập và suy thoái của bộ máy lãnh đạo ............................................................................59
2.3. Những mẫu người méo mó................................................................................................................63
2.3.1. Mẫu người “cỗ máy” .................................................................................................................63
2.3.2. Mẫu người cơ hội, đạo đức giả ..................................................................................................68
2.3.3. Mẫu người bế tắc trong hành trình khẳng định nhân cách ........................................................70
Chương 3 ......................................................................................................................................................72
KẾT CẤU, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU VÀ MỘT SỐ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT ĐẶC THÙ TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN QUANG LẬP ..................................................................................................72
3.1. Từ kết cấu đơn tuyến trong Những mảnh đời đen trắng đến kết cấu đa tuyến, phân mảnh trong Tình
cát .............................................................................................................................................................72
3.1.1. Kết cấu đơn tuyến trong Những mảnh đời đen trắng .................................................................72
3.1.2. Kết cấu đa tuyến, phân mảnh trong Tình cát – một nỗ lực hiện đại hóa nghệ thuật tiểu thuyết 74
3.1.3. Tính liên kết giữa hai tiểu thuyết về mặt sự kiện và tính độc lập, hồn chỉnh của từng tác
phẩm…………………………………………………………………………………………………………………….74
3.2. Ngôn ngữ dân dã và giọng điệu humor .............................................................................................75

2



3.2.1. Màu sắc dân dã trong ngôn ngữ kể chuyện ................................................................................75
3.2.2. Hiệu quả khác thường của việc sử dụng ngôn ngữ dân giã để trình bày những vấn đề hệ trọng,
vĩ mô .....................................................................................................................................................77
3.2.3. Giong điệu humor với các sắc thái đa dạng của nó ...................................................................70
3.3. Một số thủ pháp nghệ thuật đặc thù ..................................................................................................80
3.3.1. Thủ pháp biểu trưng hóa ............................................................................................................80
3.3.2. Thủ pháp đồng hiện và kỹ thuật dòng ý thức..............................................................................81
3.3.3. Thủ pháp “sex hóa” ...................................................................................................................82
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………………………91

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Quang Lập là một nhà văn tài năng của văn học Việt Nam đương
đại, có những đóng góp khá nổi bật trên các thể loại như truyện ngắn, tạp văn, kịch
bản văn học (cho sân khấu và điện ảnh) và tiểu thuyết. Trong khi những tác phẩm
của ông thuộc các thể loại như truyện ngắn, tạp văn được nói đến khá nhiều thì hai
tiểu thuyết của ơng lại chưa được quan tâm một cách thích đáng. Với những giá trị
độc đáo của mình, tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập cần được nghiên cứu một
cách sâu sắc hơn nữa.
2. Những mảnh đời đen trắng và Tình cát khơng chỉ thể hiện cái nhìn độc đáo
của Nguyễn Quang Lập về những vấn đề nhức nhối của đời sống Việt Nam thời
hậu chiến, mà còn bộc lộ được mối quan tâm chung của rất nhiều nhà văn về bản
chất của hiện thực mà họ đang đối diện. Chính vì vậy, việc tìm hiểu hai tiểu thuyết
này của Nguyễn Quang Lâp sẽ giúp người nghiên cứu có thêm tư liệu để nhìn nhận
một cách bao qt về những nỗ lực của các nhà văn Việt Nam trong việc nhận chân

thực tại bộn bề khiến ta không thôi trăn trở.
3. Cho đến nay, Nguyễn Quang Lập mới chỉ cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết,
cuốn nọ cách cuốn kia 26 năm. Chủ đề tuy thống nhất, thậm chí cuốn sau như là sự
viết tiếp cuốn trước, nhưng nghệ thuật của hai cuốn có sự cách biệt khá rõ. Sự đổi
mới nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, rõ ràng, là một vấn đề hết sức thú vị cần
được nghiên cứu một cách tập trung, chuyên sâu.
2. Lịch sử vấn đề
Số lượng bài viết, luận văn về sáng tác của Nguyễn Quang Lập có khá nhiều.
Tuy nhiên, cho đến nay, số bài viết về hai cuốn tiểu thuyết của ơng hãy cịn thưa
thớt, do hai tác phẩm ra đời vào những thời điểm nhạy cảm, lại đụng đến những
chuyện có lúc được xem là cấm kỵ. Tuy nhiên, những bài viết của Hoàng Phủ Ngọc
4


Tường (Nguyễn Quang Lập – người thuốc thang cho vết thương chiến tranh, 1988),
Phạm Xuân Nguyên (Những mảnh đời đen trắng, hai mươi năm có lẻ…, 2011; Xóm
Cát của Nguyễn Quang Lập¸2015), Nguyễn Thành Phong (Những bóng ma thời
hậu chiến, 2015), Trần Hạnh (Note ngắn về Tình cát, 2015), Hồng Tuấn Cơng
(Xem Tình cát của Nguyễn Quang Lập, 2015; Chân dung tham quan ơ lại trong
Tình cát, 2015), Nguyễn Trọng Bình (Ẩn ức tình dục và mặc cảm chiến tranh trong
Tình cát của Nguyễn Quang Lâp, 2016)… đã kịp thời đưa ra những đánh giá gọn,
sắc, khái quát, có giá trị khai mở những cái nhìn mới về tiểu thuyết của Nguyễn
Quang Lập.
Trên cơ sở kế thừa những luận điểm đánh giá sâu sắc của các nhà văn, nhà phê
bình nêu trên về tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập, đồng thời tiếp nhận một số gợi
ý từ những đánh giá đã có về truyện ngắn, tạp văn, kịch bản văn học của nhà văn,
chúng tôi thực hiện đề tài Nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập qua hai
tác phẩm “Những mảnh đời đen trắng” và “Tình cát” với hy vọng làm sáng tỏ
thêm được đơi điều về những đóng góp của nhà văn cho tiểu thuyết Việt Nam
đương đại nói riêng, văn học Việt Nam đương đại nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn
Quang Lập qua hai tác phẩm “Những mảnh đời đen trắng” và “Tình cát”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập
qua cách chọn thể hiện vấn đề những vấn đề đầy tính văn xi của hiện thực, cách
kết cấu, tổ chức không gian, thời gian, cách sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu, cách
dùng một số thủ pháp – kỹ thuật như biểu trưng hóa, đồng hiện, dòng ý thức…

5


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nhận diện Nguyễn Quang Lập với tư cách là một phong cách tiểu thuyết
độc đáo, đồng thời chỉ ra được những sự tự đổi mới chính mình để hòa nhập vào xu
trào đổi mới chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Nhận diện vị trí của tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập trong nền tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
4.2.2. Khảo sát, phân tích tính văn xi trong các sự kiện, mẫu hình nhân vật
được nhận thức trong tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập.
4.2.3. Đánh giá những thành công của Nguyễn Quang Lập trong nghệ thuật tiểu
thuyết trên các phương diện: kết cấu, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, sử dụng các
thủ pháp của tiểu thuyết hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống.

- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp hình thức của thi pháp học.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên tập trung nghiên cứu hai tác phẩm Những mảnh
đời đen trắng và Tình cát Nguyễn Quang Lập trên phương diện nghệ thuật tiểu
thuyết.
6


7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập trong bối cảnh đổi mới của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
Chương 2. Tính văn xi của các sự kiện, mẫu hình nhân vật được nhận thức
trong tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập.
Chương 3. Kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu và một số thủ pháp nghệ thuật đặc
thù trong tiểu thuyết Nguyễn Quang Lập.

7


Chương 1
TIỂU THUYẾT NGUYỄN QUANG LẬP TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI
CỦA TIỂU THUYẾT VIẾT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

1.1. Khái quát về những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam thời hậu
chiến

1.1.1. Xác lập thái độ đối thoại với “cái hôm nay” của hiện thực
Những năm hậu chiến, chính sự đổi mới quan niệm về hiện thực đã mở rộng
phạm vi miêu tả, thể hiện, đem lại cho văn xuôi nhiều nội dung phong phú, mới
mẻ. Hiện thực đời sống khơng cịn thuần túy là những biến cố lịch sử và đời sống
cộng đồng mà rộng hơn, sâu hơn là cái thường ngày với bao mối quan hệ chằng
chéo, phồn tạp. Và bởi thế, cái nhìn thế sự - đời tư thực sự giữ vai trò cốt yếu trong
cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Ví như trước đây, chiến tranh được nhìn nhận và
phản ánh chủ yếu qua những chiến cơng hiển hách của dân tộc, của con người thì
giờ đây, với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh nhìn chiến tranh từ phần khuất chìm,
suy ngẫm về chiến tranh từ số phận của con người và phản ánh chiến tranh bằng
những “nghịch lí”, trái với những “thuận lí” vốn rất quen thuộc của tư duy văn học
một thời. Nhờ thế đã đem lại cho người đọc một cái nhìn mới, đa chiều, sâu sắc về
chiến tranh. Các tác phẩm viết về chiến tranh của Nguyễn Minh Châu, Chu Lai,
Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Trí Hn… khơng cịn trơi trong cảm hứng ngợi ca mà
giàu chất suy tư, lí giải khi được chiêm nghiệm từ thân phận con người. Văn xuôi
đã bắt đầu đối diện với những vấn đề gai góc, thậm chí những vấn đề trước đây bị
khoanh vạch đỏ như cải cách ruộng đất, bản năng tính dục, bệnh cuồng tín, tệ quan
liêu tham nhũng, sự tha hóa xuống cấp về đạo đức... Bên cái hữu lí có cái phi lí;
bên cái hiển hiện có cái ẩn chìm, khuất lấp… Chính ở những không gian nghệ thuật

8


mới mẻ này, văn xi đã khẳng định được mình với những tác phẩm được độc giả
đón nhận nhiệt tình.
Những chuyển đổi của văn xuôi sau 1975 gắn với những đổi mới sâu sắc trong
quan niệm nghệ thuật về con người. Nhận xét về các nhân vật trong sáng tác trước
1975 của Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên cứu Niculin (Nga) cho rằng: Nhân vật
của Nguyễn Minh Châu luôn được “tắm rửa sạch sẽ”, được “bao bọc trong một bầu
khơng khí vơ trùng”. Đó cũng có thể coi là nhận xét chung về nhân vật của văn

xuôi Việt Nam trước 1975, kiểu “nhân vật sử thi”. Theo cách nói của Bakhtin, đó là
con người ln “khốc bộ áo xã hội”, ln “trùng khít với địa vị xã hội của mình”,
“con người đơn giản, dễ hiểu, đẹp đến mức hoàn hảo, thánh thiện”… Khảo sát
trong văn xi Việt Nam đương đại, có thể nhận thấy sự chuyển đổi rõ rệt, sâu sắc
từ con người lịch sử, con người cộng đồng đến con người cá nhân “đầy những nỗi
niềm nguồn cơn”, đầy phức tạp và bí ẩn. Lấy con người làm điểm quy chiếu lịch
sử, cảm hứng nghiên cứu đa diện về con người ngày càng chiếm vị trí chủ đạo
trong sáng tác văn xuôi. Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam) là sự tự phán
xét của lương tâm trước hai chiều thời gian: quá khứ và hiện tại. Bức tranh của
Nguyễn Minh Châu là con người trong sự đối diện với “tịa án lương tâm” của
chính mình; và sau đó trong hàng loạt truyện ngắn của ông như Hạnh, Cơn giơng,
Sắm vai, Chiếc thuyền ngồi xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền
Nam… là những cuộc đối chứng về “tính chất kì lạ của con người” với những phức
tạp của đời sống, những giằng xé nội tâm khiến con người nhiều lúc như phân thân,
biến dạng.
Cùng với sự phức tạp là sự bí ẩn. Con người là một thế giới đầy bí ẩn, với
những thăng trầm bất định trong tâm lí, tính cách và những hành động bất ngờ khó
đốn trước. Các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Những bài học
nông thôn, Chút thống Xn Hương, Kiếm sắc, Vàng lửa…), của Triệu Bơn (Một
phút và nửa đời người), của Nguyễn Bản (Ánh trăng), của Ma Văn Kháng (Chọn
9


chồng, Thanh minh trời trong sáng…) đều hiện lên như một “tiểu vũ trụ” đầy bí ẩn
trong cuộc đời “đầy ẩn mật”. Sự hiện diện của những con người phức tạp và bí ẩn
như nó vốn có, khơng thần thánh hóa, lí tưởng hóa ấy mang ý nghĩa một sự đối
thoại với quan niệm về con người còn giản đơn, phiến diện, duy ý chí một thời. Đó
là cách nhìn và phản ánh con người phổ biến trong sáng tác của hàng loạt cây bút
văn xuôi Việt Nam đương đại: từ Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân... đến Chu Lai,

Nguyễn Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Dương Hướng, Đào Thắng, Mạc Can, Nguyễn Bắc Sơn... rồi Lê Minh Khuê,
Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Hoa, Quý Thể, Hòa
Vang, Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà... và lớp cây bút
trẻ Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Đình Tú… Ở đó, con người được
khám phá trên nhiều bình diện: con người xã hội, con người tự nhiên (bản năng) và
con người tâm linh. Con người xã hội vốn là dạng phổ biến trong văn xuôi trước
1975. Tuy nhiên, ở thời Đổi mới, khi miêu tả con người xã hội, nhà văn không chỉ
hướng tới thể hiện những sự kiện, biến cố xã hội, khơng cịn bị gị theo tiêu chí
phân tuyến xấu - tốt, thiện - ác mà đã là những con người đa diện, phức tạp “đa
đoan”. Nhà văn đặt con người trong những xung đột rất cụ thể cụ thể, soi chiếu vào
thế giới nội tâm của họ để qua đó khám phá ra những mối quan hệ xã hội phức tạp.
Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu; Hoan, Khiêm trong Ngược dòng
nước lũ của Ma Văn Kháng; Anh Khải trong Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải;
Bối trong Ba người khác của Tơ Hồi… và nhiều nhân vật của văn xuôi đương đại
đều được thể hiện từ “tọa độ” mới đó.
Con người tự nhiên vốn là một bình diện quan trọng, nhưng vì quan niệm cịn
phiến diện về con người, văn xi một thời có phần e ngại, né tránh. Văn xuôi đổi
mới quan tâm nhiều đến con người tự nhiên, khám phá con người tự nhiên từ nhiều
góc độ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc quan tâm đến con người trong tính tồn
10


vẹn của nó, khẳng định bản năng tự nhiên như một “lực sống” của con người (theo
cách diễn đạt của Freud), khiến con người hiện diện trong văn học đầy đặn và sống
động hơn.
Con người tâm linh cũng là phương diện nhiều cây bút văn xuôi đổi mới quan
tâm. Khám phá bí ẩn của tâm linh là con đường hữu hiệu giúp nhà văn khám phá
được chiều sâu vô tận bí ẩn trong tâm hồn con người. Con người tâm linh đã hiện
diện khá phổ biến trong văn xuôi đương đại, đặc biệt trong Nỗi buồn chiến

tranh của Bảo Ninh, Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo, Người sông mê của Châu Diên, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh…
Chính từ sự đổi mới cơ bản trong quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới
nhân vật trong văn xuôi đương đại phong phú, gần gũi và giàu sức ám ảnh đối với
người đọc với nhiều kiểu loại nhân vật mới: nhân vật tự ý thức, nhân vật cô đơn,
nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và bị tha hóa, nhân vật dị biệt – những dạng nhân
vật chưa từng hoặc rất ít xuất hiện trong văn xuôi trước 1975.
Cùng với những chuyển đổi trong tư duy nghệ thuật, nội dung cảm hứng là
những đổi mới đáng kể trong phương thức thể hiện hiện thực bằng nhiều cách thức
khác nhau. Có thể nói về cái thực thơng qua cái ảo, nói cái hữu lí thơng qua cái phi
lí, cùng với đó là các thủ pháp đa dạng, giàu hiệu quả: kì ảo, huyễn tưởng, huyền
thoại, giễu nhại, trào lộng. Sự đa thanh trong giọng điệu, những chuyển đổi cơ bản
trong nghệ thuật trần thuật đã thực sự tạo được những hiệu quả nghệ thuật tích cực.
Từ những năm cuối của thế kỉ XX, đặc biệt những năm đầu của thế kỉ XXI, trong
xu thế giao lưu hội nhập và tiếp nhận văn học thế giới, đã có thể thấy trong văn
xi Việt Nam những dấu ấn của văn học hậu hiện đại, đặc biệt trong các tác phẩm
của Nguyễn Bình Phương (Ngồi, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy…), của Thuận (T.
mất tích, Paris 11 tháng 8, Chinatown…), của Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân vật, Giã
biệt bóng tối), của Nguyễn Danh Lam (Giữa dòng chảy lạc, Giữa vòng vây trần
11


gian)… Nhìn như vậy có thể nói, từ “viết cái gì” đến “viết thế nào” là một bước
chuyển đáng kể của văn xuôi đương đại Việt Nam.
1.1.2. Phát triển nhiều khuynh hướng tìm tịi đa dạng
Trong văn học đương đại Việt Nam từ sau năm 1975 có một giai đoạn được gọi
là “tiền đổi mới”: 1975-1985. Mặc dầu văn học giai đoạn này được xác định là vận
động trong “quán tính”, nghĩa là nó chưa vượt thốt ra khỏi phạm trù “sử thi và
lãng mạn” của văn học cách mạng, nhưng đã có những động thái và dấu hiệu tìm

tịi, bứt phá, mở lối được tạo nên bởi một số nhà văn có tư tưởng nghệ thuật mới
mẻ. Ơng là người âm thầm, kiên trì tìm kiếm hướng đi mới của văn học.
Cũng trong giai đoạn có tính chất bước đệm này tiểu thuyết với tư cách một thể
loại rường cột của văn học cũng đã có những chuyển động theo tinh thần đổi mới.
Những tác giả có cơng đưa tiểu thuyết nhập vào trào lưu đổi mới văn học trước hết
phải kể đến Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng (2 tập, 1979-1984). Cái căn cốt của
tác phẩm này là nhìn thẳng vào sự thật, viết sự thật về chiến tranh. Cho đến tận
hơm nay thì tinh thần vì sự thật vẫn luôn là một nhu cầu thúc bách và thường trực
của nhà văn. Nhưng trên quan điểm phát triển thì viết đúng sự thật cũng chưa phải
là nhân tố hàng đầu quyết định sự thành bại của văn học. Nói cách khác mới chỉ là
yếu tố cần nhưng chưa đủ. Bản thân khái niệm “sự thật” trong văn học cũng ln
có biến động (sự thật sự kiện hay sự thật tâm hồn? sự thật phía ánh sáng hay phía
bóng tối? sự thật có lợi cho nhân dân hay một nhóm lợi ích? v.v. và v.v.). Trung
thành với sự thật chỉ mới là cảm hứng. Sự thành công của sáng tạo văn học, tiểu
thuyết còn cần đến trước hết là tài năng của nhà văn.
Có thể coi Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu là một thành tựu có tính bước ngoặt
của tiểu thuyết đổi mới, trong đó nhà văn đặt vấn đề nhận thức lại thực tại, khai mở
một khuynh hướng quan trọng của văn xuôi viết theo tinh thần của “cái bi kịch”.
Giang Minh Sài là một nhân vật bi kịch với sự ngộ nhận và đánh mất bản ngã, sống
chờ sự bảo ban, giao nhiệm vụ của người khác. Về thi pháp thể loại, có thể
12


nói, Thời xa vắng cơ bản vẫn nằm trong phạm trù truyền thống (xét về các phương
diện cấu trúc, trần thuật, ngơn từ). Thời xa vắng đồng thời có yếu tố tự truyện, mở
ra một dòng tiểu thuyết tự thuật được các nhà văn ưa chuộng sau này.
Văn học tiểu thuyết bước vào cao trào vào khoảng cuối những năm tám mươi,
đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX. Văn học đổi mới đã đi được bước đầu tự
tin vào thành tựu của mình.
Từ 1986 đến những năm đầu thập niên 1990 là cao trào của văn học Đổi mới

đánh dấu sự bứt phá mạnh mẽ của một thế hệ nhà văn hoàn toàn mới mẻ, với
những đại diện tiêu biểu Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,... Có thể
coi đây là lứa quả đầu của Đổi mới bởi tiếng nói của thế hệ có vị trí đặc biệt trong
chặng đầu với sự đột phá trong quan niệm và cái nhìn về đời sống, với từ trường
ảnh hưởng rộng rãi. Họ là thế hệ nhà văn sinh vào quãng từ năm 1950 - 1960, sinh
ra và lớn lên chủ yếu trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, trưởng thành cùng với sự
nếm trải những năm tháng hịa bình và hậu chiến nhưng chiếc áo nhà văn - cán bộ,
nhà văn - chiến sĩ không mặc vừa với họ. Họ là những tác giả đi để trở về, soi ngắm
và tự vấn, chính bối cảnh hậu chiến và đổi mới đã quy tụ họ về một không gian
chung, nơi tập trung rõ nhất những mâu thuẫn xã hội, và nghịch lý của cuộc sống.
Năm 1980 Nguyễn Huy Thiệp từ Tây Bắc trở về Hà Nội sinh sống và mặc dù đã
viết một số truyện ngắn từ trước đó nhưng đến 1986, Tướng về hưu xuất hiện mới
trở thành một sự kiện của văn học Đổi mới. Năm 1983, Phạm Thị Hoài từ Đức trở
về, xuất bản Thiên sứ (1988), Mê lộ (1989) như thổi một làn gió lạ vào văn chương
Việt. Bảo Ninh tham gia chiến đấu ở mặt trận Tây Nguyên từ 1969, sau 1975 giải
ngũ về Hà Nội học tập và sinh sống, xuất bản Trại bảy chú lùn (1987) nhưng phải
đến Nỗi buồn chiến tranh xuất hiện dưới cái tên Thân phận của tình yêu (1990)
mới thực sự đem lại cho tiểu thuyết Việt Nam một thành tựu xuất sắc. Đó là những
tác phẩm mang cái nhìn khác trước về đời sống, cách viết vượt ra khỏi những
nguyên tắc và cấu trúc truyền thống: rời bỏ nguyên tắc điển hình hóa, phá vỡ kết
13


cấu truyện kể kịch tính và logic... Ngay trong quan niệm văn chương của họ cũng
đầy gây hấn: Phạm Thị Hoài nhận thấy “viết văn như một phép ứng xử” với bản
thân và môi trường xung quanh và văn chương là “một trị chơi vơ tăm tích”.
Nguyễn Huy Thiệp thì cho rằng “nhiệm vụ của các nhà văn không phải là nói ra
chân lý mà là thức tỉnh ý thức hướng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức tỉnh tình
cảm về phẩm giá con người trong họ” (Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng
nhà văn). Một trong những dấu hiệu có tính bước ngoặt của văn xi đương đại là

“từ không gian nhà binh chuyển sang không gian đời thường”, thậm chí viết về
chiến tranh, hoặc nhân vật có quá khứ chiến tranh nhưng hướng đến sự khai thác từ
góc nhìn đời thường (Lã Ngun) mặc dù chiến tranh trở đi trở lại trong ký ức
khiến người viết tự hỏi “chuyện xưa, kết đi, được chưa” (Bảo Ninh). Đến đây, văn
xuôi Việt đã bứt phá ngoạn mục với một thế hệ viết bằng tư duy văn học mới, với
lối viết mới hoàn toàn cắt đứt khỏi tư duy phân lập rõ ràng tốt - xấu, địch - ta, chính
diện - phản diện. Điều đó dẫn đến xu hướng giải thiêng và giễu nhại trở thành đặc
điểm nổi bật của văn học giai đoạn này. Đồng thời văn học cũng khơng cịn nặng
về cảm hứng triết luận và tính luận đề như giai đoạn trước mà để ngơn ngữ tự trình
hiện bằng những biểu tượng và ký hiệu. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm
Thị Hoài, Bảo Ninh cho cảm giác như những mảng màu lập thể để người đọc có
thể nhìn từ nhiều góc khác nhau. Trong những câu chuyện kể của Nguyễn Huy
Thiệp, chỉ có tiếng nói nhân vật cất lên, lời nói tự thân nó thể hiện một quan niệm
về đời sống. Người đọc không dễ gì nhận ra tư tưởng của nhà văn qua những chi
tiết, sự kiện, nhân vật và cũng dễ mất định hướng trước cái hiện thực trần trụi, “cực
thực” (Thụy Khuê) được phơi lộ trong tác phẩm. Chính Nguyễn Huy Thiệp phát
biểu: “Tơi chỉ viết những gì mà tơi đã sống và thật sự có xảy ra”, cái thật và những
trải nghiệm qua lăng kính nhà văn được thể hiện một cách giản đơn, không màu
mè, tô vẽ. Nếu như ở thế hệ trước, vấn đề cốt truyện là sự chuyển giao sang mơ
hình cốt truyện tâm lý thì với các tác giả giai đoạn này, cốt truyện được nới lỏng
14


hồn tồn. Chính vì vậy cấu trúc bề mặt của Tướng về hưu chỉ là những ghi chép
vụn vặt về cuộc sống gia đình kể từ khi ơng tướng về hưu - một kiểu nhân vật lạc
thời. Nỗi buồn chiến tranh là những chập chờn đứt nối trong dòng ký ức của nhân
vật cựu binh Kiên cũng là một kiểu lạc lõng giữa dòng đời. Nhưng ở bề sâu của tác
phẩm là ý thức tự vấn của người viết ráo riết, quyết liệt, đi đến tận cùng con đường
đổi mới. Sự hiện diện của thế hệ đầu tiên sau Đổi mới gắn với cơng cuộc cải cách
kinh tế, chính trị, văn hóa mà thành tựu nổi bật nhất là sự xóa bỏ cơ chế kinh tế tập

trung bao cấp.
Từ đầu thập niên 1990 đến nay là giai đoạn trỗi dậy của thế hệ của những tác
giả đã bắt đầu sáng tác từ thập niên 80 như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà,
Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,… những người trải nghiệm giai đoạn đầu đổi mới, và
thụ hưởng kết quả đổi mới trọn vẹn hơn: ngồi những nền văn hóa quen thuộc, quá
trình giao lưu và hội nhập với quốc tế đã đem lại nền văn học dịch phong phú với
những trào lưu tư tưởng lý luận hiện đại, họ cũng là thế hệ kế tiếp chứng kiến và
tiếp nhận kinh nghiệm đổi mới từ các lớp trước. Trong văn học giai đoạn này, nhu
cầu tự thân của sáng tạo văn chương đã tạo nên một thế hệ đa phong cách, giọng
điệu nhưng hướng tới điểm chung là miêu tả con người trong những trạng thái bất
thường, buồn nản, thất bại hoặc chìm đắm trong thế giới riêng, rất gần với kiểu
nhân vật nghịch dị. Lý giải vì sao tác phẩm của thế hệ này thường có lối viết khó
đọc, khó hiểu, Thụy Khuê cho rằng đó là do nhà văn phải tìm con đường an tồn
hơn tránh kiểm duyệt và sự đòi hỏi của văn chương hiện hành. Ở đây chúng tơi
cũng muốn nhấn mạnh đến tính chất hội nhập của văn chương giai đoạn này khi
đồng thời các trào lưu mới của văn học thế giới ùa vào văn học Việt Nam (chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa cấu trúc, hậu hiện đại và giải cấu trúc,…). Nếu
như ở giai đoạn trước cốt truyện được nới lỏng và mờ hóa, thì giai đoạn này chứng
kiến sự tan rã của cốt truyện. Văn chương dấn sâu thêm vào chủ đề cái ác và bạo
lực như là cách đặt câu hỏi phỏng vấn và nỗi lo âu, hoài nghi về tồn tại của con
15


người. Sự tự do của ngòi bút thể hiện trong cái nhìn đa chiều về đời sống, trong
cách họ gửi gắm vào thế giới hư cấu đến độ huyễn tưởng. Giai đoạn này cũng
chứng kiến thế hệ trở lại sau khoảng thời gian dài im lặng: Nguyễn Xuân Khánh,
Bùi Ngọc Tấn, Châu Diên. Với những trải nghiệm đặc biệt, riêng khác của bản thân
giúp họ có thể lật giở lịch sử từ những góc khuất.
Một thế hệ kế tiếp đã hình thành trong giai đoạn hội nhập với Nguyễn Ngọc
Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã Thụy, Nguyễn Đình Tú,

Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp,… Họ đến từ một miền đất vùng q nào đó vừa hịa
vào vừa lạc giữa thị thành, vừa lưu luyến vừa rời bỏ trang giấy sang bàn phím, tuổi
trưởng thành của họ vấp ln vào thời kinh tế thị trường, vừa hướng tới hội nhập,
vừa muốn níu giữ quá vãng,… Họ rời bỏ thế giới huyễn tưởng, phi thực của thế hệ
trước để trở về với cái tôi cá nhân, đào sâu vào cái mong manh, mơ hồ của thế giới
tâm hồn, theo dấu những cuộc kiếm tìm, những mất mát nhằm tái dựng lại cái căn
cước bản thân. Điều này có thể được lý giải từ một bối cảnh văn hóa rộng hơn khi
quá trình hội nhập diễn ra ngày một sâu rộng. Sự lan rộng của internet và truyền
thông, văn học mạng, văn học thị trường càng khiến văn học đi sâu hơn nữa vào
con người cá nhân, con người đời thường. Khi tham gia vào những diễn đàn có tính
tồn cầu, tiếp nhận và giao lưu với những nền văn hóa khác, mỗi người viết lại
càng có ý thức sâu sắc hơn về căn cước cũng như việc tạo nên bản sắc trong nghệ
thuật
Sau ba mươi năm tiến hành công cuộc Đổi mới, dẫu chưa có đường biên phân
định thực sự rõ nét nhưng từng thế hệ cầm bút đã tạo nên được dấu ấn riêng, có
vùng phủ sóng rộng rãi. Trở lên là lý giải sự hình thành những thế hệ trên cơ sở tìm
hiểu cái nhìn nghệ thuật và cảm thức chung của mỗi nhóm tác giả trong mỗi giai
đoạn lịch sử xã hội, nói như Nguyễn Huy Thiệp “nhà văn dọn ra món ăn tinh thần
cho cả thời đại mình”. Văn chương ln biết tự thích ứng trước những tình thế lịch
sử nhưng trước hết là vai trị chủ thể của nhà văn với ý thức sáng tạo và trách
16


nhiệm của người cầm bút đã không ngừng tự đổi mới. Trong từng chặng đường,
hành trình của văn học đã có những chuyển động qua sự tiếp nối các thế hệ nhà văn
tạo nên dòng chảy chung để văn học Việt có thể vươn tới biển lớn hội nhập.
1.1.3. Vận dụng nhiều thủ pháp - kỹ thuật của tiểu thuyết hiện đại
Trong văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết là
thể loại có vai trị chủ lực, với sự hiện diện của nhiều thế hệ nhà văn, đóng góp
nhiều thành tựu quan trọng cho nền văn học. Con đường của tiểu thuyết trong hơn

30 năm qua dù trải qua một số trồi sụt, vẫn ln là sự vận động với những tìm tòi
tỏa ra nhiều hướng. Ở nửa cuối những năm 80 và đầu thập kỉ 90, tiểu thuyết thực sự
thu được được nhiều thành cơng, có những tìm tịi mạnh bạo, gây được dư luận
rộng rãi, tích cực. Trong khoảng 7, 8 năm tiếp đó, tiểu thuyết Việt Nam có vẻ
chững lại, loay hoay tìm hướng đi. Những đến cuối thập kỉ 90, người ta lại chứng
kiến sự phục hồi nở rộ của tiểu thuyết, với sự đa dạng về đề tài, khuynh hướng
nghệ thuật, bút pháp.
Trong sự đa dạng, phong phú của tiểu thuyết hơm nay, nếu nhìn từ phương diện
nghệ thuật có thể tạm nhận ra hai xu hướng chính: làm mới tiểu thuyết trên nền
truyền thống, và hướng cách tân theo tinh thần hiện đại.
Xu hướng thứ nhất chủ yếu vẫn bám sát khung thể loại truyền thống nhưng có
gia tăng một số yếu tố như sự thay đổi điểm nhìn trần thuật, sử dụng yếu tố huyền
ảo, yếu tố trào lộng… Nhìn chung, xu hướng này vẫn thu hút được đơng đảo độc
giả bởi nó có những cách tân thú vị mà lại khơng gây nhiều khó khăn cho sự tiếp
nhận của bạn đọc. Thuộc xu hướng này có nhiều cây bút thuộc các thế hệ đã sáng
tác từ trước 1975, gồm Tơ Hồi, Nguyễn Khải, Nguyễn Xuân Khánh, Ma Văn
Kháng và các nhà văn khẳng định tên tuổi từ thời kì chống Mỹ hay ngay sau khi kết
thúc chiến tranh như Lê Lựu, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Lê
Văn Thảo, Tô Nhuận Vỹ…

17


Thứ hai là xu hướng cách tân theo tinh thần hiện đại. Những nhà văn thuộc xu
hướng này đã đổi mới hình thức thể loại bằng cách vận dụng những kĩ thuật tự sự
hiện đại phương Tây, trên một quan niệm về tiểu thuyết đã khác xa với trước.
Thành tựu tiêu biểu của xu hướng này là Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh. Nhưng dường như xu hướng tìm tịi này khơng được đẩy
tới trong thập kỉ 90. Phải đến vài năm cuối cùng của thế kỉ XX, người ta mới thấy
một vài tiểu thuyết thể hiện sự phá cách về hình thức thể loại. Sang đầu thế kỉ XXI

cho đến nay, xu hướng đổi mới cách viết này mới thực sự được chú ý và đưa đến
những kết quả khá ngoạn mục.
Trong khoảng 5 - 7 năm đầu thế kỉ XXI, văn đàn Việt Nam thực sự sôi động
bởi sự xuất hiện của hàng loạt tiểu thuyết mới và lạ về cách viết như Thoạt kì thủy,
Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối của Tạ Duy
Anh, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà… Một số cây bút người Việt định cư ở
nước ngoài cũng thể hiện khát vọng đổi mới tiểu thuyết, trong đó ấn tượng hơn cả
là Chinatown, Pari 11 tháng 8, T. mất tích của Thuận, Và khi tro bụi của Đoàn
Minh Phượng.
Những tiểu thuyết kể trên khơng cuốn nào có được sự kết tinh nghệ thuật cao
và làm chấn động dư luận như Thiên sứ và Nỗi buồn chiến tranh trước đây, nhưng
rõ ràng đã tạo được sự chú ý, thậm chí phân lập bạn đọc một cách sâu sắc. Hầu hết
các tác giả kể trên đều là những nhà văn có bút lực dồi dào và đã đạt tới độ chín
trong tư duy nghệ thuật. Với những sáng tác có hình thức tân kỳ, họ góp phần thúc
đẩy cơng cuộc đổi mới tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và theo đó, tạo được cho
mình một vị trí văn học vững vạng.
Nhing chung, mong muốn đổi mới tiểu thuyết ngày càng cháy bỏng ở nhiều cây
bút thuộc mọi thế hệ, đặc biệt là ở lớp nhà văn trẻ. Người viết trẻ có điều kiện
thuận lợi hơn để tiếp xúc và vận dụng các kỹ thuật viết mới vào tiểu thuyết, tuy
không phải trường hợp nào cũng đạt được kết quả mỹ mãn. Rõ ràng, xu hướng cách
18


tân đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế
kỉ XXI, khiến nó ngày càng hấp dẫn bạn đọc, làm thay đổi khẩu vị nghệ thuật của
công chúng.
Cổ súy cho tinh thần dân chủ là điểm nổi bật trong quan niệm tiểu thuyết của
các cây bút theo xu hướng cách tân. Điều này thể hiện trước hết ở việc các nhà văn
nỗ lực giải phóng tiểu thuyết khỏi nhiệm vụ phản ánh hiện thực một cách cứng
nhắc. Tiểu thuyết giờ đây không khơng nhất thiết phải là một hiện thực khả tín, kết

quả của lối viết “bịa như thật” mà nhà văn Nguyễn Công Hoan trước đây đã khái
quát và thực hiện. Ở góc độ chủ thể sáng tạo, xu thế hướng tới dân chủ cho thấy
rằng: tiểu thuyết trước khi trở thành tiếng nói của dân tộc và thời đại thì nó nhất
định phải là phát ngơn thể hiện tư tưởng, quan niệm riêng của người nghệ sĩ. Đề
xuất những chuẩn mực giá trị mới và trình bày những kinh nghiệm cá nhân là công
việc thuộc quyền tự do sáng tạo của người cầm bút.
Hướng đến tính trị chơi cũng là một thể nghiệm mới đáng ghi nhận.
M.Kundera – nhà văn Pháp gốc Tiệp – đã rất có lý khi cho rằng: “Ở bên ngoài tiểu
thuyết, người ta sống trong thế giới của những điều khẳng định… Trong lãnh địa
của tiểu thuyết, người ta không khẳng định: đây là lãnh địa của trò chơi và của
những giả thuyết. Sự chiêm nghiệm của tiểu thuyết do vậy, trong bản chất của nó,
mang tính nghi vấn, giả thuyết”. Tính trị chơi đã giải phóng tiểu thuyết khỏi chức
năng giáo huấn, khiến nó bớt đi tính chất nghiêm trang để hướng nhiều tới tính giải
trí - một chức năng quan trọng của văn chương mà trước đây các nhà lý luận ở ta
thường phủ nhận hay tỏ ý nghi ngờ. Tính trị chơi giúp cho nhà văn được quyền tự
do thể nghiệm những hình thức nghệ thuật mới. Anh ta có thể tạo ra một thế giới
giả tưởng, khơng địi hỏi độc giả phải tin, thậm chí có lúc anh ta cịn nhắc độc giả
chớ có tin.
Có thể khái qt những nét chính trong sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của xu
hướng cách tân ở một số phương diện sau đây.
19


Trước hết là việc từ chối những quy mô đồ sộ. Phần lớn các tiểu thuyết theo xu
hướng cách tân chỉ có số trang ít ỏi, độ 200- 300 trang. Thuật ngữ “tiểu thuyết
ngắn” được dùng phổ biến hiện nay chính được đặt ra để gọi tên hiện tượng sáng
tác có tính đặc thù này. Trước đây, loại tiểu thuyết ngắn khơng phải chưa từng xuất
hiện. Chính Nguyễn Khải với những Chủ tịch huyện, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian
của người… đã từng lựa chọn nó. Nhưng phải đến đầu thế kỉ XXI, xu hướng viết
ngắn mới thật sự được nhiều nhà văn lựa chọn, như một kiểu thích ứng với văn hóa

đọc thời hiện đại. Hệ quả là tiểu thuyết đã được giải phóng khỏi chức năng phản
ánh bức tranh đời sống xã hội, khước từ loại cốt truyện có đầy đủ thành phần. vấn
đề cách kể câu chuyện lúc này được quan tâm hơn hẳn vấn đề nội dung câu chuyện.
Kiểu dung hợp nhiều thể loại khác nhau là đặc điểm nổi bật của cấu trúc văn
bản tiểu thuyết cách tân theo hướng hiện đại. Người ta hoàn tồn có thể thấy trong
một cuốn tiểu thuyết có sự hiện diện của thơ, kịch, tiểu luận, phóng sự, nhật kí, tự
truyện…
Lối viết liên văn bản cũng được nhiều nhà văn thể nghiệm, đáng chú ý trước hết
là trường hợp Tạ Duy Anh. Trong Đi tìm nhân vật, tác giả đã trích dẫn nguyên văn
lời tự thú trong cuốn sổ của tiến sĩ N, nhật kí Trần Bân, lá thư của Thảo Miên, đặc
biệt cịn đưa bốn truyện cổ tích vào kết cấu tác phẩm. Cịn Nguyễn Đình Tú trong
Phiên bản thì pha trộn cả kinh thánh và lý thuyết tội phạm học…
Lắp ghép cũng là một thủ pháp được sử dụng khá rộng rãi mà với nó nhà văn
có thể thực hiện sự chuyển đổi sự kiện, nội dung, không gian và thời gian một cách
đột ngột, không cần báo trước. Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh giống như là một
tập hợp nhiều truyện ngắn khác nhau cùng có mối quan tâm chung là câu chuyện về
một chú bé mồ côi.
Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu cũng là một dấu hiệu thể hiện sự bứt phá của
tiểu thuyết theo xu hướng hiện đại. Ngôn ngữ lúc này mang tính đa thanh, có nhiều
bè, thường xun va đập, tương tác với nhau. Về giọng điệu, giọng giễu nhại
20


thường xuyên được sử dụng với vô vàn kiểu biến hóa phong phú trong các tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà.
Với những nỗ lực cách tân nghệ thuật như trên, quan niệm mới về tiểu thuyết
đã từng bước được hiện thực hóa. Khơng dễ một lúc có thể thắng được sức ỳ truyền
thống, nhưng các nhà văn theo xu hướng cách tân vẫn quyết tâm đổi mới.
1.2. Sự phong phú của gia tài văn học Nguyễn Quang Lập
1.2.1. Những truyện ngắn gây tiếng vang thời Đổi mới

Nguyễn Quang Lập (cịn có bút danh khác là Hồng Nhật, Hồng Đức, Quang
Quang) sinh ngày 30 tháng 4 năm 1956, quê ở thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ơng khơng chỉ là nhà văn, mà cịn là nhà viết kịch, nhà
biên kịch tài năng. Ơng vừa là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, vừa là hội viên Hội
nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội điện ảnh Việt Nam và Hội nhà báo Việt Nam.
Từ khi cịn là học sinh phổ thơng, Nguyễn Quang Lập đã bộc lộ khả năng văn
chương qua những bài thơ. Năm 1980, Nguyễn Quang Lập tốt nghiệp kĩ sư vô
tuyến điện đại học Bách khoa Hà Nội. Nhưng đó khơng phải là mục tiêu nghề
nghiệp mà ông muốn hướng đến. Đối với ơng, đó là con đường sẽ đưa ơng đến với
cuộc đời, đến với văn chương bằng những trải nghiệm thực tiễn. Nhà văn tâm sự:
“Tôi chọn thi vào Đại học Bách khoa Hà Nội vì nghĩ rằng phải đi vào cơng nơng
trường, xí nghiệp, nhà máy mới hiểu biết cuộc sống một cách sâu sắc để phục vụ
công việc viết văn” [35; 190]. Cho nên, ngay từ năm thứ hai Bách khoa, Nguyễn
Quang Lập đã tập tành viết truyện ngắn đầu tiên Tình hồng hơn, tác phẩm tuy
khơng nhận được sự ủng hộ của giới bạn văn nhưng tình yêu và mộng ước theo
đuổi nghiệp văn chương vẫn không thôi được ấp ủ, nung nấu trong tâm hồn nhạy
cảm của một con người ln thích được trải lịng mình với cuộc đời, ham muốn
được trở thành một người viết văn thực thụ.
Tốt nghiệp đại học Bách khoa, Nguyễn Quang Lập tham gia quân đội, làm trợ
21


lý kĩ thuật điều khiển tên lửa sư đoàn 375, qn chủng Phịng khơng. Và có lẽ,
chính sự trải nghiệm này đã góp phần gợi cảm hứng và sự hiểu biết cho nhà văn ở
nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh sau này.
Suốt thời gian từ khi còn là sinh viên cho đến khi vào quân ngũ, Nguyễn
Quang Lập sáng tác thơ là chính, người ta biết nhiều đến Nguyễn Quang Lập chủ
yếu về khả năng văn chương thơ phú. Tập thơ duy nhất của Nguyễn Quang Lập là
Kỉ niệm thời trai trẻ, in năm 1988. Tập thơ tuy đã có sự khẳng định về khả năng
văn chương của Nguyễn Quang Lập nhưng chưa làm nên dấu ấn cho nhà văn

trong văn học nước nhà nói chung, đồng thời cũng chưa tạo được tiếng vang nào
đáng kể cho giới văn chương cũng như độc giả lúc bấy giờ.
Đến năm 1984, giải ngũ về công tác tại sở Văn hóa – Thơng tin Bình Trị
Thiên, Nguyễn Quang Lập vẫn không thôi theo đuổi mộng văn chương, nhưng
nghiệp văn của ông vẫn chưa thể gọi là bắt đầu. Chỉ đến khi truyện ngắn Người
lính hay nói trạng được đăng trên Tạp chí Sơng Hương năm 1984 và nhận được
lời khen từ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi ấy được coi là “nhà thơ khét tiếng
khắp ba miền”. Đó như một sự động viên, khích lệ đối với Nguyễn Quang Lập,
ơng bỏ hẳn thơ, dành hết tâm huyết cho truyện ngắn và bắt đầu nổi danh như cồn
với hàng loạt truyện ngắn, để lại dấu ấn trong làng văn Việt Nam từ đó. Nói về
“nẻo vào văn học” của mình, nhà văn đã bộc bạch một cách chân thành: “Đến nay,
tôi cũng khơng biết truyện ngắn là gì, nhưng vẫn tiếp tục viết. Có lẽ truyện ngắn
cũng giống như tình u. Chẳng ai biết tình yêu là gì, nhưng cứ yêu rồi khắc biết”
[35; 193].
Với năm truyện ngắn đầu tay, trong đó, ba truyện Cây sến lửa, Tiếng lục lạc
và Đị ơi đều được trao giải thưởng, Nguyễn Quang Lập đã có thể khẳng định
được vị trí của mình trên văn đàn. Các tập truyện ngắn Một giờ trước lúc rạng
sáng (1986), Tiếng gọi phía mặt trời lặn. Sau này, các truyện ngắn đã được chọn

22


in lại trong Mười tám truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (1997), Tuyển tập truyện
ngắn Nguyễn Quang Lập (2010).
Từ những tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập, người ta thấy tốt
lên một cái nhìn khá mới mẻ và sâu sắc về chiến tranh. Khi ấy, nhà văn chỉ đang ở
độ tuổi 30, và ngoài 30. Về thế hệ nhà văn trẻ trưởng thành từ sau chiến tranh. nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói: “họ bắt đầu cầm bút ở thời điểm bản lề của
lịch sử đất nước vừa chuyển từ chiến tranh sang hịa bình, và trên tất cả những gì
đổ nát cịn để lại, họ tìm cách kiểm nhận lại quá khứ, không phải dưới con mắt

của người lính đánh giặc, mà bằng cái nhìn thao thức của những người trẻ khao
khát hịa bình, nhân phẩm và hạnh phúc chân thật” [65; 6]. Và với Nguyễn Quang
Lập, không chỉ có hiện thực đất nước là nguồn cảm hứng cho những sáng tác của
ông mà những trải nghiệm từ chính cuộc đời mình cũng đã góp phần làm chân
thực cho trang viết. Khi trao đổi với tác giả luận văn, nhà văn khẳng định “Chú
viết những gì chú đã sống. Văn chú phản ánh một phần ký ức của chú cộng với
những suy ngẫm và chiêm nghiệm của chú. Và có lẽ ai cũng vậy. Chú khơng viết
được những gì mà chú chưa từng trải. Bộ đội, chiến tranh, núi rừng và cát là
những gì chú đã trải qua”.
Truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập thường khơng có độ dày về sự kiện,
nhân vật, mà chỉ là một lát cắt, có khi rất nhỏ về cuộc đời. Nhà văn quan tâm đến
việc thể hiện bi kịch của nhân vật, những trái ngang của cuộc đời hơn là kể chi tiết
diễn biến các sự kiện. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Quang Lập có biệt tài
trong việc tạo nên độ sâu của suy nghĩ, sự lắng lòng của cảm xúc. Các tác phẩm
truyện ngắn của ơng thường khơng có những kịch tính, những cao trào, ít độ căng
do có cốt truyện giản dị, được xây dựng từ những chất liệu đời thường nhưng ln
được điểm vào đó những mạch cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật làm
cho câu chuyện trở nên sâu lắng, để lại một cái nhìn đau đáu khơn ngi. Các yếu
tố lãng mạn, trữ tình, những đoạn văn giàu chất thơ được gia cơng đan xen với nội
23


×