Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO cải CÁCH tư PHÁP và một số vấn đề xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.79 KB, 36 trang )

CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân cơng và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động
xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ
chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cơ quan tư pháp bao gồm: tòa
án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ
chức tư pháp bổ trợ như: luật sư, công chứng, giám định, tư vấn pháp luật...
Với quan niệm tư pháp là các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện
quyền tư pháp, trong đó tịa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và các cơ
quan điều tra là các cơ quan quan trọng nhất. Sau khi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nền tư
pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân đã từng bước được thiết lập. Gần 60 năm
qua, các cơ quan tư pháp đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn
đấu để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đã đóng góp
khơng nhỏ vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước,
điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức hoạt động của Nhà nước cho phù
hợp. Nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được đề cao hơn bao giờ hết. Trong cải cách bộ
1


máy nhà nước, cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi vì, các cơ quan tư
pháp là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ


của nhân dân, bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng
của người dân, bảo đảm kỷ cương xã hội. Từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu,
thực hiện chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, các cơ quan tư pháp đã tham
gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, từng bước nâng cao
ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đẩy mạnh cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay
Trong lý luận và thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, cải cách tư pháp luôn
được hiểu với ý nghĩa chung nhất là sự thay đổi đem lại những điều mới có ích
cho việc xây dựng nhà nước và bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Vào đầu những năm 1950, Bộ Tư pháp đã trình lên Chủ tịch Hồ Chí
Minh dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng với những mục
đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được dân chủ hoá. “Để cơng việc xét xử
được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được hợp lý và giản dị
hơn” (1) Với ý nghĩa đó, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu
tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và
xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, ngày 2/6/2005,
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết 49). Mục đích của việc xây dựng Chiến
lược cải cách tư pháp nhằm : xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, hiện đại, bảo vệ công lý. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, để thể chế thành
pháp luật theo các định hướng của Đảng, vấn đề đặt ra là cần có sự nhận thức
2


thống nhất về khái niệm cơ quan tư pháp. Vì chỉ có thể xác định đúng đắn
phạm vi cải cách tư pháp khi có sự nhận thức thống nhất về cơ quan tư pháp.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay khơng có quy định nào về

cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) tuy có quy định về quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp nhưng không quy định rõ cơ quan nào
là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Vậy cơ quan tư pháp là gì? Trong khoa học
pháp lý, cơ quan tư pháp được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Trong các tác phẩm kinh điển, nhiều luật gia đã không có gì khó khăn để
tìm ra ý nghĩa đích thực của cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp. Montesquieu
người được coi là “cha đẻ” của học thuyết phân quyền trong tác phẩm “Tinh
thần pháp luật” xuất bản năm 1748 đã quan niệm “Với quyền lực thứ ba, nhà
vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân.
Người ta gọi đây là quyền tư pháp” (2). Ơng cịn viết: “Quyền phán xét khơng
nên giao cho một Viện Nguyên lão thường trực mà phải do những người trong
đoàn thể dân chúng được cử ra từng thời gian trong một năm, do luật quy định
thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ theo sự cần thiết” (3). Như vậy, theo
Montesquieu, cơ quan tư pháp là toà án, là cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện
nhánh quyền lực tư pháp.
Mười bốn năm sau, trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” xuất bản
năm 1762, Rousseau viết: “Khi người ta không thể định rõ một tỷ lệ chính xác
giữa các bộ phận cấu thành của nhà nước, hoặc khi mà những nguyên nhân
khách quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì
người ta phải đặt một cơ quan đặc biệt, không tham dự vào bất cứ một bộ phận
nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận vào đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc
và yếu tố trung gian giữa Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ
quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là
cơ quan tư pháp” (4). Khi bàn về chức quan tư pháp, Rousseau cịn nói rõ hơn:
3


“Luật pháp cơng bố ý chí của tồn dân; chức quan tư pháp nói lên lời phán xét
cơng cộng… tồ án tư pháp không phải là người trọng tài xét xử dư luận cơng
chúng, nó chỉ là người cơng bố dư luận cơng cộng. Xa rời chức năng đó thì mọi

quyết định của toà án đều là điều vớ vẩn và vô hiệu” (5). Xem thế, quan niệm
của Rousseau về cơ quan tư pháp khơng có gì khác biệt với Montesquieu, theo
đó nói đến cơ quan tư pháp phải hiểu đó là tồ án, là hoạt động xét xử.
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản
Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản 1
như sau: Quyền lực tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và những
toà án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp. Và hầu
hết các hiến pháp của các nước tư bản như Nhật, Pháp, Đức, Thuỵ Điển… sau
này khi quy định về cơ quan tư pháp đều coi đó là các tồ án. Như vậy, quan
niệm có tính chung nhất theo nghĩa hẹp về về cơ quan tư pháp từ học thuyết
đến xây dựng hiến pháp thành văn của các nước có lịch sử lập hiến lâu năm
được hiểu là các tồ án.
Ở Việt Nam cũng có các quan niệm khác nhau về cơ quan tư pháp tuỳ
theo cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quan niệm thứ nhất, liên quan đến
việc xem xét cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp, có tác giả đã đưa ra khái niệm về
tư pháp hình sự như sau: “Tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp quyền là dạng
thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống cơ quan có thẩm quyền nhân danh
cơng lý (cơ quan tài phán – Tồ án) để xét xử và đưa ra phán quyết đối với vụ
án hình sự nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự
do của con người và của cơng dân, cũng như hồ bình và an ninh của loại, hỗ
trợ cho cuộc đấu tranh chống tội phạm, góp phần đưa các nguyên tắc được thừa
nhận chung của Nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế” (6). Hoặc “Quyền
tư pháp là khả năng và năng lực riêng có của các cơ quan Tồ án chiếm vị trí
đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực hiện để tác động đến hành vi của con
4


người, đến các quá trình xã hội” (7). Từ các định nghĩa này có thể thấy, cơ quan
tư pháp chỉ là toà án.
Quan niệm thứ hai tiếp cận cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng có tính hệ

thống, theo đó “Khái niệm tư pháp khơng chỉ được dùng cho Tồ án, mà còn cả
các cơ quan nhà nước khác thực hiện chức năng có liện quan đến xét xử. Trước
hết đó là Viện kiểm sát, rồi đến các cơ quan điều tra, thi hành án” (8). Quan
niệm thứ hai này phản ánh nhận thức khá phổ biến trong giới nghiên cứu khoa
học pháp lý hiện nay .
Cũng có thể tiếp cận khái niệm cơ quan tư pháp từ Hiến pháp và các đạo
luật. Khác với các nước, ở Việt Nam các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980,
năm 1992 không có quy định cụ thể về cơ quan tư pháp. Riêng Hiến pháp năm
1946 có chương VI quy định riêng về cơ quan tư pháp bao gồm Toà án tối cao,
các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Cũng có ý kiến cho
rằng, Hiến pháp năm 1946 là khá điển hình cho việc vận dụng hạt nhân hợp lý
của học thuyết phân quyền mà một trong những biểu hiện là có chương quy
định riêng về cơ quan tư pháp và không chịu sự giám sát của Nghị viện. Các
hiến pháp sau này đã có sự thay đổi về cấu trúc, theo đó khơng cịn chương quy
định riêng về cơ quan tư pháp mà thay vào đó là chương quy định về Tồ án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, tìm hiểu kỹ về Toà án quy định
trong Hiến pháp năm 1946 thì thấy rằng, cơ cấu của Tồ án nước ta thời kỳ này
có những điểm khá đặc thù, khơng hồn toàn giống như quan niệm về cơ quan
tư pháp theo nghĩa hẹp ở trên. Theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức
các Toà án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định
thẩm quyền các Tồ án và sự phân cơng giữa các nhân viên trong Toà án, Sắc
lệnh số 31 ngày 19/3/1947 sửa đổi Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về tổ chức
Tư pháp công an, Sắc lệnh số 258-SL quy định cách tổ chức Công an quân
pháp trong thời kỳ kháng chiến, thì trong cơ cấu tổ chức của Tồ án khơng chỉ
5


có thẩm phán xét xử (thẩm phán ngồi) mà cịn có thẩm phán buộc tội (thẩm
phán đứng) được gọi là Chưởng lý, Biện lý, Phó Biện lý giữ vai trị công tố
viên. Trong cơ cấu tổ chức của Tư pháp cơng an có cả Biện lý, Phó Biện lý,

Thẩm phán sơ cấp. Biện lý có nhiệm vụ thi hành những bản án có hiệu lực.
Trong qn đội, cơng an qn pháp được giao thẩm quyền thi hành bản án của
Toà án binh. Như vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên xây dựng nền tư pháp
non trẻ thì nội hàm khái niệm cơ quan tư pháp theo Hiến pháp năm 1946 đã
được thu nhận thêm những thành tố khác như cơ quan công tố, điều tra, thi
hành án. Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật về tư pháp, ngày 21/12/
1999 Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự (mới) thường được gọi là Bộ luật
Hình sự năm 1999. Trong Bộ luật này có một chương riêng quy định về các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp. Điều 292 quy định khái niệm tội xâm phạm hoạt
động tư pháp như sau: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi
xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi
hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân. Trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp có
nhiều điều luật quy định về các tội phạm cụ thể như Điều 293 – tội truy cứu
trách nhiệm người khơng có tội; Điều 295 – tội ra bản án trái pháp luật; Điều
298 – tội dùng nhục hình; Điều 300 – tội làm sai lệch hồ sơ vụ án; Điều 305 –
tội không thi hành án, Điều 306 – tội cản trở việc thi hành án… Như vậy, bằng
việc thơng qua Bộ luật Hình sự năm 1999, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất đã công nhận khái niệm cơ quan tư pháp theo nghĩa rộng, theo đó cơ quan
tư pháp bao gồm Tồ án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành
án. Phạm vi cải cách tư pháp vì vậy cũng phải được xem xét toàn diện đối với
các cơ quan này. Ngồi ra, để cải cách tư pháp thành cơng, khơng thể khơng
hồn thiện các cơ quan khác được gọi là cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp như

6


luật sư, công chứng, giám định. Đây cũng là những thành tố có ảnh hưởng khá
nhiều tới chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp.
2. Cải cách Toà án – trọng tâm của cải cách tư pháp

Quốc hội có ưu thế trong việc thực hiện Nghị quyết 49 thông qua hoạt
động lập pháp. Sau ba năm thực hiện nghị quyết 49 (từ tháng 6/2005 đến nay),
Quốc hội đã ban hành nhiều luật, bộ luật, pháp lệnh quan trọng về lĩnh vực tư
pháp, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp như đã sửa đổi
Bộ luật Dân sự năm 2005, ban hành Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật
Công chứng, Luật Tương trợ tư pháp, Luật Phòng, chống tham nhũng. Tại kỳ
họp thứ tư, Quốc hội khoá XII, Quốc hội sẽ thông qua Luật Thi hành án dân sự,
cho ý kiến Dự án Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ
luật Hình sự. Quốc hội cũng đã phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Ủy ban thường vụ
Quốc hội (UBTVQH) ban hành Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu biển, Pháp lệnh
sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,
Pháp lệnh sửa đổi Điều 9 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, Nghị quyết số
1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày17/7/2006 của UBTVQH về giao dịch dân sự
về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước
ngoài tham gia, Nghị quyết số 1039/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 28/8/2006 của
UBTVQH về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ
đạo

trung

ương

về

phòng,


chống

tham

nhũng;

Nghị

quyết

số

294A/2007/UBTVQH12 ngày 27/9/2007 của UBTVQH về tổ chức, nhiệm vụ
và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về
phịng, chống tham nhũng… Nhìn chung, khối lượng văn bản quy phạm pháp
7


luật được Quốc hội, UBTVQH thông qua khá nhiều. Quá trình thể chế Nghị
quyết 49 có những dự án luật gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, như Bộ Luật
Thi hành án đã phải nhiều lần trình ra Quốc hội, thay đổi cấu trúc tách ra thành
hai luật: Luật Thi hành án dân sự và Luật Thi hành án phạt tù.
Trên cơ sở các quy định của các bộ luật, luật, pháp lệnh, hoạt động của
các cơ quan tư pháp đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ được giao; kịp thời đấu tranh phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm; tích cực giải quyết các vụ án dân sự, hành chính
và thi hành án, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự,
an tồn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cơng dân. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn còn nhiều
hạn chế, như còn để xảy ra tình trạng oan sai trong điều tra, truy tố, xét xử,

công dân khiếu nại, tố cáo nhiều. Số lượng án chờ xét xử để quá hạn luật định
còn khá lớn. Kết quả thi hành án hình sự, thi hành án phạt tù cịn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc. Ngun nhân có nhiều, nhưng điều có thể dễ nhận thấy là
việc thể chế những chủ trương, quyết sách theo Nghị quyết 49 còn chậm, chưa
đạt được được yêu cầu, mục tiêu cải cách đề ra.
Để tạo chuyển biến căn bản trong cải cách tư pháp, đã đến lúc cần
nghiên cứu tìm giải pháp đột phá về vấn đề này, đó là tiến hành cải cách ở khâu
then chốt nhất, cải cách tổ chức Tồ án. Lựa chọn vấn đề này vì xét đến cùng,
Toà án là nơi giám sát kết quả hoạt động của cả hệ thống tư pháp. Ngay cả việc
thi hành án ở khâu cuối cùng của tố tụng hình sự cũng như tố tụng dân sự cịn
gặp nhiều khó khăn cũng phải xem xét từ cội nguồn của vấn đề là chất lượng
bản án. Bản án công bằng, vơ tư ln tạo ra sức mạnh và tính chính đáng của
hệ thống cơ quan tư pháp vì nó được người dân tin tưởng “tâm phục, khẩu
phục”. Thông qua hoạt động của Toà án, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
cũng phải không ngừng nâng cao năng lực của mình bởi lẽ theo tinh thần pháp
8


quyền và pháp luật thực định nếu Toà án tuyên vô tội, ắt hẳn các Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp dưới phải thực hiện việc bồi thường nếu có
lỗi để xảy ra oan trong quá trình tố tụng. Theo Nghị quyết 49: Tổ chức hệ thống
tồ án theo thẩm quyền xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính cấp
huyện; tồ án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành
chính cấp huyện; tồ án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu xét xử phúc thẩm và
xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có
nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tồ án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc nghiên cứu cải cách Toà án theo định hướng
Nghị quyết 49 cần thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Một là, phải xuất phát từ yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước

pháp quyền là đảm bảo tính độc lập của Tồ án. Trong hệ thống các cơ quan tư
pháp hiện nay, Cơ quan điều tra tuy hoạt động độc lập theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự nhưng do do cơ chế tổ chức cán bộ, Thủ trưởng cơ quan
điều tra có thể kiêm nhiệm một chức vụ hành chính như Tổng cục trưởng, Phó
giám đốc Cơng an tỉnh, Phó trưởng Cơng an huyện nên hoạt động điều tra khó
tránh khỏi sự chỉ đạo mang tính hành chính. Ở ngành Kiểm sát, do đặc thù của
ngành về tính tập trung thống nhất, kiểm sát viên ngoài việc thực hiện thẩm
quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn bị chỉ đạo mang tính hành
chính của Viện trưởng Viện kiểm sát. Vì vậy, cần xây dựng tính độc lập của Tồ
án như một thành luỹ cuối cùng để giảm thiểu tối đa sự can thiệp từ bên ngoài
vào hoạt động của Toà án.
Hai là, xây dựng mơ hình Tồ án một mặt tạo thuận lợi cho việc thực
hiện quyền lực nhà nước nhưng cũng cần quan tâm đến lợi ích của cơng dân
khi có việc phải hệ luỵ đến chốn pháp đình. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dựng cơ quan tư pháp phải “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học
9


dân”[13] vẫn cần được quán triệt khi thiết kế phạm vi quản hạt của Toà án. Một
người dân khi tham gia tố tụng ở tồ án cấp sơ thẩm có phạm vi quản hạt q
lớn là khơng thích hợp, nhất là ở những nơi cịn khó khăn về giao thơng.
Ba là, cải cách tổ chức toà án phải đặt ra mục tiêu góp phần làm cho
cơng tác xét xử được “công bằng, liêm khiết” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng thời phải tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
Về đổi mới tổ chức và hoạt động của tịa án, Đại hội Đảng tồn quốc lần
thứ IX đã chỉ rõ là phải sắp xếp lại hệ thống tòa án nhân dân, phân định hợp lý
thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp. Tăng cường đội ngũ thẩm phán và hội
thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng. Đây là nhiệm vụ vừa có tính cấp
bách, vừa có tính lâu dài. Quốc hội khóa X trong kỳ họp thứ 11 sẽ thể chế hóa
những vấn đề này trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Còn về lâu

dài, cần tiếp tục nghiên cứu phân định lại thẩm quyền cho tòa án nhân dân theo
hướng tăng thẩm quyền cho tòa án nhân dân cấp huyện trên cơ sở bảo đảm tổ
chức tòa án theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Thực hiện đổi mới Tòa án nhân dân
tối cao để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử,
hướng dẫn tòa án áp dụng pháp luật thống nhất và quản lý tòa án địa phương về
tổ chức. Nghiên cứu để quy định và thực hiện các thủ tục tố tụng đa dạng
nhưng thống nhất trong tố tụng hình sự. Riêng về Tịa Hành chính, cần nghiên
cứu để mở rộng thẩm quyền cho tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện
hành chính. Làm thế nào để mọi người dân đều thấy rằng, cuộc sống bình n
của họ, tính mạng, tài sản của họ, danh dự và nhân phẩm của họ luôn luôn được
đặt dưới sự bảo vệ đáng tin cậy của pháp luật.
Đội ngũ thẩm phán theo đánh giá chung hiện nay vẫn còn thiếu và yếu.
Rồi đây, các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động... ngày càng đa dạng, phức tạp,
nhất là những quan hệ có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đó địi hỏi thẩm phán phải có trình độ
10


chính trị, chun mơn và nghiệp vụ cao. Do vậy, ngay từ bây giờ phải chăm lo
xây dựng đội ngũ thẩm phán ngày càng vững về chính trị, giỏi về chun mơn,
nghiệp vụ, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Về đạo đức của cán bộ tòa
án, nhân dân vẫn còn phàn nàn, nghi ngại về phẩm chất đạo đức của một số cán
bộ tư pháp, trong đó có các thẩm phán. Do vậy, cần kiên quyết hơn nữa trong
việc rà soát lại đội ngũ thẩm phán, đấu tranh và xử lý kiên quyết với những
hành vi phạm pháp của thẩm phán, làm cho đội ngũ cán bộ tòa án ngày càng
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.
Đội ngũ Hội thẩm nhân dân là một lực lượng đông đảo đại diện của nhân
dân tham gia xét xử. Hiện nay trong cả nước đã bầu được hơn 11 000 Hội thẩm
nhân dân. Các cơ quan, đoàn thể như : Hội đồng nhân dân, Tịa án, Mặt trận Tổ
quốc cần có những biện pháp thiết thực bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm

nhân dân để họ tham gia có hiệu quả hơn vào cơng tác xét xử, tránh hình thức
khi tham gia vào phiên tịa, gây tâm lý khơng bình thường cho bị cáo, các
đương sự và công chúng. Một nền tư pháp nhân dân không thể thiếu đại diện
của nhân dân tham gia xét xử, nhưng cũng không thể chấp nhận sự tham gia
mang tính hình thức của những người đại diện đó. Vì vậy, chất lượng Hội thẩm
nhân dân cần được quan tâm đúng mức hơn từ khâu giới thiệu người để bầu,
đến khâu huấn luyện, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý đội ngũ
Hội thẩm nhân dân. Đây là một trong những việc cần làm và làm càng sớm
càng tốt.
Trong hệ thống tư pháp hình sự, điều tra và cơng tố ln là mắt xích
quan trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác, kịp thời, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội. Luật pháp nước ta quy định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa các
khâu phát hiện tội phạm, điều tra và luận tội (cơng tố) nhằm mục đích truy tố
chính xác tội phạm và người phạm tội ra trước tòa án để tòa án xét xử.
11


Những thay đổi cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước thời
gian qua đặt ra trước cơ quan đảm nhiệm nhiệm vụ điều tra, công tố yêu cầu rất
cao. Đó là, các cơ quan này, một mặt phải đấu tranh có hiệu quả với các loại tội
phạm, nhưng mặt khác, không để xảy ra oan sai, làm tổn hại đến danh dự, nhân
phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân với bất cứ lý do gì. Ở đây
khơng thể lấy mục đích biện hộ cho hành vi bất hợp pháp, lấy chỉ số các vụ án,
các can phạm bị truy tố xét xử để biện hộ cho việc vi phạm các nguyên tắc của
nền tư pháp xã hội chủ nghĩa ; bởi vì, điều đó chỉ làm giảm sút uy tín của cơ
quan tư pháp và giảm lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Thi hành án là một vấn đề phức tạp hiện nay. Do những điều kiện lịch sử
nhất định, công tác thi hành án của nước ta chưa tập trung vào một đầu mối mà
còn phân tán giữa thi hành án hình sự với thi hành án dân sự và các loại án

khác. Tới đây, trước mắt cần giải quyết vấn đề án tồn đọng, đồng thời tiếp tục
nghiên cứu đưa ra một mơ hình quản lý thống nhất công tác thi hành án. Trong
tác nghiệp thi hành án, cần kết hợp giữa hoạt động có tính chất chuyên môn
nghiệp vụ của các cơ quan thi hành án với việc từng bước xã hội hóa một số
cơng việc trong thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, giảm tải cho Nhà nước
một số công việc mà lẽ ra lâu nay người dân phải làm và có thể làm được mà
không cần đến sự can thiệp của cơ quan chính quyền. Đối với các vụ án hình sự
có liên quan đến kinh tế (tài sản, tài chính), các vụ án hình sự khác có hình phạt
bổ sung về tiền và tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng cần chú trọng áp dụng
đầy đủ các chế tài về kiểm kê, kiểm soát theo quy định của pháp luật ngay từ
khi vụ án được khởi tố điều tra cho đến khi tuyên án. Có như vậy mới bảo đảm
cho mọi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh và đầy đủ.
Công chứng, luật sư và giám định tư pháp là những lĩnh vực hoạt động
nhằm mục đích hỗ trợ đắc lực cho hệ thống tư pháp. Về phương diện nhà nước,
12


hoạt động công chứng, luật sư và giám định tư pháp sẽ góp phần quan trọng
làm cho các hoạt động của hệ thống tư pháp được khách quan, nhanh chóng và
đúng pháp luật (đặc biệt là đối với hệ thống xét xử). Xét trên phương diện
quyền công dân, hoạt động cơng chứng, luật sư và giám định tư pháp góp phần
bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông
qua tư vấn pháp luật, bào chữa ; hoặc đại diện trước tòa án hay trọng tài kinh tế
để bênh vực quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức, cũng như tạo lập
và cung cấp những chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm an tồn cho cơng
dân trong các quan hệ mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ tài sản và kinh
doanh. Ở Việt Nam, công chứng, luật sư và giám định tư pháp là các lĩnh vực
hoạt động mới được phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Tuy chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn, song đã thể hiện tầm quan trọng đối với hệ thống tư

pháp nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước nói chung.
Thực tế đã và đang địi hỏi phải thành lập lực lượng cảnh sát tư pháp để
chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa, dẫn giải bị can, bị cáo, bảo vệ trại giam,
trại tạm giam, nhà tạm giữ, hỗ trợ trong công tác thi hành án và thực hiện một
số nhiệm vụ khác, góp phần hiệu quả hơn nữa vào các hoạt động tư pháp. Việc
triển khai tổ chức và hoạt động của lực lượng cảnh sát tư pháp trong điều kiện
Việt Nam cần được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi tiến hành.
Một vấn đề có ý nghĩa rất lớn là tăng cường cơ sở vật chất và các
phương tiện kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan tư pháp để các cơ quan này đủ
khả năng đấu tranh chống tội phạm. Ngân sách nhà nước hàng năm cần dành
một khoản thích đáng để đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và các trang
bị kỹ thuật hiện đại cho các cơ quan tư pháp.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tư pháp cũng như các thủ tục tố tụng để tạo cơ sở pháp lý cần
thiết cho hoạt động của các cơ quan này. Những quy định của pháp luật tố tụng
13


tuy chỉ là những quy định về thủ tục và cách thức giải quyết các vụ án, nhưng
chúng lại thể hiện rất rõ bản chất giai cấp của nền tư pháp. Một nền tư pháp dân
chủ, mang đậm tính nhân dân sẽ không chấp nhận những thủ tục tư pháp rườm
rà, nhiều tầng nấc, quan liêu và bất lợi cho các bên tham gia tố tụng. Các thủ
tục này phụ thuộc nhiều vào mơ hình tổ chức các cơ quan tư pháp. Mơ hình tư
pháp được tổ chức theo cách thức dân chủ như thế nào thì các thủ tục tố tụng sẽ
bảo đảm dân chủ đến chừng ấy. Trong thời gian trước mắt, cần sớm sửa đổi Bộ
luật Tố tụng hình sự theo hướng bảo đảm để các thủ tục tố tụng dân chủ hơn,
chặt chẽ hơn và hiệu quả hơn. Cần tăng cường vai trò của luật sư trong tố tụng
hình sự để bảo đảm tranh tụng dân chủ trước phiên tòa. Bộ luật Tố tụng dân sự
cũng cần sớm được ban hành để đáp ứng kịp thời việc giải quyết các tranh chấp
dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc

xác định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự cần phải
dựa vào những kết quả nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn thi hành Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế, hành chính ; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến các thủ tục tố
tụng như Luật Thi hành án, Pháp lệnh về giám định tư pháp... cũng cần sớm
được ban hành để tạo được sự đồng bộ và thống nhất của pháp luật tố tụng, bảo
đảm việc giải quyết các vụ án một cách kịp thời, công minh và đúng pháp luật.
Như vậy, tồn bộ tiến trình thực hiện cải cách tịa án nói riêng và cải
cách tư pháp nói chung khơng thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết
08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đã xác định: Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp
chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm cho hoạt động tư pháp thực
hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, khắc phục
tình trạng cấp ủy bng lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng
14


vào hoạt động tư pháp. Việc thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TƯ của Bộ Chính trị
khơng thể có kết quả nếu thiếu sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ
quan tư pháp. Sự phối hợp đó là một trong những điều kiện quan trọng, bảo
đảm cho Nghị quyết đi vào thực tiễn của hoạt động tư pháp hiện nay.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đã đề ra đường lối và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội những năm tới. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2001 - 2005, bên cạnh những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, văn hóa,
giáo dục, khoa học, cơng nghệ là nhiệm vụ :giữ vững ổn định chính trị và trật
tự an tồn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia, vai trị của các cơ quan tư pháp cần được củng cố và tăng cường.
Đại hội cũng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nói một cách khái qt, nhà nước pháp quyền là

hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là
nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn,
tôn trọng và bảo đảm quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những
đặc trưng đó của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng
đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi
pháp luật nghiêm minh. Do đó yêu cầu cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của các cơ quan tư pháp, là một trong những đòi hỏi bức xúc hiện
nay, là một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay.
Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X,
tại Đại hội đại biểu tồn quốc khóa XI, đánh giá: "Cải cách tư pháp cịn chậm,
chưa đồng bộ. Cơng tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường
hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều" (9). Đồng
thời trong mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011- 2015) Đảng
15


khẳng định: "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính
và cải cách tư pháp" (10). Như vậy có thể khẳng định rằng Đảng và Nhà nước
ta rất coi trọng cải cách tư pháp trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm chỉ đạo, nội dung phương hướng cải cách tư pháp ở
Việt Nam
3.1. Những quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam
Thứ nhất, Cải cách tư pháp phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Đây là quan điểm bao trùm, xuyên suốt quá trình đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm xây dựng Nhà
nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, bảo đảm
cho Nhà nước có đủ khả năng thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố và đổi mới tồn diện đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với ý nghĩa đó, tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp được đổi mới phải mang đầy đủ bản chất và
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm thực sự
chủ quyền của nhân dân
Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy
định: Nhà nước CHXHCN Việt Nam là NNPQ xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Về
bản chất, Nhà nước pháp quyền là một Nhà nước dân chủ. Trong NNPQ, chủ
quyền của nhân dân là hình thức thể hiện cao nhất của dân chủ. Tất cả quyền
lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, bởi nhân dân là chủ và là cội
16


nguồn của quyền lực nhà nước. Nhà nước là công cụ để bảo đảm thực sự chủ
quyền của nhân dân, bảo vệ pháp luật và phục vụ nhân dân. Trong NNPQ, hệ
thống các cơ quan tư pháp là công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và tự do
của nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất những mầm mống sinh ra bệnh quan
liêu, độc đoán, chuyên quyền và nạn tham nhũng xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, làm giảm uy tín của pháp luật và pháp chế. Cải cách tư
pháp phải bảo đảm cho hệ thống các cơ quan tư pháp thể hiện và giữ vững bản
chất của Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
* Nhà nước mà trong đó “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối

hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Quan điểm này được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất
nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các Văn kiện của Đảng và đã được
thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1992.
Bản chất pháp lý của nguyên tắc phân công quyền lực này là sự thể hiện
quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia vì nó bắt nguồn từ chủ
quyền của nhân dân, thể hiện đầy đủ nhất ý chí của nhân dân trong việc tổ chức
quyền lực nhà nước. Nguyên tắc phân công quyền lực trong NNPQ tạo ra cơ
chế pháp lý hữu hiệu, bảo đảm quyền giám sát của cơ quan lập pháp đối với cơ
quan hành pháp, tư pháp và quyền kiểm tra của cơ quan tư pháp đối với quyền
lập pháp và quyền hành pháp (thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp sẽ
phát hiện ra những bất cập của hệ thống pháp luật để kiến nghị với cơ quan lập
pháp sửa đổi, bổ sung và hoạt động xét xử của tòa án đối với các hành vi, quyết
định hành chính của cơ quan hành pháp xâm phạm đến quyền và lợi ích của
cơng dân). Ngun tắc này cũng tạo điều kiện cho cơ quan tư pháp hoạt động
17


độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước
thống nhất thuộc về nhân dân, hay nói cách khác, nguyên tắc này tạo ra cơ chế
pháp lý hữu hiệu để ý chí và quyền lực của nhân dân được thực hiện trong cuộc
sống.
* Nhà nước bảo đảm địa vị thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội
hay Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội chủ yếu bằng pháp luật
Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 quy định: Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên
tắc này thể hiện mối quan hệ giữa NNPQ và pháp luật trong đời sống xã hội, đó
là mối quan hệ hữu cơ và chặt chẽ, tương hỗ và bổ sung cho nhau của hai bộ
phận cấu thành quan trọng nhất thuộc thượng tầng kiến trúc, chúng phụ thuộc
vào nhau và không thể tồn tại nếu thiếu nhau.

Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, bởi pháp
luật có giá trị xã hội to lớn, mang tính phổ biến, tính chuẩn mực, tính ổn định,
tính bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước. Chức năng của NNPQ là phải xây dựng một hệ thống pháp luật
thống nhất, toàn diện, đồng bộ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của đơng đảo quần
chúng nhân dân và phù hợp với thực tiễn khách quan, đồng thời bảo đảm cho
pháp luật thực sự trở thành công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và chiếm địa
vị thống trị so với các quy phạm xã hội khác.
Mặc dù NNPQ ban hành pháp luật, nhưng pháp luật có vai trị quyết định
đối với sự hình thành và phát triển của NNPQ, nên pháp luật trong NNPQ phải
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, phản ánh thực tiễn khách quan, là
đại lượng công bằng và bình đẳng, chứ khơng phải là thứ pháp luật chủ quan,
duy ý chí. Nhà nước phải ở dưới quyền lực pháp luật, bị hạn chế và ràng buộc
bởi pháp luật… Hệ thống các cơ quan tư pháp trong NNPQ thực hiện áp dụng

18


pháp luật phải được tổ chức và hoạt động độc lập trên cơ sở pháp luật và chỉ
tuân theo pháp luật.
* Nhà nước được xây dựng trên nền tảng tư tưởng pháp lý tiên tiến của
nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế
Công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế không chỉ là mục tiêu, định
hướng cơ bản trong hoạt động thực tiễn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp, mà còn là các tiêu chuẩn, nguyên tắc được thừa nhận chung của Nhà
nước pháp quyền nhằm mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội và nhân dân.
NNPQ là Nhà nước dân chủ, bảo đảm cho mọi cơng dân đều có quyền tự do,
bình đẳng tham gia quản lý đất nước và giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của
cơ quan nhà nước. Cơng chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho
phép, cịn cơng dân được làm những gì pháp luật không cấm. Những giá trị xã

hội tiến bộ, công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế trong NNPQ phải được
thể hiện rõ trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động tư
pháp “phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội
phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng
và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng
quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân” (11).
Thứ hai, Cải cách tư pháp phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với
quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới hoạt động lập pháp và hành pháp,
phát huy sức mạnh của quyền lực nhà nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Hệ thống các cơ quan tư pháp là một bộ phận của bộ máy nhà nước nên
“cải cách tư pháp phải được tiến hành tổng thể trong cải cách bộ máy nhà nước,
trong sự liên hệ mật thiết với cải cách hành chính. Q trình cải cách đó khơng
thể tách rời việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân” (12).

19


* Cải cách tư pháp phải được đặt trong quá trình đổi mới hệ thống
chính trị và hồn thiện bộ máy nhà nước
“Mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân” (13), và để
khắc phục tình trạng “Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đồn thể chính trị, xã
hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của tình hình” (14). Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp phải gắn chặt với tổ chức và hoạt động của các
bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị của nước ta: Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội. Những kết quả và thành tựu trong việc hoàn thiện bộ
máy nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị là tiền đề cho việc cải cách tư
pháp. Ngược lại, những thành công trong cải cách tư pháp sẽ tạo điều kiện và

góp phần cho việc đổi mới hệ thống chính trị nói chung và hồn thiện bộ máy
nhà nước nói riêng theo định hướng mà Đảng đã đề ra.
* Cải cách tư pháp phải kết hợp chặt chẽ với cải cách nền hành chính
nhà nước
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định “Cải
cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước trong những năm trước mắt, cơng cuộc cải cách hành chính phải dựa
trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: Cải cách thể chế hành
chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện tồn đội ngũ cán bộ, cơng chức hành
chính” (15). Các cơ quan tư pháp cũng phải thực hiện cải cách hành chính ngay
trong hệ thống tổ chức của mình theo định hướng cải cách hành chính của
Đảng và Nhà nước, trong đó cần tập trung vào những nội dung : Đổi mới về thể
chế hành chính của các cơ quan tư pháp, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các
cơ quan tư pháp theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức của các cơ quan tư pháp đủ sức đảm nhiệm và hoàn thành tốt các
20


nhiệm vụ tư pháp của thời kỳ mới. “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp
đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ trợ tư
pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật kiến thức
mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến
thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công
lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa… Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có
trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực” (16).
Đổi mới tổ chức, hoạt động quản lý hành chính tư pháp của ngành tư
pháp. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành tư pháp, đặc biệt là đổi mới
cơ chế quản lý nhà nước của ngành tư pháp đối với các cơ quan tư pháp, tổ

chức bổ trợ tư pháp như: Cơ quan thi hành án, Công chứng, Giám định, lý lịch
tư pháp, trợ giúp pháp lý; các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật… sẽ
có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện cải cách tư pháp, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Thứ ba, Quán triệt quan điểm: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã
hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp phải
đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân. Từng bước thực hiện
xã hội hoá một số hoạt động của các cơ quan tư pháp
Trong hoạt động của mình, các cơ quan tư pháp phải chú trọng việc kết
hợp sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của nhân dân. Hệ thống các cơ quan
tư pháp phải dựa vào nhân dân, có biện pháp thu hút nhân dân tham gia tích
cực vào hoạt động tư pháp; đồng thời phải là chỗ dựa tin cậy của nhân dân
trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật. Về vấn đề này, Nghị quyết số 08-NQ/TW đã đề ra quan điểm phải “phát
huy sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội tham gia vào cơng tác tư pháp. Các cơ
21


quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng
nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp”. Nhiệm vụ của
các cơ quan tư pháp trong thời gian tới là “huy động sự tham gia rộng rãi và
tích cực của nhân dân vào cơng tác tư pháp, nâng cao hiệu quả công tác giám
sát của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp”, “thu hút
đông đảo nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, đấu tranh
phòng, chống vi phạm pháp luật, tội phạm ngay tại thôn, làng, bản, ấp, khu dân
cư” và “Nghiên cứu việc xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp” (17).
Xã hội hoá một số hoạt động của các cơ quan tư pháp là một tất yếu
khách quan xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân và xuất phát từ chủ trương phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của

Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện xã hội hoá một số hoạt
động của các cơ quan tư pháp về thực chất là tổ chức cho nhân dân tham gia
vào hoạt động tư pháp. Đó là q trình thu hút sức mạnh, trí tuệ của nhân dân
làm thành sức mạnh của Nhà nước, là hình thức phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và là cơ sở để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Khi nhấn mạnh yêu cầu mở rộng dân chủ, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
BCHTW Đảng (Khoá VIII) đã chỉ ra phương hướng “đổi mới quản lý nhà nước
đối với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp... phù hợp với
chủ trương xã hội hoá; kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ
chức nghề nghiệp” (18).
Thứ tư, Cải cách tư pháp trên cơ sở kế thừa truyền thống pháp lý dân
tộc, những thành tựu đã đạt được; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của
nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập
quốc tế, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội trong tương lai

22


Qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, hệ thống các cơ quan tư
pháp đã có những bước trưởng thành về mọi mặt. Các cơ quan tư pháp đã có hệ
thống tổ chức tương đối ổn định từ trung ương đến địa phương với đội ngũ
công chức khá đơng đảo về số lượng, trình độ chun mơn, nghiệp vụ ngày
càng được nâng cao; vị trí, vai trị của các cơ quan tư pháp ngày càng được
khẳng định trong việc thực hiện quyền tư pháp và trong đời sống xã hội, đã có
những đóng góp đáng kể vào thắng lợi chung của công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp thời gian qua, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới,
chủ động hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra
phương hướng tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

trên cả ba lĩnh vực: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở cho
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp; củng cố,
kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp và xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký
toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Công chứng viên, Giám
định viên, Luật sư v.v.. có phẩm chất chính trị và đạo đức chí cơng vơ tư, có
trình độ chun mơn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch,
vững mạnh.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, quá trình cải
cách tư pháp cần phải nghiên cứu, học tập, tiếp thu có chọn lọc các kinh
nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp của các nước có nền tư
pháp phát triển phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và truyền thống
văn hoá của Việt Nam nhằm sớm “tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện,
phương tiện làm việc” (19).
23


Quán triệt quan điểm này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra các nhiệm vụ
cải cách tư pháp, trong đó có nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp mà nền tư pháp của các nước phát triển có nhiều kinh
nghiệm như: Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, khơng phụ
thuộc vào đơn vị hành chính. Tồ án nhân dân tối cao tập trung thực hiện tổng
kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án
lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát
thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều
tra. Chuẩn bị điều kiện để chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ
Tư pháp. Xây dựng lực lượng cảnh sát tư pháp chính quy để hỗ trợ cho hoạt
động xét xử, thi hành án; thực hiện xã hội hoá hoạt động bổ trợ tư pháp v.v..
Thứ năm, Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ,

có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Xác định
đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm
đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và
chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm
bắt cái mới” (20).
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một nhiệm vụ
rất khó khăn, phức tạp và là một quá trình có liên quan chặt chẽ với tổ chức và
hoạt động của nhiều cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, đổi mới tổ chức
và hoạt động của các cơ quan tư pháp cần phải có bước đi, biện pháp thích hợp,
vững chắc, đồng bộ; xây dựng định hướng trước mắt và chiến lược lâu dài phù
hợp với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp
và các tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến hoạt động tư pháp nhằm bảo
đảm tính ổn định, liên tục trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
24


Trước mắt, tập trung nghiên cứu thể chế hoá các chủ trương cải cách tư
pháp của Đảng đã đề ra. Hồn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự
phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục hoàn
thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, tạo hành lang, môi trường
pháp lý thuận lợi cho quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp. Kết hợp các giải pháp trước mắt và lâu dài trong việc đổi mới tổ chức
và hoạt động các cơ quan tư pháp một cách đồng bộ, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế, xã hội và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Giải pháp lâu dài tạo
ra định hướng cải cách tư pháp mang tính chiến lược cơ bản, trên cơ sở đó xác
định các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới cụ thể cho từng giai đoạn
trong tổng thể định hướng chiến lược.

Thứ sáu, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xác định rõ nội dung
và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp
Đảng ta là Đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích của nhân dân và của
toàn dân tộc. Nghị quyết số 08-NQ/TW đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo các cơ quan
tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp
thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước” (21), khắc phục
tình trạng cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào
hoạt động tư pháp. Sự lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ của Đảng đối với các cơ
quan tư pháp là yêu cầu khách quan và cần thiết để bảo đảm cho các cơ quan tư
pháp thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư
pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của nhà nước, hạn chế
các sai sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

25


×