BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----
BÀI TẬP LỚN/ BÀI TẬP DỰ ÁN HỌC PHẦN
TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
KIỂU MỚI VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
NHĨM: 13
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----
TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
KIỂU MỚI VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
Nhóm: 13
Giảng viên hướng dẫn:
Ths Hồng Ngọc Kiên
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Em/ chúng em xin cam đoan đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
kiểu mới và xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc xây dựng bộ máy Nhà nước hiện nay do nhóm 13 nghiên cứu và thực
hiện.
Em/ chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của nhóm 13 là trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập
của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gớc, xuất xứ rõ ràng. Các câu
nằm trong Hiến pháp, nội dụng luật pháp khi trích xuất được ghi nguồn gớc và giữ
ngun vẹn nhằm đảm bảo tính đúng đắng xác thực.
(Ký và ghi rõ họ tên)
LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn quý thầy cô ở Khoa Chính trị - Luật đã tạo điều kiện cho chúng em
làm bài tập lớn kết thúc môn học ở giai đoạn khó khăn về dịch bệnh. Cảm ơn thầy
Hồng Ngọc Kiên đã truyền đạt và chỉ dẫn tận tình trong q trình học tập để giúp
chúng em có nhiều kiến thức nhờ đó việc nắm bắt nội dung rất tốt tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện đề tài.
Với những kiến thức trong quá trình học đã học cùng sự hướng dẫn của thầy trong
quá trình làm bài tập lớn do trình độ kiến thức kinh nghiệm cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp ý kiến của
thầy cơ và các bạn để đề tài được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ sau 30/4/1975 giải phóng hồn tồn Việt Nam thớng nhất đất nước, bộ
máy Nhà nước ta luôn cố gắng xây dựng đưa đất nước tiến lên con đường chủ nghĩa
xã hội. Vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước luôn là vấn đề cấp bách cần thiết trong
mọi thời kì của đất nước, nhưng áp dụng như thế nào? Hướng đi làm sao là một câu
hỏi cực kì quan trọng bởi nó quyết định tương lai vận mệnh của một đất nước, vì
vậy để chọn ra chính cương sách lược là một yêu cầu khó được đặt ra. Với Việt
Nam ta một đất nước trải qua 1000 năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng
thời là đất nước đã bỏ qua chế độ xã hội tư bản để trực tiếp tiến lên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội lại còn gặp mn vàng khó khăn hơn. Dẫu vậy đất nước ta đã
sản sinh ra các vị anh hùng lãnh tụ kiệt xuất đã cùng Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh
đạo quần chúng nhân dân giành chiến thắng các nước đế q́c thực dân lớn mạnh
khơng ai khác là Hồ Chí Minh. Với Bác Hồ thì chắc hẳn ai cũng biết Bác là người
đã thấm nhuần trong từng giọt máu các triết lý nhân sinh, thấm nhuần các giá trị đạo
đức, thừa hưởng lòng yêu nước nồng nàn tha thiết của nhân dân ta đồng thời hiểu
được giá trị cốt lỏi của các luận cương Mac - Lenin từ đó xác định đó là hướng đi
tớt nhất cho cuộc Cách Mạng Vơ Sản của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn
là kim chỉ nam cho các quyết định lãnh đạo của Đảng để xây dựng một bộ máy đất
nước vững mạnh, tồn diện thì trước hết ln xây dựng ở giá trị con người. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội cịn rất xa xơi nên chúng ta phải có sự kiên trì cớ
gắng qua từng thời kì từng bước đi lên bởi vâỵ xây dựng nhà nước vững mạnh trong
sạch như là một nhiệm vụ tất yếu cấp bách được đặt ra.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu suy cho cùng cũng là tìm ra những quan điểm những lý
luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta chưa làm được từ đó tìm những điểm
thiếu sót trong bộ máy Nhà nước ta mà cải thiện ngày càng phát triển. Con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội còn xa vời vợi nên chúng ta cần phẩm tiến từng bước
6
chậm nhưng phải chắc cùng với đó bộ máy nhà nước luôn phải là đầu tàu dẫn lối tốt
nhất. Chỉ cần một thiếu sót trong quan điểm là có thể ảnh hưởng đến tồn cục vì vậy
cần phải chấn chỉnh những khuyết điểm đưa ra những phương án phù hợp nhằm
khắc phục cải thiện bộ máy lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước cần
gọn nhẹ, có hiệu lực, phù hợp với từng giai đoạn thời kì để phục vụ đắc lực cho mục
tiêu của nhà nước, tất cả vì sự phát triển của nhà nước, tất cả vì lợi ích đất nước của
tồn dân. Nhưng thực thực trạng hiện nay cho thấy có nhiều thiếu sót trong bộ máy
nhà nước như tham ơ, lãng phí, làm quyền mặc mấy năm gần đây Chính phủ đã ra
sức trấn áp các tình trạng này nhưng nó vẫn diễn ra từ cấp cơ sở đến trung ương.
Vậy nguyên nhân do đâu? Và khởi nguồn do sự chặt chưa chặt chẽ hay thế nào vẫn
khiến bộ máy nhà nước ta đau đầu đặt câu hỏi đặt ra. Vì vậy mục đích nghiên cứu
của đề tài này nhằm tìm ra những thiếu sót ấy, tìm những hướng đi giải qút góp
phần cải thiện ngày càng tốt hơn cho đất nước.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đới tượng nghiên cứu đề tài là tồn bộ những quan điểm của Hồ Chí Minh
trong di sản của Người, những hệ thống quan điểm lý luận thực tiễn phong phú
trong và ngồi nước trong q trình hoạt động. Đới tượng nghiên cứu cịn là những
luận điểm “hiện thực hóa” hệ thớng quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng bộ máy nhà nước từ cấp cơ sở đến trung ương. Những giá trị của triết học Mac
- Lenin về nhà nước vơ sản được Hồ Chí Minh tiếp thu đồng thời cộng hưởng cùng
các giá trị tinh hoa mà Người đã học hỏi trong quá trình bôn ba nhiều nơi trên thế
giới. Sự kết tinh văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng Cách Mạng Pháp, tư tưởng
Cách Mạng tự do Hoa Kì, tư tưởng văn hóa Phương Đơng lẫn Phương Tây và giá trị
phẩm chất Hồ Chí Minh đã cho ra cho ra những giá trị cốt lõi về một hướng đi duy
nhất mà Cách Mạng Việt Nam có thể hướng đến.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài xoay quanh vấn đề các giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh trong quá trình hình thành xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. Đồng thời tìm hiểu sự liên kết các chuổi sự kiện liên quan mật
thiết đến đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu nằm ở
7
nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhưng chủ ́u tập
trung ở mơ hình chính trị xã hội và lịch sử. Các giá trị của luận điểm thế giới quan
phương pháp luận Mac - Lenin cũng sẽ được áp dụng vào nhằm giải thích chặt chẽ
bộ máy nhà nước bởi nước ta là nhà nước vơ sản của dân do dân và vì dân.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nền tảng chỉ đạo nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan,
phương pháp luận Mac-Lenin
Thế giới quan, phương pháp luận Mac - Lenin là tinh hoa trí tuệ của lồi người, là
tuyệt tác kì quan của trí tuệ là bộ mơn khoa học cốt lỏi giá trị xã hội vật chất. Tất cả các
môn khoa học, nhất là các môn khoa học xã hội trước hết ḿn trở thành mơn khoa học
thì phải đứng trên lập trường tư tưởng vững vàng của mình, đó là thế giới quan phương
pháp luận Mac - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng khơng nằm ngồi vịng đó.
Trong q trình nghiên cứu mình cần vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Điều đó được đặt ra trong quá
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc và đảm bảo đầy đủ tính
khách quan, tồn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Trong quá trình nghiên cứu chúng ta
cần chọn lọc ra những yếu tố nhằm bổ sung đầy đủ tính tồn diện cho đề tài về xây
dựng bộ máy nhà nước. Khi nghiên cứu cần đảm bảo tính chân thật, đúng như nó vớn
có, khơng thêm, khơng bớt; nghiên cứu một cách tởng thể tồn diện về các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự, …Trong điều kiện cụ thể đã hình thành nên các tư
tưởng đó đồng thời khi nghiên cứu kết hợp với giá trị nhân phẩm con người đạo đức Hồ
Chí Minh để làm sáng tỏ quan điểm.
4.2. Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cần thớng nhất về ngun tắc thớng nhất tính
Đảng Cộng Sản và khoa học. Khi nghiên cứu cần đứng vững trên lập trường của giai
cấp cơng nhân để đảm bảo tính chân thực khi nghiên cứu đồng thời phải trên lập trường
chủ nghĩa duy vật nhằm tránh tình trạng thần thánh hóa phê phán huynh hướng làm hạ
thấp vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời khi nghiên cứu cần tìm hiểu xác thực
các loại thông tin nhằm tránh tiếp các loại thông tin sai sự thật, tin phản động làm lệch
8
hướng tư tưởng. Sẵn sàng phê phán, tố giác những thơng tin bơi nhọ Đảng Cộng Sản
làm chao đảo lịng dân của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch từ bên ngoài làm
ảnh hưởng đến bên trong,củng cố niềm tin lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
4.3. Kết hợp chặt chẽ phương pháp lơ gích với phương pháp lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu cần kết hợp phương pháp logic và phương pháp lịch sử.
Kết hợp hai phương pháp này có vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình nghiên cứu
về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Bất kì đề tài nào vậy khi đã liên quan đến tư tưởng Hồ
Chí Minh thì chúng ta cần nghiên cứu khách quan đầy đủ đồng thời liên hệ lịch sử một
cách logic nhằm làm sáng tỏ các luận điểm cần đặt ra. Phương pháp lịch sử giúp ta nhận
thức về mặt lịch sử quá trình tư duy của Hồ Chí Minh, một khi đã thấy rõ được lịch sử
đã hình thành, phát triển những quan điểm tư tưởng đã gắn liền với Người gắn liền qua
từng năm tháng gắn bó hình thành và lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Phương pháp
lơ gích giúp chúng ta tìm ra những nội dung, những mối liên hệ cơ bản, cớt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh từ đó liên hệ trực tiếp tới các sự kiện lịch sử được đưa ra.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài về tư tưởng Hồ Chí Minh mặc dù phương pháp
lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp khác nhau nhưng nó lại gắn bó chặt
chẽ đồng thời liên hệ mật thiết với nhau. Muốn hiểu được bản chất quy luật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thì phải hiểu lịch sử phát sinh và hình thành tư tưởng đó. Đề tài về
xây dựng bộ máy nhà nước yêu cầu khi nghiên cứu cần liên hệ chặt chẽ bộ máy nhà
nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa qua các thời kì và giai đoạn lịch sử hình thành để
thấy rõ tính logic khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam châm cho mọi
hoạt động. Vì vậy cần kết hợp hai phương pháp này để nghiên cứu các đề tài liên quan
đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
9
PHẦN NỘI DUNG
1 Tư tưởng Hồ Chi Minh về nhà nước kiểu mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và đưa Chủ nghĩa Mac - Lênin vào bối
cảnh lịch sử hiện tại của Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác Lênin, thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch
sử dân tộc chúng ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
tiêu biểu vĩ đại này của nhân dân ta là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, mở ra bước ngoặt to
lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bộ máy lãnh đạo đã về tay nhân dân, chấm dứt chế
độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; dân tộc ta kết thúc hơn 80 năm đô hộ của bọn chủ
nghĩa đế quốc. Nhân dân Việt Nam từ một kẻ nô lệ trở thành người dân một nước độc
lập, làm chủ đất nước của mình.
Sáng ngày 2-9-1945, trước sự chứng kiến của hàng triệu người dân tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng chính thức được thành lập. Khẳng định trước các nước, nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới được xây dựng trên
nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó sự kế thừa truyền thớng lịch sử của dân
tộc và tham khảo các kiểu nhà nước khác trên thế giới. Đấy là một nhà nước kiểu mới
khác biệt về chất so với các nhà nước phong kiến từng tồn tại trong lịch sử dân tộc và
kiểu nhà nước pháp quyền tư sản. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
thành lập dựa trên các nội dung sau:
1.1. Nhà nước do nhân dân là chủ, làm chủ
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự vận
dụng linh hoạt, sáng tạo từ đó bở sung, phát triển về lý luận và thực tiễn của học thuyết
nhà nước vô sản C.Mác và Ph.Ănghen qua việc tổng kết, bổ sung từ tác phẩm Công xã
Pari 1871; về học thuyết nhà nước cách mạng của V.I.Lênin.
Trong nội dụng bài Đường Kách mệnh 1927, Hồ Chí Minh viết: “ làm sao kách
mệnh rồi quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”. Về
sau, Người xố bỏ kiểu “nhà nước cho sớ đơng người” thay bằng kiểu “ nhà nước công
nông”. Đây là một trong các hình thức nhà nước theo kiểu Xơ viết. Từ bối cảnh hiện tại
10
của đât nước, Hồ Chí Minh đã lựa chọn và sử dụng kiểu nhà nước “dân chủ nhân dân” nhà nước của dân, do dân, vì dân. Điều này đã được Người khẳng định từ Nghị quyết
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là một nước dân chủ, tất cả lợi ích đều
vì dân, quyền hạn đều của dân, chính quyền từ cấp xã đến Chính phủ Trung ương đều
do dân đứng ra bầu cử, đoàn thể từ Trung ương đến cấp xã đều do người dân tở chức
nên…. Tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều từ dân mà tạo nên”. Chúng ta phải
xây dựng một nhà nước do chính nhân dân lao động làm chủ, là chủ, mọi quyền hành
trong nước đều thuộc về nhân dân. Tất cả nội dung đó được thể hiện trong Điều 1 Hiến
Pháp 1946: “Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt tôn giáo, giàu với nghèo, trai gái bình đẳng,…”. Người cũng chỉ rõ nhà nước
ta mang bản chất giai cấp công nhân, do nhân dân làm chủ mà nịng cớt là liên minh
cơng – nơng – trí thức cũng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo dựa trên đội tiền phong là
Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thống nhất, tất cả mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền được kiểm sốt tất cả hoạt động
của nhà nước, cử tri là nhân dân đứng ra bầu đại biểu Q́c hội đồng thời có quyền theo
dõi, giám sát và bãi miễn đại biểu do mình bầu ra nếu đại biểu hoạt động khơng đúng
với lợi ích của nhân dân. Việc bảo vệ và tạo ra lợi ích cho nhân dân mục tiêu phải
hướng đến trong bộ máy hoạt động của nhà nước, đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi
ích của cá nhân, tập thể qua đó tính chất dân chủ được chỉ rõ ở nhà nước ta.
Theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, người giữ vai trò quyết định trên tất cả các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, từ việc liên quan đến lợi ích cá nhân đến
những chuyện mang tính q́c gia như đặt ra các quy tắc luật pháp, bầu ra người đứng
đầu Nhà nước đó chính là nhân dân. Họ có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền
được bảo vệ chính thân thể của mình, tự do đi lại, tự do lao động sản xuất, tự do học
tập, …nằm trong giới hạn luật pháp cho phép. Nhân dân có quyền làm chủ các tở chức
tập thể, làm chủ cơ quan hoặc địa phương nơi mình sinh sớng và làm việc. Người dân
có quyền làm chủ khi được bầu cử và miễn nhiệm vào các tở chức chính trị xã hội.
11
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân chỉ trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục và
nhận thức được những cái tốt, cái xấu; đâu là nghĩa vụ họ phải nên thực hiện. Để làm
được tất cả điều này, bản thân mỗi người dân phải có ý chí để vượt qua cái tôi của bản
thân, các hoạt động tổ chức đoàn thể phải đứng ra giúp đỡ, động viên khún khích họ.
Một dân tộc có trình độ kém là đều tất yếu và nếu bộ phân nhân dân không được giáo
dục, được truyền đạt kiến thức để thoát khỏi sứ ́u kém đó thì họ sẽ khơng bao giờ
thực hiện được quyền làm chủ của mình.
Người dân ḿn có quyền làm chủ của mình khi chỉ có cơ chế đảm bảo quyền làm
chủ của họ được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Đảng phải đi đầu, xung phong tạo
ra một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với các luật pháp hiện có, việc đảm bảo
quyển làm chủ của nhân dân là mục tiêu hàng đầu, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ
nhân viên có tiềm năng xứng đáng với hình ảnh là người lãnh đạo, luôn trung thành với
nhân dân, với đất nước.
1.2. Nhà nước pháp quyền
Trong bản Yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt
Nam đứng ra gửi yêu cầu đến Hội nghị Vecxay (1919), Người yêu cầu: “Vấn đề pháp lý
ở Đông Dương phải được cải cách bằng cách cho người bản xứ được hưởng những mặt
pháp lý như người phương Tây; những toà án đặc biệt cần phải xố bỏ hồn tồn, nó là
cơng cụ dùng để tra tấn và áp bức bộ phận trung thành nhất trong nhân dân An Nam ”; “
thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có nhận thức từ rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý xã hội. Ngày
3/9/1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời được tở chức, Người đề nghị cần
phải nhanh chóng tở chức Tởng tuyển cử để lập ra Q́c hội, qua đó bầu ra Chính phủ
chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Công. Người cũng quan tâm đến việc soạn, ban
hành Hiến pháp và luật pháp, đó là cơng cụ để nhà nước quản lý.
Bản hiến pháp năm 1946 mang lại dấu ấn sâu sắc trong quan điểm của Người về bản
chất, thể chế và hoạt động của nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người nhấn mạnh việc
luật pháp phải dựa vào đạo đức, nó cần thiết và quan trọng. Luật pháp để mọi người
cùng thực hiện, nếu khơng có luật pháp thì xã hội dễ dẫn đến hỗn loạn, vô kỉ luật, luật
pháp không chỉ đứng ra bảo vệ các tổ chức nhà nước mà còn bảo vệ quyền lợi của nhân
12
dân. Dùng đạo đức để thuần hoá con người, ngăn chặn những thói hư tật xấu, khún
khích thực hiện cái đẹp, cái thiện vớn có trong mỗi con người.
Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ Nghĩa của Đảng, Điều 2
Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
•
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
•
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
•
Quyền lực Nhà nước là thớng nhất có sự phới hợp, phân cơng, kiểm sốt giữa
các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam được xây dựng và đáp ứng các nguyên tắc sau:
-
Quyền lực Nhà nước ln có sự thớng nhất, sự phân cơng, phới hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan bộ máy Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
-
Đề cao việc bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, tơn trọng sự bình đẳng của mọi
cá nhân, khơng có sự phân biệt đới xử, phân chia tầng lớp trong việc tham gia vào công
tác quản lý bộ máy Nhà nước.
-
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
-
Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
13
-
Nội dung luật pháp Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính cơng khai, minh bạch,
chính xác và hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con
người.
Quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân gắn liền với việc chỉnh sửa
và hồn thiện hệ thớng pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống của mọi người là quan
điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
1.3.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức vừa có tài, thực sự là công bộc
của nhân dân.
Trong suốt lịch sử hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nâng cao
giá trị phẩm chất và năng lực của một người cán bộ cách mạng. Người cho rằng, để
trở thành người cán bộ cách mạng thì hai mặt đức và tài ln song hành với nhau,
không thể thiếu bất kỳ mặt nào, cũng khơng thể coi nhẹ mặt nào. Vì vậy, từ rất sớm
Người đã đưa những phẩm chất tốt nhất của mình vun đắp, đào tạo cho đất nước
một đội ngũ cán bộ đủ tầm để có thể đưa bộ máy nhà nước đi lên và ngày càng phát
triển hơn nữa.
Về vấn đề thống nhất giữa đức và tài của người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Người có tài thì phải có đức". Theo Người, nếu một người vừa có đức
và tài thì phẩm chất đó phải được thể hiện trên kết quả công tác và phải luôn gắn bó
với nhau trong nhân cách người cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một người
cán bộ cách mạng trước hết phải có trong mình đạo đức cách mạng, bởi vì “đạo đức
là phẩm chất của người cách mạng”. Trong mới quan hệ đó thì phẩm chất "đức"
phải được đặt lên hàng đầu: “Đức phải có trước tài", đức là “gớc”. Nếu một người
có tài mà khơng có đức thì nó vơ dụng, vì có tài khơng có đức sẽ dẫn đến các vấn đề
như tham ô, lợi dụng quyền hạn sẽ gây hại cho đất nước.
Sau hơn 30 năm đổi mới ở nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về nhiều
mặt thì vẫn cịn những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục. Vấn đề cán bộ và
công tác cán bộ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các khuyết đểm ấy. Ở
Đại hội XII chỉ rõ: “Tình trạng tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của một số bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của chúng ta đang bị suy thối và đẩy lùi; có bộ phận
14
cịn có những hành vi phức tạp hơn; một sớ rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi
dụng mua chuộc, lơi léo, kích động đã có suy nghĩ, việc làm chống đối Đảng, Nhà
nước". Thêm một vấn đề khác đó là năng lực của cán bộ, một số bộ phận cán bộ cũng là
dấu hỏi lớn về khả năng của họ mà chưa có lời giải thích thỏa đáng. Thời gian qua,
khơng ít cán bộ được phân công, bổ nhiệm làm nhiệm vụ với vỏ bọc bên ngồi "đúng
quy trình", song thực chất là biểu hiện của "ép buộc" cho đúng quy trình chứ chưa thể
phản ánh một cách khách quan, chính xác nhất những giá trị phẩm chất, đạo đức và
năng lực thực sự của cán bộ.
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước kết hợp với những tác động
tiêu cực của mặt trái nền kinh tế trên thị trường; từ thực trạng đào tạo công tác cán bộ
của Đảng, nhất là việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên và sự chống
phá quyết liệt của các thế lực trong và ngồi Đảng. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII)
đã nêu rõ yêu cầu cấp thiết hiện nay đòi hỏi Đảng cần phải chú trọng trong công tác đào
tạo, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng đặt ra. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đức và tài của
người cán bộ cách mạng vào chính sách đởi mới và hội nhập q́c tế, các cơ quan cấp
cao có thẩm quyền cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, phải nhận thức đúng mối quan hệ giữa đức và tài trong việc xây dựng đội
ngũ cán bộ cách mạng hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực hiện nghiêm
các quan điểm của Đảng về công tác đào tạo cán bộ. Các quá trình đào tạo cần thiết
thực và hướng đến mục tiêu để có thể hình thành đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
vừa có đức, có tài. Các cơ quan cấp đảng, cấp uỷ cần phải phải nghiên cứu và nắm vững
giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài trong đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử
dụng cán bộ cách mạng. Đề cao việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người cán bộ,
đảng viên là việc làm trọng tâm; coi trọng việc phát triển toàn diện về đức và tài; lấy
đạo đức đặt nền móng cho sự phát triển và đức ln ln phải có trước tài.
Hai là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp đảng, cấp uỷ và người đứng đầu
trong cơ quan, tổ chức trong việc rèn luyện, tu dưỡng cán bộ. Cơ quan, tổ chức và
người đứng đầu phải luôn quán triệt và thực hiện tốt việc tu dưỡng, rèn luyện cả về đạo
đức và tài năng cho đội ngũ cán bộ ở mọi lúc, mọi nơi, mọi công việc và trong các mối
15
quan hệ. Người đứng đầu các cấp luôn quan tâm, chăm lo nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho cán bộ, công, nhân chức và đặc biệt là nhân dân. Chú trọng rèn luyện
cho cán bộ tinh thần chủ động trong mọi khó khăn, gian khở, đề cao tính dám nghĩ, dám
làm và chịu trách nhiệm, ln trong tinh thần sẵn sàng nhận và hồn thành tớt mọi
nhiệm vụ được giao.
Ba là, ln nâng cao trình độ, chất lượng đào tạo và năng lực toàn diện cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên, giúp họ vươn lên chiếm lĩnh được tri thức, làm chủ khoa học công
nghệ. Đây là vấn đề hết sức cần thiết trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập q́c
tế hiện nay. Mỗi cơ quan, tở chức đảng cần khún khích và động viên cán bộ phải học
tập, tu dưỡng, rèn luyện khơng ngừng về năng lực, trình độ tồn diện, đồng thời nắm
vững về chuyên môn nghiệp vụ đảm nhiệm để tiến kịp thời đại. Mỗi một cá nhân, cán
bộ Đảng cũng cần thường xuyên học hỏi nâng cao kiến thức, khơng ngừng đởi mới,
kiên trì, sáng tạo và bền bỉ trong tiếp thu, vận dụng bản chất khoa học, cách mạng của
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mac - Lênin để giải quyết công việc.
Bốn là, đẩy mạnh học tập và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Tiếp tục quán triệt và thực hiện tớt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học
tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", nhằm xây dựng đạo đức và
tài năng cho đội ngũ cán bộ của Đảng ta hiện nay, tạo cơ sở vững chắc để người cán bộ
luôn đứng vững, giữ phẩm chất, nhân cách của mình trước mọi cám dỗ tầm thường; tạo
sự “đề kháng” tốt nhất cho họ trước sự xâm hại của thứ vi trùng độc hại là chủ nghĩa cá
nhân; giúp họ không thể gục ngã bởi sự quyến rũ của đồng tiền, quyền lực và tham
vọng. Qua đó hình thành và củng cớ phương pháp, tác phong làm việc khoa học, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công việc đảm nhiệm.
5. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
5.1. Nhà nước đảm bảo thật sự quyền làm chủ của nhân dân
Trong các quyền của công dân, quyền làm chủ thật sự của nhân dân là một nội dung
cơ bản để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà nước đòi hỏi chúng ta phải chú ý
đến việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân đối với tất cả các
16
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố và xã hội. Đới với vấn đề này, việc mở rộng tính dân
chủ phải đi cùng với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ của nhân
dân phải được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật, đưa các nội dụng trong Hiến pháp
và pháp luật vào cuộc sống đời thường của nhân dân. Phải chú ý đến việc đảm bảo cho
tất cả người dân được bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh với mọi hành vi
sai trái, vi phạm luật pháp của một cá nhân, tổ chức nào đó gây ra. Khi đó, người dân
mới thật sự tin tưởng và ủng hộ tính chất nhân dân của Nhà nước.
Ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, chúng ta cần thực hiện những quy
tắc dân chủ trong công đồng dân cư, thôn bản tùy theo điều kiện, hồn cảnh của từng
khu vực. Chỉ cần là khơng trái với quy định pháp luập Nhà nước ban hành, qua đó mới
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
5.2.
Kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước
Trong lĩnh vực này đòi hỏi phải chú trọng cải cách và xây dựng, kiện tồn bộ máy
hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, minh bạch, vững mạnh
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đạt được điều đó, chúng ta cần đẩy mạnh cải cách nền
hành chính có khả năng phục vụ chu đáo và đem lại hiêu quả đối với nhân dân.
Phải nghiêm khắc xử lý các trường hợp sai phạm; đào thải những cán bộ có năng
lực kém cỏi, sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, có những hành vi trái với luật pháp
như: cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, … Việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh
trong điều kiện xã hội hiện nay cần chú ý cải cách các thủ tục hành chính, xố bỏ những
bước khơng cần thiết gây mất thời gian; nâng cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải
quyết những vấn đề khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân theo đúng những quy định của
luật pháp đưa ra; sắp xếp, tiêu ch̉n hố lại đội ngũ cán bộ, cơng chức; xây dựng một
đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, có năng lực.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức có năng lực ́u kém thì khơng thể có một Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân thực sự vững mạnh. Vì vậy, vấn đề công tác đào tạo
cán bộ phải được quan tâm, đặt lên hàng đầu và các hoạt động này phải tổ chức thường
xuyên hơn để đảm bảo việc thay thế, bổ sung cán bộ cách mạng sau này.
5.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước gắn liền với công cuộc đổi
mới, chỉnh đốn Đảng. Với tư cách là Đảng cầm quyền, đây là trách nhiêm thiết yếu cực
17
kỳ quan trọng của Đảng. Phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Đảng không thể làm thay công việc quản lý của Nhà nước, phải thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ trong hệ thớng chính trị trên cơ sở bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, chức
năng, quyền hạn của Nhà nước theo pháp luật định. Cần đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước: lãnh đạo bằng tổ chức, đường lối, bộ máy của Đảng trong
các cơ quan nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng
viên trong bộ máy nhà nước.
Vai trò, trách nhiệm cầm quyền được Nhà nước gắn liền với Đảng, do đó Đảng phải
được biết đến bởi sự trong sạch, vững mạnh đó là những ́u tớ tất ́u giúp việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trở nên thành cơng và được nhân dân tin tưởng hơn
6. Liên hệ về xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay
Trong xã hội đương đại, khi nhu cầu dân chủ hóa đời sớng xã hội, nhu cầu tôn
trọng, đề cao, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân ngày càng tăng cao
thì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và bình đẳng.
Thứ nhất, tiếp tục hồn thiện hệ thớng pháp luật Việt Nam, đồng thời tổ chức thực
hiện một cách có hiệu quả. Trong thời gian qua, mặc dù đảng ủy bộ máy nhà nước đã có
nhiều cớ gắng trong việc hồn thiện hệ thớng pháp luật cũng như cách thực hiện. Song
những cố gắng ấy vẫn chưa đủ bởi khoảng cách so với pháp luật của nhà nước pháp
quyền vẫn cịn là q lớn. Vì vậy, cần đẩy mạnh cơng cuộc xây dựng hồn thiện hệ
thớng pháp luật và cách thức thực hiện một cách nhanh chóng. Cần nhiều hơn nữa sự
tham gia đóng góp của nhân dân vào xây dựng hệ thống pháp luật bởi pháp luật ra đời
nhằm phục vụ, đảm bảo quyền lợi của nhân dân đồng bào cả nước. Pháp luật ra đời phải
phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta cũng như các thông lệ của khu vực thế giới,…
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giảo dục pháp luật, xây dựng lối sổng theo
pháp luật. Hiện nay mặc dù là thời kì cơng nghiệp hóa hiện đại thời đại của vũ bảo, mọi
kiến thức đều được phổ cập qua các văn bản tri thức trên internet, tri thức người ngày
18
càng được nâng cao nhưng dẫu vậy vẫn tồn tại đó là lới sớng tùy tiện, theo bản năng.Sự
hiểu biết của người dân về pháp luật còn khá thấp, hiện tượng người dân mù luật vẫn
cịn nhiều. Bản thân tơi là một người dân đến từ vùng quê, nhận thấy việc phổ cập các
kiến thức pháp luật đến người dân rất ít gần như phần lớn người dân chỉ biết đến vài
luật cơ bản như luật an tồn giao thơng cơ bản, hay luật về chứng từ khi cần thiết còn
lại khi nào bị tác động vào quyền lợi bản thân, họ mới bắt đầu tìm hiểu các luật, hiến
pháp về quyền lợi. Rất thụ động trong việc tìm hiểu pháp luật. Vì vậy rất mong các cơ
quan chức năng, các cấp trung ương có thể vào cuộc tìm kiếm các biện pháp để nâng
cao nhận thức của người dân về pháp luật nhất là các vùng thôn quê. Xây dựng không
ngừng, củng cố lối sống pháp luật của người dân trên tồn cả nước.
Thứ ba, đởi mới quan hệ giữa nhà nước với công dân và xã hội theo hướng chuyển dần
từ nhà nước quản lỉ, chỉ huy xã hội sang nhà nước phục vụ xã hội. Trong xu thế các
nước phát triển hàng đầu cũng như các nước đang phát triển đang từ từ chuyển dịch từ
quản lý mọi mặt xã hội sang phục vụ xã hội thì đất nước Việt Nam ta cũng nằm trong
xu hướng được xem là tất yếu đó. Mặc dù hiện na, Việt Nam còn nặng ở vấn đề quản lý
xã hội nhưng vẫn đang cớ gắng hình thành tính phục vụ xã hội được mở rộng và nâng
cao hơn. Để hoàn thiện nhà nước có thể đáp ứng các yêu cầu đặt ra về nhà nước pháp
quyền thì bộ máy nhà nước cần phải khơng ngừng cớ gắng để giảm bớt tính quản lý và
tăng dần tính phục vụ xã hội của chính mình. Cần cải thiện ,cải cách các thể chế, các
thủ tục hành chính, nâng cao ý thức thái độ sẵn sàng phục vụ đối với người dân, các
doanh nghiệp. Tránh các thủ tục rườm rà, các giấy tờ không cần thiết làm phức tạp các
hoạt động hành chính, gây mất uy tín cơ quan nhà nước trong mắt nhân dân. Sẵn sàng
đứng lên đấu tranh mạnh mẽ đối với các hành vi vi phạm pháp luật, không chuẩn mực
thuần phong mỹ tục của nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục đởi mới một cách tồn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước. Mặc dù từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành bắt đầu
đến nay từ việc tổ chức bộ máy nhà nước đến việc xây dựng nên từng bộ phận nhà nước
cụ thể thì nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Dẫu vậy ta vẫn còn nhiều mặt
hạn chế trong việc cơ cấu xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước cần được khắc
phục. Tiếp tục đổi mới các hoạt động tổ chức của Quốc Hội, để đảm bảo rằng Quốc Hội
19
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhất nhà nước. Cơ
cấu xây dựng hồn thiện lại bộ máy chính phủ xác định rõ được chức năng quyền hạn,
nhiệm vụ là cơ quan chấp hành hành của Quốc Hội, là cơ quan hành chính có quyền
hạn cao nhất, thực hiện việc hành pháp. Cải cách tư pháp một cách triệt đề nhằm nâng
cao khả năng làm việc có hiệu quả trong các hoạt động của tư pháp, cải cách tư pháp
suy cho cùng cũng vì sự phát triển của đất nước nên.
Thứ năm, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đới với Nhà nước cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đảng hiện nay đang không ngừng đổi mới xây dựng hồn
thiện lãnh đạo của mình đới với nhà nước và xã hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam trong nhận thức lẫn thực tiễn. Tuy nhiên để đáp ứng với nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền, thì cần cớ gắng nhiều hơn nữa để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước.
20
PHẦN KẾT LUẬN
Trên con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền, dân chủ do dân vì dân cịn gặp
rất nhiều chông gai. Đảng ta cần xác định được mục tiêu vững bền nhằm xây dựng một
quốc hội thực quyền, một chính phủ hiệu quả bảo đảm các mới quan hệ thớng nhất, hiệu
quả, hiệu lực năng động của chính quyền từ các cấp trung ương đến địa phương. Nước
ta là một nước có Đảng là độc tơn duy nhất khơng cho phép chế độ đa ngun ,đa đảng
chính trị đối lập. Đảng là lực lượng lãnh đạo và xây dựng nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam các tổ chức pháp luật, Đảng viên làm việc hiệu quả trong khuôn
khổ của Hiến Pháp nhà nước. Đảng lãnh đạo lãnh đạo nhà nước và xã hội, điều hướng
hướng đi của đất nước giữ sứ mệnh cực kì quan trọng từ lúc sinh ra, Đảng ln phải giữ
cho mình tư tưởng lãnh đạo tư tưởng làm theo lời Bác đưa đất nước ngày càng đi lên.
Mặc dù chính quyền nhà nước đã xây dựng nhà nước kiểu mới với nhiều thay đổi
lớn, đạt được nhiều thành tựu tiến bộ vượt bậc về quyền của con người, quyền của dân
ngày càng được đảm bảo. Dẫu vậy, vẫn còn rất nhiều mặt hạn chế mà bộ máy hành
chính nước chưa làm tốt được, chưa khắc phục cải thiện. Việc cán bộ cịn xem nhẹ việc
dư luận vẫn cịn xảy ra, khơng nghĩ đến dân của một số cán bộ đảng viên. Việc chú
trọng và lòng tham “quyền lực” trong một bộ phận cán bộ cơng chức nhà nước vẫn cịn
tồn tại và diễn ra. Bác Hồ đã từng cảnh báo việc việc lạm quyền, sự tham ô về quyền
lực, sẵn sàng dùng quyền lực bản thân nhằm vơ vét của dân khơng khác gì bọn tham
quan thời phong kiến. Tư tưởng cậy thế, tư túng, kiêu ngạo, chia rẻ, nói một đằng làm
một nẻo. Thực vậy trong những năm gần đây mặc dù Quốc Hội đã ra sức chống tham ô,
lạm quyền từ cấp trung ương rất mạnh mẽ, diễn ra rất qút liệt nhưng sự thật nó vẫn
cịn tồn tại và âm thâm như con đỉa hút máu. Việc tuyển chọn cán bộ có tư tưởng chính
trị lập trường vững vàng, đảng viên được bồi dưỡng tư tưởng chính trị còn nhiều hạn
chế bất cập. Các vụ việc diễn ra gần đây như: Chủ tịch xã khơng có bằng cấp 3 nhưng
vẫn được làm và giữ chức vụ nhiều năm. Vậy nguyên nhân do đâu? Việc tuyển chọn
nhân tài cho bộ máy nhà nước còn yếu kém chưa quyết liệt từ cấp trung ương. Nhiều
người sau khi lên làm chủ tịch xã, huyện, tỉnh thì bất ngờ vài năm có nhà cửa xe hơi vậy
do đâu? Việc tham ô lãnh phí, làm thất thốt ngân sách nhà nước dường như năm nào
cũng diễn ra và khi nào có sự lên tiếng của dân hay bất ngờ phát hiện thì mới tiến hành
21
điều tra xử lý. Phải chăng bản thân các cơ quan chức năng chưa thể nhìn thấy vấn đề
hay do điều gì. Dân có quyền xem xét các vấn đề mà nhà nước dẫu vậy, vấn đề quyền
lực dường như là một thứ gì đó vơ hình làm bản thân người dân có quyền lực tham gia
thì lại trở thành một bù nhìn chưa thể gọi là dân chủ. Khơng thể để một con sâu làm rầu
nồi canh, muốn diệt cỏ thì phải diệt tận gớc. Bước đầu tiên của vấn đề đó là tư tưởng
chính trị của cán bộ đảng viên chưa vững vàng khi tuyển chọn cần đặt ra các mục tiêu
rõ ràng, một người có lý tưởng sẵn sàng dùng mọi khả năng đưa đất nước ngày càng đi
lên và không thể làm qua loa vấn đề áp đặt vấn đề này một cách máy móc được. Sẵn
sàng xử lý khi phát hiện, luôn trong trạng thái sẵn sàng. Khơng thể śt ngày xem xét
hình phạt được, cần ra đời các luật răn đe cảnh cáo mức độ trung bình nặng. Bởi vì nếu
cứ cảnh cáo qua loa thì vấn đề sẽ đâu lại vào đấy, miệng nói “xin nhận lỗi” nhưng rồi từ
từ tư tưởng cũng vậy. Mặc dù Đảng ta luôn xem xét các vấn đề xử lý ơn hịa giảm nhẹ,
bởi vậy nhiều đới tượng lợi dụng việc xem xét giảm nhẹ nên mới thực hiện hành vi gian
trá, không đúng đắn đối với một hình tượng của cán bộ cơng chức nhà nước. Đảng và
Nhà nước cần chú ý hơn nữa tiếng nói của người dân, bởi tiếng nói của người dân cũng
chính là tiếng nói của Việt Nam. Cần lắng nghe dân nhiều hơn sẵn sàng xuống từng cấp
huyện, xã, thị trấn, ...
Cần nhiều hơn nữa nguồn lực từ thực tế, cần phải hiểu rõ hơn nữa về các huyện, thị
trấn không thể nào mà śt ngày họp thì có thể giải quyết được vấn đề được. Đảng
trong những lần đại hội XI, XII đã có tinh thần nhìn thẳng vấn đề, thẳng thắn chỉ ra rõ
những thiếu sót, khuất mắc và thực tế vấn đề dân chủ chưa được phát huy hiệu quả. Cải
cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính cịn rườm ra phức tạp và
từ đó xảy ra việc lạm quyền từ đó tạo ra nhiều vấn đề phát sinh khơng đáng phải có.
Thực vậy, ở một số nơi miền quê khi đi làm thủ tục hành chính gặp rất nhiều thủ tục
rườm rà nhưng chỉ cần “phong bì” mọi thứ dường như được giải quyết nhanh hơn. Bởi
bất cập trong vấn đề hành chính đã sản sinh ra các vi phạm, vì vậy cần chấn chỉnh gấp
các vấn đề đó rút ngắn được độ phức tạp khi làm các quyền lợi của công dân. Việc triển
khai thực hiện cải cách tư pháp còn chậm vẫn chưa thỏa đáng ta có thể thấy các vụ án:
oan sai, tiêu cực, bỏ sót tội phạm vẫn cịn diễn ra. Kết quả là những công dân vô tội rơi
vào vòng lao lý ngồi trong buồn giam 30 đến 40 năm đời, gia đình của những cơng dân
22
này rơi vào lời bàn tán của xã hội, gia đình mất đi trụ cột gia đình. Phải chăng chỉ bồi
thường và cơng khai xin lỗi một cách máy móc là có thể giải qút? Nhiều vụ án xảy ra
tình trạng kiện tụng ra tòa trên dưới chục lần giải quyết hơn 10 năm mới có thể giải
quyết, vậy do đâu? Đảng cần cố gắng hơn nữa về các vấn đề tư pháp, pháp lệnh cần
mang tính đúng đắn và phải cực kì ch̉n xác khơng được sai phạm vì bất cứ một lý do
nào. Là công dân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ai cũng có quyền
được sớng, được tự do, được làm những điều bản thân có khả năng mong ḿn và thực
hiện trong khuông khổ pháp luật. Luật sinh ra là do dân, vì dân khơng thể để luật cướp
mất quyền mà bản thân đáng có vì sự sai sót của một cá nhân tở chức nào đó được. Cần
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì một nền hành chính, một đất nước trong sạch tươi
đẹp, xây dựng một nền hành chính dân chủ. Thiếu sót khuất mắc cịn nhiều nhưng Đảng
ta vẫn tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được khơng vì những thiếu sót mà nhụt
chí, cần lấy đó làm bàn đạp xóa bỏ khắc phục, lấy đó làm động lực cho những thành
công sắp tới. Không thể xóa bỏ các khuyết điểm đó trong từng ngày tháng được vì vậy
cần tìm ra những phương án đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Mọi đường lối chủ trương của
Đảng và nhà nước đều xuất phát từ nguyện của người dân, được người dân tham gia ý
kiến. Dân chủ phải được nghiêm túc thực hiện trên mọi mặt vấn đề xã hội nhằm đảm
bảo lợi ích cao nhất cho nhân dân.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh "Nước lấy dân làm gớc" vậy nên Đảng cần ra sức cớng
hiến hết mình vì dân phục vụ, phải ln ln lắng nghe ý kiến của dân, phải ln liên
hệ gắn bó chặt chẽ với dân. Tư tưởng Hồ Chí Mình về xây dựng một nhà nước pháp
quyền của dân do dân và vì dân vẫn cịn ngun giá trị, vẫn ln tiếp tục soi sáng cho
lối đi của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền một nhà
nước Xã hội Chủ Nghĩa toàn diện vững bền trong mọi thời kì của đất nước.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ths. Nguyễn Bắc Phương. ( 04/09/2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam. Truy cập 16/7/2021, từ />[2]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân. (29/02/2004). Truy cập 16/07/2021, từ
/>[3]. Bùi Sỹ Lợi. (22/05/2021). Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Truy cập 16/07/2021, từ />[4]. Tạp chí xây dựng đảng. (20/01/2021). Truy cập 17/07/2021, từ
/>[5]. Bùi Thị Ánh. (22/04/2021). Phương thức xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Truy cập 17/07/2021, từ />[6]. ThS. Trần Cao Hùng. (23/07/2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong
sạch, hoạt
động
có
hiệu
quả.
Truy
cập
18/07/2021,
từ
/>[7]. Mạch Quang Thắng. (2019). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hà Nội; bộ Giáo
dục và Đào tạo.
[8]. Hồ Chí Minh tồn tập. (2011). Hà Nội; Nhà xuất bản Chính trị q́c gia.
[9]. Thiếu tá Đặng Cơng Thành. (06/06/2017). Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Truy cập 18/07/2021, từ
/>
24
PHỤ LỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(V/v Phân cơng cơng việc /Đánh giá hồn thành /Họp nhóm định kỳ....)
1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.
1.1. Thời gian: 20/07/2021
1.2. Địa điểm: Online trên ứng dụng Zoom
1.3. Thành phần tham dự:
+ Chủ trì:
+ Tham dự:
+ Vắng: 0
2. Nội dung cuộc họp
2.1. Nhóm trưởng phân cơng cơng việc cho các thành viên như sau:
Họ tên
STT (Xếp theo STT Nhiệm vụ
Ghi chú
từ nhỏ đến lớn theo
số thứ tự trong danh
sách điểm danh)
53
Làm phần: Nội dung, Thiết Trưởng
kế chỉnh sửa văn bản
nhóm
8
Làm phần: Phần mở đầu,
phần kết luận
2.1.Nhóm trưởng đánh giá mức độ hồn thành cơng việc cho các thành viên như
sau:
Họ tên
STT
Nhiệm vụ
Đánh giá hoàn Ghi chú
thành
53
8
Làm phần: Nội
dung, Thiết kế
chỉnh sửa văn bản
Làm phần: Phần
mở đầu, phần kết
luận
Hoàn
thành, Trưởng
đúng hạn
nhóm
Hồn
thành,
đúng hạn
2.2. Ý kiến của các thành viên
Tất cả thành viên trong nhóm đồng ý với nội dụng nhóm trưởng nêu trong biên bản
họp nhóm.
2.3. Kết luận cuộc họp
25