Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận tóm lược lý thuyết về mối quan hệ nợ công và tăng trưởng kinh tế (liên hệ ở việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.37 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ..................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 2
1. TĨM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CƠNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ................... 3
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ
CÔNG .................................................................................................................. 2
1.1.1. Khái quát về nợ công ........................................................................... 2
1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ công ............................................................... 3
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ ............................................................................................ 4
1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế ............................................................. 4
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ................................... 4
2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ ............................................................................................ 6
2.1. NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ ............................................................................................ 5
2.2. NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH Tế .............................................................................................................. 7
2.2.1. Quy mô nợ công .................................................................................. 7
2.2.2. Cơ cấu nợ cơng.................................................................................. 10
Nợ Chính phủ .............................................................................................. 11
Nợ Chính phủ bảo lãnh ................................................................................ 13
Nợ Chính quyền địa phương ........................................................................ 13
2.3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .............................................................................. 13
2.3.1. Về tính trung lập của nợ chính phủ .................................................... 13
2.3.2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế ..... 14
2.3.3. Một khoản nợ chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng
tiềm năng chậm lại .......................................................................................... 16
2.3.4. Sự gia tăng nhanh nợ công dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và
kinh tế tồn cầu ............................................................................................... 17


2.3.5. Quản lý nợ công ................................................................................ 18
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN CHUNG.............................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 21


ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đi vay nợ để thúc đẩy phát triển đối với một quốc gia cũng giống như
một doanh nghiệp, đó chính là cách để huy động vốn cho sự phát triển quen
thuộc trên thế giới. Trong kinh doanh, khơng ở đâu có thể phát triển mà khơng
đi vay mượn. Thực tế cho thấy những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ,
Nhật Bản, Trung Quốc, cũng chính là những con nợ kếch xù. Nợ cơng, dùng để
phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ nhằm các mục đích
khác nhau, chiếm một phần trong những khoản vay đó. Tuy nhiên, thực tế các
nước cho thấy, việc vay nợ và chi tiêu lãng phí, sử dụng kém hiệu quả đồng nợ
của Chính phủ đã khiến cho nhiều nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ cơng
mà các nước Châu Âu, điển hình là Hy Lạp là ví dụ. Đây cũng là vấn đề được
các nước đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam.
Nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu về ngưỡng nợ mà tại đó tăng trưởng
kinh tế đạt tốc độ tối đa và khi vượt qua ngưỡng này thì tăng trưởng kinh tế
giảm sút rồi từ đó đưa ra những kiến nghị cho quốc gia đó về vấn đề quản lý nợ
cơng. Tuy nhiên, mỗi nước khác nhau có ngưỡng nợ cơng khác nhau.
Từ những vấn đề nêu trên, nhóm chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa nợ công
và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của nhóm.

1


PHẦN NỘI DUNG
1. TĨM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CƠNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUN NHÂN GÂY RA NỢ
CƠNG
1.1.1. Khái qt về nợ cơng
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều
chuyển biến khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ cuối
năm 2008, đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang một số
nước châu Âu, nợ công và quản lý nợ cơng trở thành vấn đề nóng được các nhà
lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong quá khứ, khủng
hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập niên 80 của Thế kỷ XX.
Năm 1982, Mê-hi-cô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF). Đến tháng 10-1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới
240 tỉ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ (1). Tuy nhiên, đến
nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ cơng vẫn cịn nhiều quan điểm
chưa thống nhất.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF, nợ công, theo nghĩa rộng, là
nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung
ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức
độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước (NSNN) quyết định hay
trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải
trả nợ thay). Cịn theo nghĩa hẹp, nợ cơng bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ
trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được
chính phủ bảo lãnh thanh tốn.
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ cơng bao gồm:
nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo
đó, nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài

chính, tín dụng vay trong nước, nước ngồi được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính
quyền địa phương là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của
chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, nhà nước phải đi vay (trong
hoặc ngồi nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải
hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì
vậy, suy cho cùng, nợ cơng chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay
2


ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần
dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi
ngân sách. Hay nói cách khác, việc nhà nước đi vay nợ chẳng qua là một hình
thức thu thuế trước. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau
(thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).
1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ công
Việc vay nợ của chính phủ nếu xét từ góc độ vay để đầu tư phát triển thì
nếu đầu tư có hiệu quả thì sẽ tạo được khoản thu thuế trong tương lai, tạo điều
kiện cho việc trả hết nợ. Nhưng nếu việc tiếp cận với nguồn vốn đầu tư nước
ngoài quá dễ dãi mà việc sử dụng nguồn vốn đầu tư khơng hiệu quả sẽ dẫn đến
chính phủ vay nợ để đầu tư quá nhiều lĩnh vực cùng một lúc nhưng chậm và khó
thu hồi vốn để trả nợ vay. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ lại phải tiếp tục
vay nợ mới để trả nợ cũ. Tình trạng này dẫn đến nợ công kéo dài. Và nếu như
tốc độ tăng trưởng kinh tế tụt giảm, chính phủ sẽ khơng thể tăng thu thuế để bù
đắp. Đều này sẽ dẫn đến gia tăng nợ cơng.
Một ví dụ điển hình cho nguyên nhân gây ra nợ công từ việc đầu tư cơng
khơng hiệu quả nói trên là tình trạng ở Việt Nam trong thời gian qua. Ở nước ta
hiện có 194 khu cơng nghiệp với tổng diện tích gần 46.600 ha, cùng với 1.643
cụm công nghiệp với gần 73.000 ha do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy

hoạch đến năm 2020. Chính phủ cũng đã phê duyệt 15 dự án khu kinh tế ven
biển với tổng diện tích 662 nghìn ha (2% diện tích tự nhiên của Việt Nam), ước
tính cần 2.000 tỷ đơla (bằng tồn bộ đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu
tư. Năm 2011, cả nước thực hiện xiết chặt đầu tư công theo tinh thần Nghị quyết
11/CP, nhưng vẫn có đến 333 dự án mới sai đối tượng, không thuộc danh mục
sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ mà vẫn được khởi cơng ... Nhìn tổng qt, tốc
độ tăng đầu tư cơng trong mười năm qua cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu
vực DNNN (doanh nghiệp nhà nước) được hưởng nhiều nguồn lợi nhất và
chiếm tỷ trọng đầu tư xã hội cao nhất lại có hiệu quả đầu tư thấp nhất.
Đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam
giảm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng, lãi suất thị
trường tăng cao và nhất là làm nợ công tăng nhanh.
Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến là việc vay nợ để chi thường xuyên dẫn
đến thâm hụt ngân sách mà không được bù đắp. Nguyên nhân này xuất phát từ
nhiều vấn đề khác nhau như: tình trạng tham nhũng làm tăng chi tiêu chính phủ,
nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức, vấn đề trốn thuế và hoạt động
kinh tế ngầm làm giảm nguồn thu ngân sách, việc tiết kiệm trong nước thấp dẫn
tới phải vay nợ nước ngồi cho chi tiêu cơng.
Đối với cuộc khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu trong thời gian qua, có
nhiều ngun nhân được các chuyên gia chỉ rõ. Với từng quốc gia, đó là khả
năng quản trị cơng yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc mất kiểm soát các hoạt
động cho vay của hệ thống ngân hàng... Với cả khu vực, đó là thói quen "chi
nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to. Để đối
phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu dễ dàng vay mượn
3


q mức, khơng tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế đẩy tình trạng
thâm hụt ngân sách và mức nợ cơng tăng chóng mặt, vượt khả năng kiểm soát.
1.2.


KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ

1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Có nhiều quan điểm về tăng trưởng kinh tế (TTKT), nhưng về cơ bản đều
thống nhất khi cho rằng, TTKT được hiểu là sự tăng lên về số lượng, chất lượng,
tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Có thể khẳng định rằng: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về sản lượng
hàng hóa, sự mở rộng về quy mơ sản xuất, sự tăng lên của thu nhập quốc dân
(GDP) và sự tăng lên của thu nhập quốc dân đầu người nhưng không làm tổn hại
đến tương lai.
Để phản ánh mức độ TTKT, các nhà kinh tế thường dùng nhóm chỉ số
dưới đây: Tổng giá trị sản xuất (GO); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Tổng thu
nhập quốc gia (GNI); Tổng sản phẩm quốc gia (GNP); Tổng sản phẩm quốc dân
ròng (NNP); Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI); Thu nhập quốc gia trên đầu
người.
GNP, GNI, GDP, NNP, NDI, GO và thu nhập quốc dân trên đầu người là
các thước đo trạng thái tăng trưởng kinh tế. Mỗi chỉ tiêu đều có ý nghĩa nhất
định và được sử dụng tùy theo mục đích nghiên cứu. Nó là những số đo mang
tính chất tương đối các trạng thái và tốc độ biến đổi của TTKT. Trong các chỉ
tiêu nói trên thì tổng sản phẩm quốc nội GDP là phương thức tốt nhất để đo
lường hoạt động kinh tế của một quốc gia.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Từ lý thuyết và thực nghiệm của các trường phái kinh tế khác nhau về
TTKT, có thể thấy ở các nền kinh tế khác nhau, các yếu tố chính quyết định đến
TTKT đều bao gồm: vốn, lao động, khoa học và công nghệ, tài nguyên,... Dựa
vào tính chất và nội dung, các nhân tố này có thể được phân chia thành các
nhóm khác nhau.
Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung: Những nhân tố tổng cung

ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế gồm: Vốn (K); Lao động (L); Khoa học và
công nghệ (T); Tài nguyên thiên nhiên (R).
Các nhân tố tác động đến tổng cầu: Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4
nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu, bao gồm: Chi cho tiêu dùng cá nhân (C); Chi
tiêu của Chính phủ (G); Chi cho đầu tư (I); Chi qua hoạt động xuất nhập khẩu
(NX = X – M).

4


2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
2.1. NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng rõ nét nhất
khi nghiên cứu về cuộc khủng hoảng nợ cơng ở các nước phát triển, đển hình là
Liên minh châu Âu và Mỹ.
Khủng hoảng nợ công gia tăng ở Liên minh châu Âu (EU) cùng sự sụt
giảm nhanh chóng của đồng USD kéo nền kinh tế thế giới đi xuống. Chính vì lẽ
đó, các Bộ trưởng Tài chính tồn cầu trong cuộc họp thuộc khuôn khổ Hội nghị
thường niên IMF và WB sáng 13/10/2012 tại thủ đô Tokyo (Nhật Bản) đã hối
thúc các quốc gia thành viên sớm hoàn tất chính sách quản lý tài chính mới,
giảm triệt để nợ công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước và thế giới.
Trong một thông cáo được đưa ra ngày 13/10/2012, Ủy ban tài chính và
tiền tệ quốc tế (IMFC) thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã kêu gọi các nước
phải nhanh chóng hành động và hành động một cách có hiệu quả nhằm bảo tồn
sự phát triển của nền kinh tế hiện tại, xây dựng lại lòng tin và cuối cùng là thúc
đẩy kinh tế phát triển hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tuyên bố trước đó
của Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde rằng, nợ công của các nước phát
triển đã lên đến mức 110% GDP năm 2012 và lên đến 113% GDP trong năm

2013.
Hai năm qua, sự tiến triển chậm chạp trong việc giải quyết vấn đề nợ công
ở châu Âu đã gây tổn thất 2.800 tỷ euro tài sản. Và nếu các nhà hoạch định
chính sách châu Âu khơng thực hiện cam kết về thiết lập một cơ quan giám sát
ngân hàng và các nước ngoại vi khơng triển khai các chương trình điều chỉnh,
con số thậm chí có thể lớn hơn, với 4.500 tỷ euro tài sản bị mất và kèm theo là
những ảnh hưởng đối với thị trường việc làm và đầu tư. Ơng Lael Brainard –
Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ đã nói trong một bài trả lời phỏng vấn hôm
12/10/2011 rằng cuộc khủng hoảng nợ của khu vực đồng tiền chung châu Âu “là
hiện thân cho những sự rủi ro nghiêm trọng đối với sự phục hồi của toàn cầu
hiện nay”.
Theo nhận định của các nhà phân tích cuộc khủng hoảng nợ công ở các
nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục
là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của eurozone. Việc cứu trợ
Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ. Kế hoạch cứu
trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… sẽ tác động
xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro.

5


Vì thế, Châu Âu đã rơi vào cuộc suy thối kinh tế vào năm 2011 và tình
trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Do đó, tăng trưởng kinh tế của khu vực
này chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế
phát triển khác.
Điều đáng lo ngại, như Tổng Giám đốc IMF từng cảnh báo, là những vấn
đề của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) có thể lan tới các thị
trường mới nổi, nơi tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Trong khi đó, các nước ở
Trung và Đơng Âu trong tình trạng dễ bị tổn thương nhất trước các cú sốc tài
chính, do gắn nhiều với Eurozone và các món nợ nước ngồi.

Vào thời điểm đó, kinh tế Mỹ vẫn trầy trật trên con đường phục hồi, với
mức tăng trưởng chỉ đạt 1,3% trong quý 2/2012. Dù tại Hội nghị Bộ trưởng Tài
chính G7 ngày 11/10/2012, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy Geithner đã cam
kết rằng chính phủ nước này sẽ dốc sức giúp Quốc hội đạt được một thỏa thuận
nhằm tránh để khả năng xấu nhất xảy ra. Theo báo cáo sơ bộ của Phòng Ngân
sách Quốc hội Mỹ (CBO) ngày 5/10/2012 cho biết, thâm hụt ngân sách liên
bang Mỹ trong tài khóa 2012 đã giảm trong năm thứ tư liên tiếp, mặc dù vẫn ở
cao hơn mức 1.000 tỷ USD.
Ngày 12/10/2012, Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde một lần nữa
nhắc lại lời kêu gọi Mỹ hợp tác để thực hiện ngay gói cải cách quản lý quỹ này.
Bà Christine Lagarde cho rằng kế hoạch cải cách 2010 cho thấy “sự thay đổi
quản lý lớn nhất” trong lịch sử IMF, với 6% quyền bỏ phiếu được chuyển sang
các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. Đây là điều hoàn toàn phù
hợp bởi trong thời gian vừa qua, các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát
6


triển đã thể hiện được sức mạnh và sự ưu việt của mình trong cách đối phó với
khủng hoảng nợ cơng và suy thối kinh tế thế giới.
2.2. NỢ CƠNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH Tế
Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và đạt được những bước
phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp
3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD nam 2010. Trong giai đoạn này,
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mơ nền kinh tế của
Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu.
Do đó, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ cơng nói chung là một nhu
cầu tất yếu vì Việt Nam cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ
phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để

phát triển nền kinh tế.
2.2.1. Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm
2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh
số nợ cơng xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên
55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào
nhóm nước có mức nợ cơng trên trung bình. Như vậy, trong vịng 10 năm từ
2001 đến năm 2010, quy mơ nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng
trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1).

Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, tỷ lệ nợ công ở Việt
Nam đã ở mức trên 50% GDP kể từ năm 2010 (bảng 1), mặc dù đã giảm trong
7


giai đoạn 2011-2012 ở mức 50,8%. Tuy nhiên, nó đã bắt đầu tăng từ 54,5% năm
2013 lên 58,0% năm 2014 và 62,2% năm 2015; hiện chiếm 65% và có dấu hiệu
tiếp tục vượt quá 65% ngưỡng GDP theo quy định của Quốc hội Việt Nam.
Cần lưu ý rằng, vì cách tính nợ cơng của Việt Nam khơng được đồng bộ
hóa với các tiêu chuẩn thế giới, nên có sự khác biệt đáng kể giữa các số liệu do
Chính phủ cơng bố và cách tính của các tổ chức độc lập. Theo báo cáo của
Chính phủ, ngun nhân của nợ cơng tăng trong những năm gần đây là do thu
ngân sách khó khăn trong khi nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng; để đảm bảo cân
đối ngân sách nhà nước, thì phải duy trì thâm hụt ngân sách ở mức cao, cụ thể:
2011: 4,4% GDP; 2012: 5,4% GDP; 2013: 6,6% GDP; 2014: 5,3% GDP; 2015:
5% GDP. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến 2015 nợ công đã tăng khoảng 7% GDP
do yêu cầu tăng vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
Bảng 1: Các chỉ tiêu về nợ cơng và nợ nước ngồi của Việt Nam
2010


2011

2012

2013

2014

Tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) (%)

56,3

54,9

50,8

54,5

58,0

Tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP của
quốc gia (%)

42,2

41,5

37,4


37,3

38,3

3,4

3,5

3,5

4,3

4,1

Số dư nợ của chính phủ so với GDP
(%)

44,6

43,2

39,4

42,6

46,4

Số dư của chính phủ đối với các
khoản thu của ngân sách nhà nước
(%)


157,9

162,0

172,0

184,4

211,5

Nghĩa vụ nợ của chính phủ đối với
các khoản thu của ngân sách nhà
nước (%)

17,6

15,6

14,6

12,6

13,8

Nợ dự phòng cho các khoản thu
(%)

5,5


6,7

9,8

9,7

8,5

Giới hạn cho vay ngoại thương và
bảo lãnh cho các khoản vay nước
ngồi của Chính phủ (triệu USD)

2.000

3.500

3.500

1.800

2.800

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc
gia trong trung và dài hạn trên tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ (%)

8



Nguồn: Bộ tài chính Việt Nam

Theo dự báo của IMF, Việt Nam là quốc gia duy nhất có nợ cơng/GDP
tiếp tục tăng gần 68% vào năm 2020 và cao hơn nhiều so với các quốc gia khác
trong khu vực ASEAN. Đáng chú ý, tỷ lệ này có xu hướng giảm hoặc khá ổn
định ở các nước khác từ năm 2006, trong khi ở Việt Nam nó đã tăng mạnh, đặc
biệt là trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay. Mặc dù tỷ lệ nợ công của Việt Nam
vẫn dưới ngưỡng 90% theo tính tốn của Reinhart C.M. et al (2012), ngưỡng
này được tính cho các quốc gia có thị trường tài chính phát triển cao; Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam, tỷ lệ tối ưu có thể ở mức thấp hơn
nhiều.
Bảng 2. Các chỉ tiêu về nợ cơng và nợ nước ngồi của q́c gia giai đoạn
2014 - 2018
2014

Chỉ tiêu
Nợ cơng so với GDP (%)
Nợ nước ngồi của quốc gia so với
GDP(%)
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung, dài
hạn của quốc gia so với tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%)
Dư nợ Chính phủ so với GDP (%)
Dư nợ Chính phủ so với thu ngân
sách (%)
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu
NSNN(%)
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân
sách (%)
Hạn mức vay thương mại nước ngoài và

bảo lãnhvay nước ngoài của Chính phủ
(triệu USD)

2015

2016

2017

2018

58

61

63,7

61,4

61,0*

38,3

42

44,8

48,9

49,7*


4,1

4,0

3,9

6,1

46,4

49,2

52,7

51,7

211,5

206,8

215,0

201,0

13,8

14,9

20,5


18,3

8,5

11,8

8,1

7,5

2.800

2.500

1.500

700

52,1

Nguồn: Bản tin Nợ cơng - Bộ Tài chính

Trong thời gian qua, Việt Nam tiếp tục tái cơ cấu nợ công theo hướng bền
vững, hiệu quả theo hướng tích cực về cơ cấu, kỳ hạn, lãi suất, đảm bảo khả
năng trả nợ. Tốc độ tăng trưởng nợ công so với GDP là 12,2%/năm cho giai
đoạn từ 2014 - 2015. Đây là một vấn đề đáng lo ngại vì Việt Nam nằm trong
những quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng trên 10%/năm) cho
dù có thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Đến cuối năm 2015, tổng nợ công
của Việt Nam là 125 tỷ USD, tương đương 61% GDP, bình quân mỗi người dân

gánh số nợ công là 1.384 USD, tương đương 30 triệu, ngang với Trung Quốc,
9


Philippines và Malaysia. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016 - 2018, tốc độ tăng của
nợ công của Việt Nam đã giảm xuống bình qn cịn 8,6%/năm, riêng năm 2018
chỉ cịn ở mức 6%.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nếu như trong giai đoạn 2014 - 2015, tốc
độ tăng của nợ cơng của Việt Nam ở mức bình qn là 18,1%/năm thì giai đoạn
2016 - 2018 đã kéo xuống bình quân còn 8,6%/năm, riêng năm 2018 chỉ còn ở
mức 6%. Trong khi đó, về trần nợ cơng, tỷ lệ nợ công giảm từ mức cuối năm
2016 là 63,7% GDP xuống còn 61,4% GDP cuối năm 2017. Đến cuối 2018, dư
nợ công của năm 2018 ở mức dưới 61% GDP.
2.2.2. Cơ cấu nợ cơng
Theo Luật quản lý nợ cơng thì nợ cơng bao gồm nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong cơ cấu
nợ cơng thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được Chính
phủ bảo lãnh (Hình 3). Quy mơ nợ của chính quyền địa phương nhìn chung
chiếm tỷ trọng cịn khá thấp (1% GDP).

Hình 3. Cơ cấu dư nợ công năm 2017 (%) (Nguồn: Bộ Tài chính)
Như vậy, so với nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ nợ cơng và
nợ Chính phủ của Việt Nam cũng thuộc nhóm tương đối cao (Hình 4). Các hệ số
an tồn về nợ cơng của Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận
ở mức cao, đó cịn chưa tính đến yếu tố hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn
vay cũng đang là một vấn đề đặt ra hiện nay. Ngoài ra, khi Việt Nam khơng cịn
là nước thu nhập thấp thì điều kiện vay nợ nước ngồi sẽ khó khăn hơn với chi
phí cao hơn. Quy mơ của các khoản vay ưu đãi giảm dần.

10



Hình 4. Mức nợ cơng/GDP của Việt Nam so với một số nước trong khu vực
(% GDP danh nghĩa)
Dư nợ công thời gian qua tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản vay
trực tiếp trong nước và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội
chi NSNN và gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh cho một số tập
đồn, tổng cơng ty nhà nước.
Nợ Chính phủ
Về nợ Chính phủ, trong cơ cấu nợ cơng, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn
và có xu hướng mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Năm 2018, dự nợ Chính
phủ bằng khoảng 52,1% GDP, tăng so với con số 46,4% của năm 2010. Các
khoản nợ Chính phủ chủ yếu là vay ODA và vay ưu đãi, các khoản phát
hành trái phiếu Chính phủ trong nước (theo Bảng 1 và 2).
Hiện nay, khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vượt ngưỡng
nước có thu nhập thấp thì các điều kiện vay ODA sẽ ngày càng kém ưu đãi hơn.
Theo đó, chi phí trả lãi vay hàng năm dự báo sẽ tăng lên. Đây là một thách thức,
đòi hỏi việc quản lý sử dụng vốn vay phải hiệu quả hơn.
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm
2010) nhưng cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh
vực. Cân đối NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới hạn cho
phép; nhu cầu chi đầu tư phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
Chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Cơ cấu chi
thay đổi theo hướng chi thường xuyên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Tổng chi
NSNN - bao gồm cả chi từ nguồn trái phiếu - bình quân chiếm 29,2% GDP
trong giai đoạn 2011-2015, so với 28,9% trong giai đoạn trước và ở mức cao so
11


với khu vực và các quốc gia có mức phát triển tương đương. Tỷ lệ so sánh giữa

chi thường xuyên và đầu tư là khoảng 70:30 trong thời kỳ 2011-2015 so với
63:37 của thời kỳ 2006-2010. Chi thường xuyên tăng lên và cao hơn mức tăng
thu chủ yếu là do tăng chi để thực hiện các chính sách mới về an sinh xã hội, chi
lương và phụ cấp và chi trả lãi các khoản vay. Chi đầu tư từ NSNN, mặc dù
giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu của Chính phủ, nhưng vẫn duy trì ở mức cao so
với khu vực và thế giới. Nếu so với tổng đầu tư toàn xã hội, chi đầu tư từ NSNN
chiếm 29,1% trong giai đoạn 2011-2015, tăng nhẹ so với mức 28,4% của thời kỳ
2006-2010, cho thấy đầu tư của Nhà nước vào hạ tầng cơng cộng vẫn tiếp tục
được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện
đang còn ở mức thấp, chưa phát triển.
Cân đối cán cân thương mại ln trong tình trạng nhập siêu và ít có dấu
hiệu cải thiện. Trong mười năm 2001-2010, tổng giá trị hàng hóa nhập siêu gần
81,7 tỷ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Trị giá nhập siêu
hàng hóa năm 2010 ước tính gần 12,4 tỷ USD, gấp trên 10,7 lần mức nhập siêu
hàng hóa năm 2000. Tính ra, trong những năm 2001-2010, tốc độ tăng nhập siêu
bình quân mỗi năm gần 26,8%. Do bội chi ngân sách kéo dài, nợ công tiếp tục
tăng lên trong năm 2016, tiến sát đến hạn mức quy định là 65% GDP. Bội chi
NSNN thực hiện năm 2017 ước khoảng 174,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,48% GDP,
thấp hơn dự toán là 3,5% GDP. Bội chi ngân sách bình quân trong giai đoạn
2011 - 2016 là 5,8% so với 2,2% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Dữ liệu cho thấy
ngân sách vẫn gặp áp lực năm 2016 với mức bội chi ước bằng khoảng 6,5%
GDP.
Bất cân đối ngân sách tăng lên chủ yếu do suy giảm cơ cấu về tỷ lệ thu
ngân sách trên GDP, giảm từ 27% GDP năm 2011 xuống khoảng 23% GDP năm
2016. Trong khi đó, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP được duy trì tương đối ổn
định, bình quân bằng khoảng 29% GDP trong 05 năm qua. Theo các báo cáo của
Chính phủ, tổng nợ cơng của Việt Nam (gồm nợ Chính phủ, nợ được khu vực
cơng bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã lên đến 63,7% GDP trong
năm 2016 - cao hơn khoảng 15 điểm phần trăm so với 2010. Cụ thể, thu chi
ngân sách được thể hiện trong hình 5.


12


Hình 5. Thu chi ngân sách Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018
Nợ Chính phủ bảo lãnh
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh
cho một số tập đồn, tổng cơng ty Nhà nước trong việc thực hiện một số dự án
đầu tư (đầu tư cơng), trong các lĩnh vực như dầu khí, điện, xi măng, hàng không,
viễn thông.... Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư
của các DNNN thời gian qua. Trong cơ cấu nợ được Chính phủ bảo lãnh có xu
hướng tăng lên và hiện chiếm khoảng 5% tổng dư nợ cơng năm 2017 (theo hình
3).
Nợ Chính quyền địa phương
Đối với nợ của Chính quyền địa phương: nợ của chính quyền địa
phương chủ yếu là vay nợ cho đầu tư xây dựng cơ bản. Mức dư nợ của chính
quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật NSNN không quá
30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa phương. Nhìn
chung, so với nhiều nước thì việc vay nợ của chính quyền địa phương ở Việt
Nam là khá thấp và hiện chiếm khoảng 1% tổng dư nợ công năm 2017 (theo
hình 3).
2.3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CƠNG ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.3.1. Về tính trung lập của nợ chính phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế
hay không.
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp
bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia
tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng
dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc dân thấp

hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù
đắp bằng nợ chính phủ khơng kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì
khơng làm tăng thu nhập thường xun của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch
chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính
phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm
trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ
(mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền
đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của
người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu
dùng.

13


2.3.2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng
kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài
hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng
trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngồi lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngồi và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái
phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư
đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế
đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là
một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ cơng dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ

trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vơ ích về phúc lợi xã hội.
Ngồi ra, cịn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng cơng
cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mơ sẽ khơng có hiệu suất cao vì có hiện tượng
crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
Chính phủ muốn tăng chi tiêu cơng cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy
động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế
cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân,
khiến họ giảm đầu tư. Nó cịn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người
tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó cịn làm cho lãi suất trong nước tăng
tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào
trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu rịng. Tóm lại,
phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng khơng lớn vì có
những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài
sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất,
người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn.
Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát
hành cơng trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng
lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc
độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Như đã trình bày, nợ cơng ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm
hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng kéo
theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở
nên đắt đỏ.
14



Hiệu quả sử dụng các khoản vay là một vấn đề rất quan trọng vì từ đó mới
bảo đảm được dòng tiền trả nợ trong tương lai. Hiện nay, Việt Nam mới chú
trọng đến khía cạnh giải ngân cho các khoản vay, bán cho được trái phiếu, thu
tiền về đã được xem là thành cơng. Cịn theo nhiều đánh giá, các khoản đầu tư
của Nhà nước vẫn bị coi là dàn trải, chậm tiến độ, thất thốt, lãng phí lớn vốn
nhà nước nhưng hiệu quả đầu tư thu được thấp và những “căn bệnh” kinh niên
của các dự án đầu tư cơng khơng hề giảm mà vẫn có chiều hướng tăng nhanh.
Một trong những lý do trên là do công tác buông lỏng quản lý và giám sát đầu
tư. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các bộ, ngành, địa phương và các chủ đầu
tư chưa thực sự nghiêm túc, có hiện tượng bng lỏng trong thực hiện cơng tác
giám sát, đánh giá đầu tư. Số tiền thất thoát từ nợ công sẽ lan tỏa vào xã hội
dưới dạng đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua sắm, du lịch… Sự “năng
động” của thị trường do những đồng vốn vay chưa trả thất thoát này tạo ra đang
làm mờ đi sự phát triển thực sự từ vốn tự có, từ nội lực kinh tế. Mức tiêu dùng
mạnh mẽ tại các thành phố lớn ngày càng hấp dẫn và tạo ra động lực mạnh mẽ
thúc đẩy khơng chỉ Chính phủ, mà các tỉnh, các doanh nghiệp quốc doanh liên
tục vay nợ, tạo dựng các dự án, đề án dù chưa biết lỗ lãi ra sao. Có thể đó cũng
là một trong các nguyên nhân làm cho tốc độ nợ công tăng lên nhanh chóng
trong thời gian gần đây.
Từ năm 2003, Việt Nam đã hết thời gian ân hạn 10 năm, bắt đầu phải trả
cả gốc lẫn lãi. Lãi suất trung bình nợ nước ngồi của Chính phủ đã tăng từ
1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9% trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới
2,1%/năm. Bên cạnh đó, từ năm 2010, Việt Nam đã bước ra khỏi danh sách các
nước nghèo kém phát triển và trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp,
điều đó cũng có nghĩa là các khoản vay hiện nay của Chính phủ sẽ tương đương
với các khoản vay thương mại mà gần như khơng có thêm ưu đãi. Do đó, bên
cạnh việc trả nợ thì Việt Nam sẽ phải thận trọng và tính tốn kỹ càng cho các
khoản vay mới và ngay khi vay đã phải chuẩn bị trả nợ đúng hạn.
Nợ, thâm hụt ngân sách, lạm phát và dự trữ ngoại tệ ln có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Các tỷ lệ nợ nước ngoài của nền kinh tế trên GDP và tỷ lệ nợ

phải trả trên xuất khẩu thường được dùng để phân tích khả năng trả nợ của một
nền kinh tế. Khi phân tích nợ và khả năng chi trả của Chính phủ ảnh hưởng thế
nào tới chính sách vĩ mơ (tài khóa và tiền tệ) thì phải tính đến cả nợ nước ngồi
lẫn nợ trong nước.
Năm 2016, nợ cơng đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ
trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la
Mỹ. Như vậy, khả năng trả nợ ngày càng gặp nhiều thách thức. Nợ ở Việt Nam
hiện nay chưa tính đủ vì cịn thiếu nợ của khu vực kinh tế nhà nước mà Chính
phủ phải chịu trách nhiệm trả nợ (phần nợ này không được hiển thị hoặc không
thấy trong số liệu thống kê). Ngay trong số liệu dự tốn ngân sách thì phần trái
phiếu chính phủ vẫn được để ngồi cân đối ngân sách.
Việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia cũng gần như bị lọt lưới
vì sự chia cắt trong quản lý. Đó là sự thiếu minh bạch trong quản lý, thậm chí
15


che giấu những sai sót do sự yếu kém trong quản lý. Việc quản lý nợ công được
chia cho nhiều cơ quan nhà nước thực hiện, cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay
nợ cũng phân cho nhiều cơ quan, số liệu thực tế vì vậy khơng được cập nhật,
thiếu nhất quán dẫn tới tình trạng thiếu minh bạch.
2.3.3. Một khoản nợ chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản
lượng tiềm năng chậm lại
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài
hạn một khoản nợ chính phủ lớn và tỷ lệ của nó so với GDP cao, làm cho sự
tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
- Nếu một quốc gia có nợ nước ngồi lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngồi và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
- Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu giấy nợ chính phủ
(trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của

dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp
hạn chế đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế
là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ cơng dân của chính nước mình, tuy vậy nếu
nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vơ ích về phúc lợi xã hội.
Ngồi ra, cịn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công
cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mơ sẽ khơng có hiệu suất cao vì có hiện tượng
crowding out, đó là đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên.
- Chính phủ muốn tăng chi tiêu cơng cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy
động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế
cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân,
khiến họ giảm đầu tư. Nó cịn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người
tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó cịn làm cho lãi suất trong nước tăng
tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào
trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu rịng. Tóm lại,
phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng khơng lớn vì có
những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
- Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài
sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất,
người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn.
Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ nhờ phát
hành cơng trái và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng
lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc
độ tăng trưởng thực tế (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
16



Hôm nay chúng ta đang sống trong tâm bão lạm phát, bạn cảm thấy điều này
hơn ai hết.
2.3.4. Sự gia tăng nhanh nợ cơng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài
chính và kinh tế toàn cầu
Theo TS. Trần Thị Hải Lý (UEH), sự gia tăng nhanh chóng trong nợ cơng
ở những quốc gia phát triển là một bằng chứng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài
chính và kinh tế tồn cầu. Mức độ nợ cơng lớn có thể tác động bất lợi lên mức
tích lũy vốn, năng lực sản xuất và làm giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể
xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị
méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất lợi, thì vấn đề
bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia tăng rủi ro của các nỗ
lực điều hành chính sách tài khóa nhằm giảm các khoản nợ xuống mức bền vững
hơn. Theo TS. Lê Đạt Chí, Trưởng bộ mơn Đầu tư tài chính, UEH đưa ra bằng
chứng là cơng trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc
gia Mỹ được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: khi tỷ lệ nợ/GDP vượt
ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm giảm đi 4%
trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Đặc biệt, đối với các nền kinh tế mới
nổi như Việt Nam thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt quá ngưỡng này sẽ
làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%. Hiện tại, tỷ lệ nợ/GDP của
Việt Nam là 51,6%, nằm dưới ngưỡng cảnh báo trên, nhưng với xu hướng thâm
hụt tài khóa gia tăng, việc vay nợ của Chính phủ trong một vài năm tới có thể
khiến kinh tế giảm tăng trưởng. Đặc biệt, hậu quả của việc gia tăng trong tỷ lệ
nợ/GDP là làm gia tăng lạm phát. Thực tế, những gói kích thích nền kinh tế của
Việt Nam trong năm 2009 đã làm tăng thâm hụt ngân sách và nợ công tăng đột
ngột là một ngun nhân chính của tình hình lạm phát hiện nay.
Bằng chứng này càng cho thấy, khi quy mô các nền kinh tế nhỏ thì mức
độ phản ánh lạm phát sẽ thể hiện sớm, cịn quy mơ của nền kinh tế lớn thì mức
độ phản ánh của lạm phát có độ trễ về thời gian. Theo TS. Nguyễn Khắc Quốc
Bảo (UEH), trong ngắn hạn, nợ công tăng làm tăng tổng cầu của nền kinh tế,
kích thích tăng trưởng kinh tế hiện tại, nhưng sẽ dẫn đến sự suy giảm trong dài

hạn.
Các nhà kinh tế đã chứng minh, nợ công gia tăng sẽ làm tăng lãi suất dài
hạn của nền kinh tế và sự bất ổn trong chính sách tiền tệ. Sự gia tăng trong tỷ lệ
nợ/GDP vượt ngưỡng 82 - 90% sẽ làm cho tiết kiệm của khu vực tư nhân không
tồn tại. Tỷ lệ nợ/GDP vượt ngưỡng 45 - 68% sẽ làm cho đầu tư công bị cắt giảm
và nếu vượt trên mức 100% thì năng suất của nền kinh tế suy giảm trầm trọng.
Vấn đề nợ công của Việt Nam rõ ràng đang gây ra hàng loạt các mối lo
ngại từ quy mơ, đến tính an tồn và khả năng tài trợ nợ công.
Khả năng tăng trưởng kinh tế có thể sẽ bị giảm xuống nếu các biện pháp
can thiệp q nhanh và q mạnh, có thể làm vơ hiệu những chính sách kinh tế
vĩ mơ.
17


Rõ ràng, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân
sách vẫn thường diễn ra, đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi
suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp
lực tín dụng dài hạn.
Nếu Chính phủ phải in thêm tiền để mua trái phiếu sẽ có thể khiến lãi suất
các loại trái phiếu dài hạn tăng cao thay vì hạ thấp đi và tất nhiên, tiếp tục gây áp
lực lạm phát. Nếu Chính phủ đột ngột thắt chặt ngân sách thì sẽ là một sai lầm
bởi nền kinh tế vẫn ở trạng thái yếu mặc dù tốc độ tăng trưởng hiện nay không
phải là thấp. Việc vội vã thắt chặt ngân sách và tăng thuế đã đẩy nền kinh tế
Nhật Bản vào suy thoái trở lại là kinh nghiệm đáng để Việt Nam học tập trong
công tác điều hành, quản lý vĩ mơ.
Bởi vậy, thay vì tìm cách cắt giảm mạnh thâm hụt ngân sách, Chính phủ
cần cam kết và thực hiện hiệu quả việc kiểm soát chặt chẽ phần chi tiêu cơng.
Thêm vào đó, bên cạnh việc trả nợ thì Việt Nam cũng phải thận trọng và tính
tốn kỹ càng hơn cho các khoản vay mới và cần phải lường trước khả năng trả
được nợ đúng hạn ngay khi vay. Bởi vì, bất cứ một dự án nào sử dụng tiền vay

thì cũng có thời hạn trả. Do đó, bên cạnh việc triển khai dự án cho xong thì cịn
phải theo dõi dịng tiền thu về có đủ trả nợ như cam kết hay khơng, hoặc tiền
vay có được sử dụng đúng mục đích ban đầu, tiến độ trả nợ có đúng lộ trình và
hiệu quả sử dụng vốn ra sao.
Tuy nhiên, chính những vấn đề lo ngại của nợ cơng hơm nay lại có thể là
một cơ hội để đi tới những bước đột phá về việc quản lý và kiểm sốt nợ cơng
cũng như nợ nước ngồi của Việt Nam. Bởi vì, nợ cơng có thể được tính chính
xác và cơng bố cho nhân dân và những người sẽ phải trả nợ cần được biết điều
đó.
2.3.5. Quản lý nợ công
Để quản lý nợ công chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán nợ đến
hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh tốn nợ,
bảo đảm an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro, cần thực
hiện tốt một số nội dung như sau:
Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên
cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân
sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ
công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu
nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan
trọng, hiệu quả, vay nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), mức huy động
vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngồi
nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch chiến lược về
vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến;
xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng
tiền vay khơng được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu
sử dụng.
18


Hai là, bảo đảm tính bền vững về quy mơ và tốc độ tăng trưởng của nợ

cơng, có khả năng thanh tốn trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi
ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an tồn nợ cơng; đồng thời thường
xun đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ chính phủ trong mối
liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân
thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ...
Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay
được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các
hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn
trên thị trường vốn quốc tế, nhưng khơng đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ.
Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn
quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất
là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải
trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh tốn. Nguy cơ này sẽ càng cao
hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh khơng dựa trên những phân
tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do
đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu
tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh
vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngồi
được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ
trong nước; khuyến khích phát triển mơ hình hợp tác cơng - tư (PPP).
Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm sốt việc sử dụng vốn vay,
vốn được Chính phủ bảo lãnh. Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả
nợ và tính bền vững của nợ cơng. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng
không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án,
các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp...; trong mọi trường hợp,
ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong tồn bộ q trình vay
nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân
thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương
mại nước ngồi chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi

vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính
phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đồn kinh
tế, tổng cơng ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ
tầng.
Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ
cơng. Việc cơng khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý,
sử dụng các khoản nợ cơng và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ
công. Để thực hiện tốt ngun tắc quan trọng đó, nợ cơng cần phải được tính
tốn, xác định đầy đủ trong quyết tốn ngân sách nhà nước và phải được cơ
quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.

19


NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN CHUNG
Nợ công là một phần quan trọng và khơng thể thiếu trong tài chính
mỗi quốc gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang
phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình
độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu
cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ
cơng cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu khơng thì
khủng hoảng nợ cơng có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm
nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy việc đánh giá đúng tình trạng của nợ cơng và sự tác động của nó
lên nề kinh tế không chỉ dựa vào quy mô khoản nợ (nợ cơng/GDP) mà cịn xét
đến cơ cấu nợ, chất lượng, hiệu quả của các dự án đầu tư công được tài trợ băng
vốn vay, năng lực kinh tế, tài chính và khả năng trả nợ của quốc gia trong tương
lai.
Dù cho mức nợ cơng có thể vẫn ở trong ngưỡng an tồn, chính phủ các

quốc gia vẫn khơng nên chủ quan mà cần quan tâm đến bản chất của khoản nợ
tránh nguy cơ dẫn đến hiện tượng “thâm hụt kép” gây tác động tiêu cực đến nền
kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền
kinh tế mọi quốc gia. Bài toán về nợ cơng vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn
ln khó lường, chính vì vậy mỗi quốc gia cần đánh giá đúng quy mơ năng lực
của mình để có thể hấp thụ được một luồng vốn tín dụng ứng, để từ đó chủ động
nhận thức, kiểm sốt, quản lý, vay – sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong ngắn
hạn và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ
công một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổ định và
phát triển nền kinh tế./.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ugo Panizzab and Andrea F. Presbitero (2012), “Public Debt and
Economic Growth in Advanced Economies”
2. Nguyễn Thị Liên Hương, 2019. Nợ công Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018
và giải pháp cho năm 2019. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia 2019
3. Benedict Bingham (IMF, 2010), “Vietnam Fiscal Strategy and Public
Debt”.
4. Bộ Tài chính (2018), các bản tin nợ nước ngồi.
5. Dương Thị Bình Minh và Sử Đình Thành (2009), “Phương pháp tiếp
cận đánh giá hiệu quả quản lý nợ cơng”, Tạp chí Kinh tế phát triển số
tháng 9/2009.
6. Lê Thị Mận, Mai Bình Dương, 2017. “Chính sách tài khóa với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam”, Thị trường tài chính tiền tệ, Số 1+2/2017.
7. Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn
Trang web:

1. />2. />3. />kinh_t%E1%BA%BF
4. />5.
6. />h%20kinh%20t%20Vit%20Nam/Attachments/DispForm.aspx?ID=236
7. />8. />
21



×