Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tìm HIỂU về CUỘC XUNG đột ISRAEL PALESTINE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.47 KB, 34 trang )

TÌM HIỂU VỀ CUỘC XUNG ĐỘT ISRAEL-PALESTINE
Cuộc xung đột Israel-Palestine đã và đang diễn hơn 70 năm rồi, đã
có vơ số sách báo, tài liệu viết về nó. Tuy nhiên do sự không cân bằng
trong việc phổ biến và giải thích tin tức của giới truyền thơng, vẫn cịn có
khơng ít những ngộ nhận đây đó trong dư luận về tính chất của cuộc xung
đột cũng như lập trường của các bên liên quan; đặc biệt là về mối quan hệ
Mỹ-Israel và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Do Thái lên các chính sách của
Mỹ quanh cuộc xung đột. Bài viết vắn tắt này là một nổ lực khiêm tốn góp
phần tim hiểu thêm về mối quan hệ và ảnh hưởng đó, ngỏ hầu giúp xố bớt
một số ngộ nhận đã có từ lâu nay.
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ISRAEL-PALESTINE
Các thư tịch khảo cổ cho thấy rằng tổ tiên người Do Thái (Hebrews,
Jews, hay Israelis) đã hiện diện trên vùng đất có tên là Canaan( gồm Israel,
West Bank và một phần Jordan ngày nay) từ khoảng 1800 năm trước Công
Nguyên(BC). Cực thịnh là vương quốc Do Thái (Israelite kingdom) dưới
thời vua David khoảng 1000 năm trước CN với Jerusalem là thủ đơ.
Nhưng rồi sau đó, vương quốc Do Thái lần lượt bị các đế quốc
Assyrians (720 BC), Babylonians (khoảng năm 580 BC), Ba-Tư và Hy-Lạp
(khoảng năm 320 BC) xâm chiếm. Nhiều người Do Thái bị lưu đày ra khỏi
vùng đất Canaan.
Đến khoảng năm 200BC, người Do Thái lại phục hồi được vương
quốc quanh vùng Palestine ngày nay với Jerusalem làm thủ phủ. Sự tự trị
này chấm dứt năm 61BC khi đế quốc Roma đến xâm chiếm, trục xuất
người Do Thái ra khỏi Jerusalem. Đế quốc Roma cai trị vùng này cho đến
khoảng năm 320 sau Cơng Ngun (320 AD).Chính dưới thời cai trị của
Roma mà tên Palestine ra đời. Sau đế quốc Roman, đến lượt đế quốc


Byzantine của Syrian chiếm cứ và cai trị vùng Palestine cho đến khi bị Hồi
Giáo đánh đuổi.
Qua thế kỷ thứ 7AD thì các đế quốc Hồi Giáo bắt đầu làm chủ phần


lớn Trung Đông và các bản đảo Arabs, trong đó có cả vùng Palestine.
Trong hàng chục thế kỷ tiếp theo, Hồi Giáo và Thập Tự Quân (Crusaders)
thay nhau làm chủ khu vực. Jerusalem trở thành vừa là thánh địa của Do
Thái Giáo(Judaism), Ky-tô Giáo, và cả của Hồi Giáo (Islam).
Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhỉ Kỳ chinh phục tồn bộ Trung
Đơng năm 1517 và tồn tại cho đến khi Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc năm
1918.
Như vậy, kể từ năm 61AD trở đi vương quốc Do Thái đã biến mất
trên bản đồ Trung Đông, dân Do Thái lưu tán ra khắp nơi, và khơng cịn là
cư dân chính của vùng Palestine trong hàng ngàn năm.Đến cuối thời đế
quốc Ottoman, năm 1918, số lượng người Jews sinh sống ở vùng Palestine
cịn lại rất ít, chừng khoảng 30,000 trên tổng số gần 500,000 dân cư.
Người Palestinians xuất hiện cùng thời với người DoThái, nhưng ở
dọc theo duyên hải giữa Địa Trung Hải và vùng sơng Jordan. Thời xưa họ
cịn được gọi là người Philistine, không thờ cùng God với người Do Thái,
nhưng thờ các thần khác. Người Palestinians là một trong những chiến sĩ
đầu tiên biết xữ dụng binh khí bằng sắt trong những cuộc chiến chống lại
King David của người Do Thái. Thời LaMã cai trị, Kitô giáo được truyền
bá rộng rãi và có nhiều người Palestinians theo. Sau đó, dưới sự cai trị của
đế quốc Ottoman, Hồi Giáo lại là tơn giáo chính của đa số người
Palestinians.
Đệ I Thế Chiến bùng nổ, Thổ đứng về phe Tam cường Liên Minh
Đức-Áo-Thổ (Triple Alliances) chống lại phe Tam Cường Đồng Minh AnhPháp-Nga ( Triple Entente). Anh Quốc rất quan tâm đến vùng Trung Đông,


xem đó là vùng chiến lược vì là nguồn dầu hỏa, là đầu cầu dẩn vào Ấn Độ,
thuộc địa quan trọng và béo bỡ nhất của đế quốc Anh, và kênh đào Suez.
Để củng cố lực lượng của mình trong Vùng, Anh Quốc bèn hứa với dân
Arabs là sẽ giúp họ thoát khỏi sự cai trị của đế quốc Ottoman của Thổ để
được độc lập một khi chiến tranh kết thúc. Một mặt khác Anh Quốc, do nổ

lực vận động của Zionist Organization, một tổ chức của người Jews
(DoThái) có khuynh hướng bài Nga thân Đức, cũng hứa với người Jews
(Do Thái), qua tuyên bố Balfour (Balfour Declaration) năm 1917, sẽ giúp
họ thành lập một quốc gia trên vùng Palestine. [1]
Khi Đệ I Thế Chiến kết thúc, Anh quốc không giữ lời hứa trao trả
độc lập cho người Arabs. Trái lại, Anh-Pháp trước đó đã ký mật ước
Sykes-Picot (George Picot, phiá Pháp và Mark Sykes, phía Anh) chia
phần với nhau, theo đó Pháp kiểm sốt một phần Turkey, Syria, Bắc Iraq,
và Lebanon; trong khi Anh cai quản Nam Iraq, Jordan và vùng phía Bắc
Israel ngày nay. Ngồi ra, trên danh nghĩa, Anh được Hội Quốc Liên
(League of Nations) trao quyền Uỷ trị (mandate) vùng Palestine. Kể từ đó
người Jews (Do thái) từ các nơi trên thế giới, với sự che chở của Anh quốc,
bắt đầu về định cư ở vùng Palestine. Ngay ở giai đoạn này, sự định cư của
người Do Thái đã gây ra nhiều sự chống đối từ người Palestinians là dân cư
ngụ ở đó từ lâu đời. Năm 1922 khi người Anh làm thống kê dân số vùng
Palestine thì có khoảng 84,000 người Do Thái, chừng 670,000 ngưịi
Palestinians trong đó có hơn 70,000 người theo Kitơ Giáo.
Năm 1947, Liên Hiệp Quốc tùy tiện phân chia vùng Palestine, trao
cho người Do Thái hơn một nửa lãnh thổ Palestine để lập quốc; chừa lại
hai vùng West Bank, nằm gần sông Jordan và Gaza, nằm dọc biển Địa
Trung Hải, cho người Palestinians. Hai vùng West Bank và Gaza nằm hai
bên lãnh thổ của Israel, cách nhau chừng hơn 40 km.


QUAN HỆ ISRAEL-MỸ
Có thể nói ngay rằng quan hệ Israel-Mỹ là một quan hệ song phương
đặc biệt có một khơng hai trong chính trường quốc tế trong hơn nửa thế kỷ
qua. Israel là quốc gia nhận nhiều viện trợ kinh tế quân sư nhất từ
Mỹ.Trung bình mỗi năm Mỹ viện trợ trực tiếp cho Israel chừng 3 tỉ dollars,
với dân số chỉ hơn 6 triệu người, mức viện trợ như vậy tính ra mổi người

dân Israel được hưởng gần 500 dollars/ năm! Theo Green Book của
USAID (US Agency for International Development) thì tính cho đến năm
2003, Mỹ đã viện trợ tổng cộng lên đến 140 tỉ dollars cho Israel [2]
Đặc biệt hơn nữa là trong khi các quốc gia khác nhận viện trợ theo
từng tam cá nguyệt, Israel được nhận trọn gói ngay từ đầu năm. Về viện trợ
quân sự, các quốc gia nhận viện trợ chỉ được phép xử dụng tiền viện trợ
ngay trên đất Mỹ; nghĩa là phải mua lại qn trang, qn dụng, vũ khí từ
các cơng ty Mỹ. Trong khi đó Israel lại được quyền xử dụng 25% tài khoản
viện trợ quân sự để tài trợ cho kỷ nghệ quốc phịng của riêng mình, đồng
thời khơng cần báo cáo cho phía Mỹ cách thức chi tiêu ngân khoản viện trợ
quân sự Israel đã nhận. Mỹ cũng ưu tiên tài trợ cho Israel trong việc chế
tạo các loại vũ khí tối tân, được tham khảo bản vẽ các loại vũ khí mới, như
bản vẽ phi cơ trực thăng Blackhawk hoặc phản lực cơ F.16 chẳng hạn. Nổi
bật nhất là Mỹ đã làm ngơ cho Israel nghiên cứu và chế tạo thành cơng
bom ngun tử[3], đã tìm cách ngăn cản không cho khối Arabs đưa vấn đề
nguyên tử của Israel ra trước Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
(International Atomic Energy Agency).
Về mặt ngoại giao, tính đến nay, Mỹ đã dùng quyền phủ quyết (veto)
40 lần tại Hội Đồng Bảo An LHQ để bảo vệ cho Israel trước những nghị
quyết bất lợi của Hội Đồng này[4]. Mỹ cũng luôn đứng về phiá Israel trong
tất cả các cuộc xung đột từ trước đến nay giữa nước này và các quốc gia


Arab và dân Palestine. Mỹ cũng ngay cả ủng hộ Israel trong việc chiếm
đóng, một cách bất cơng và trái phép, West Bank và Gaza strip, của người
Palestien trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967.
LÝ DO CÔNG KHAI CỦA VIỆC MỸ ỦNG HỘ ISRAEL
Một cách chính thức, các giới chức và dư luận báo chí Mỹ thường
đưa ra các lý do sau đây để giải thích cho mối quan hệ đặc biệt Mỹ-Israel:
1.- Israel là Đồng minh Chiến lược: Đây là lý do đầu tiên được

chính giới Mỹ viện dẫn nhiều lần, nhất là các nghị sĩ, dân biểu trong Quốc
Hội. Trong suốt thời Chiến Tranh Lạnh, Israel là một đồng minh quan trọng
trong việc ngăn chận sự lan tràn ảnh hưởng của Liên Sô vào Trung Đông.
Trong cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, Israel với sự viện trợ của Mỹ đã
chiến thắng Egypt và Syria do Liên Sô hậu thuẩn. Cuộc chiến này là một
nổi nhục nhã cho các nước Arabs, đồng thời làm sút giảm uy tín của Liên
Sơ trong Vùng.
Israel cũng là một nguồn tình báo quan trọng cho Mỹ trong việc theo
dõi các hoạt động quân sự của Liên Sô.
Uỷ ban American-Israel Publich Affair Committee (AIPAC) đã từng
cho rằng:” Mỹ và Israel đã hình thành một sự hợp tác đặc thù để đáp ứng
với những đe dọa chiến lược đang gia tăng ở Trung Đông… Nổ lực hợp
tác này mang lại những lợi ích quan trọng cho cả hai bên “ (The US and
Israel have formed a unique partnership to meet the growing strategic
threats in Middle East… This cooperative effort provides significant
benefits for both US and Israel)[5] Điều đó ám chỉ về vai trị vị trí tiền tiêu
của Israel trong thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông giữa khối dân Arabs
đông đảo.
2.-Ủng hộ một nước nhỏ bị bao vây giữa các nước lớn ở chung
quanh, một dân tộc đã bị bách hại nặng nề trong Đệ Nhị Thế Chiến dưới


chế độ Đức Quốc Xã. Dư luận Mỹ luôn đem so sánh mối tương quan
Israel-Arabs với thế đối địch bất cân xứng giữa chàng tí hon Davis và
người khổng lồ Goliath trong Cựu Ước Kinh. Cuộc tàn sát, có tên là
Holocaust, theo đó chế độ Hitler được báo cáo là đã giết 6 triệu người
Jews, đã được các học giả Mỹ xử dụng như là nền tảng đạo đức của việc
phục hồi và bảo vệ nước Israel cho người Do Thái.
(Một chi tiết nhỏ cần lưu ý là ở Mỹ và các nước Âu Châu, một người
có thể cơng khai tun bố tại nơi cơng cộng là:” khơng có Chúa, hay

Thượng Đế!” mà không gặp bất cứ một rắc rối pháp lý nào cả. Nhưng nếu
tuyên bố rằng :” không hề có Holocaust!” là chắc chắn sẽ bị phiền phức,
phải ra tồ và khơng chừng cịn bị tù. Khơng hiểu tại sao như vậy?)
3.-Ủng hộ một chế độ Dân chủ: Một lý do chính trị khác trong việc
Mỹ hậu thuẩn cho Israel là vì dư luận Mỹ cho rằng Israel là chế độ dân chủ
tiến bộ, mẫu mực nhất ở Trung Đông, cần phải bảo vệ cho chế độ ấy tồn tại
giữa sự bao vây của các chế độ chuyên chế trong Vùng.
4.-Người Jews là một dân tộc hiếu hoà, thơng minh, có một lịch
sử lâu đời. Do Thái Giáo có mối quan hệ rất gần gủi với các tơn giáo lớn
của Tây Phương như Công Giáo, Tin Lành, v.v…Trong khi đó dưới mắt
dư luận Mỹ, các dân tộc Arabs thường hiếu chiến, bạo động, có khuynh
hướng khủng bố, kém ý thức dân chủ, và nhất là theo Hồi Giáo; một tơn
giáo có một lịch sử lâu dài đối địch với Ki-tơ Giáo.
Trên đây là những lý do mà chính khách, học giới và truyền thông
Mỹ, từ suốt mấy chục năm qua, thường dùng để công khai biện minh cho
mối quan hệ hữu nghị có một khơng hai Mỹ-Israel. Tuy nhiên, phân tích
kỷ, người ta khơng khỏi khơng thấy những điểm gượng gạo trong các lý do
trên.


Chẳng hạn, vai trị đồng minh chiến lược có thể ít nhiều có giá trị
trước đây khi khối Cộng Sản Liên Sơ cịn tồn tại.Nhưng, ngay ở điểm này
cũng cần phải chú ý rằng Israel không phải là yếu tố duy nhất ngăn chận sự
lan rộng ảnh hưởng của cộng sản trong Vùng; chính là vai trị văn hố và
tơn giáo của khối Ả rập đã làm cho chủ thuyết Marxist-Leninist không xâm
nhập được. Hơn nữa, nay Chiến Tranh Lạnh đã kết thúc, khối Liên Sô đã
sụp đổ gần hai thập niên rồi, khơng cịn một đối thủ nào dịm ngó, uy hiếp
ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đơng nữa, vậy tại sao sự gắn bó Israel-Mỹ vẫn
khơng thay đổi?
Về chế độ Dân chủ ở Israel thì cũng có nhiều vấn đền chưa được

giới truyền thơng Mỹ phân tích sâu rộng và vơ tư. Đối với nhiều người, nói
đến Dân Chủ là nói đến sinh hoạt chính trị có hơn một đảng trở lên, có các
cuộc phổ thơng đầu phiếu để người cơng dân bầu lên người đại diện của
mình.
Tuy nhiên, một nền Dân chủ đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở cơ
cấu đảng phái và quyền đầu phiếu. Những địi hỏi khác quan trọng
khơng kém và là nền tảng cho sinh hoạt chính trị dân chủ là sự bình đẳng
giữa các thành viên trong xã hội, là những nhân quyền căn bản được tôn
trọng. Nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế như Hội Ân Xá Quốc
Tế( Amnesty International) hay Uỷ ban về các quyền Kinh tế, Xã hội và
Văn hoá của Liên Hiệp Quốc( UN Committee on Economic, Social and
Cultural Rights) cho thấy ở Israel khơng có sự bình đẳng xã hội. Những ai
đã quen với xã hội hợp chủng ở Mỹ chắc sẽ rất ngạc nhiên và bất bình
trước tính cách kỳ thị chủng tộc mạnh mẽ trong xã hội Israel[6]. Chỉ có
người Jews chính gốc dựa trên nguyên tắc huyết hệ ( the principle of blood
kinship) mới thật sự là công dân Israel được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi
và sự che chở của Nhà Nước. Ngay cả những người Arabs kết hôn với


người Israeli cũng không được trở thành công dân Israel và cư trú ở đó.
Người Arabs, hiện có đến chừng 1.3 triệu ở Israel, và các dân thiểu số khác
ở Israel, chỉ là công dân hạng hai, không được hưởng những quyền sỡ hữu
về đất đai ngang với những người Jews. Các thăm dò dư luận giữa dân
Israel cho thấy có đến hơn 57% người Jews khơng chấp nhận sự bình đẳng
với các sắc dân khác và chỉ muốn trục xuất tất cả người Arabs ra khỏi lãnh
thổ Israel.
Ngoài ra, một báo cáo của Thơng Tín Viên Đặc Biệt của Liên Hiệp
Quốc ( UN Special Rapporteur) ghi ngày25/8/2008 về tình hình nhân
quyền của người Palestine ở trong những vùng Israel chiếm đóng từ cuộc
chiến tranh 6 ngày năm 1967 cho thấy rằng chính phủ Israel đã có những vi

phạm trầm trọng luật nhân quyền quốc tế đối với người Palestine trong
vùng lãnh thổ chiếm đóng, nhất là ở vùng West Bank và Gaza. Cuộc chiếm
đóng 40 năm của Israel đã tước đi hầu hết những dân quyền căn bản của
người Palestine về pháp lý, giáo dục, y tế, kinh tế và văn hoá, gây những
hậu quả xã hội nghiêm trọng và lâu dài cho người Palestine.[7]
Những sự kiện trên đây cho thấy rằng dân Jews, hay Israeli, không
là dân tộc hiếu hồ, như giới truyền thơng Mỹ đã ln quảng bá. Đúng là
họ có một lịch sử lâu dài và rất thông minh, nhưng họ cũng rất hiếu chiến
và không kém phần độc ác so với bất kỳ dân Arabs nào khác. Trong những
ngày đầu mới thành hình, các tổ chức Zionists của người Jews cũng đã xử
dùng sự khủng bố (terrorism) làm phương cách hoạt động để đạt các mục
đích của mình, giết hại nhiều thường dân vơ tội, hay ngay cả như ám sát
Hoà Giải Viên của Liên Hiệp Quốc Kể, Quận Công Folke Bernadotte năm
1948, chẳng hạn, chỉ vì ơng này đề nghị Quốc tế hố thành phố Jerusalem.
Từ ngày lập quốc, năm 1948, Israel đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh, nhiều
trăm ngàn người Palestine đã bị giết, hàng triệu người khác đã bị tước đoạt


hết đất đai, sống tha phương trong các trại tị nạn, nhiều ngàn nhà thờ Hồi
giáo trong Vùng đã bị phá huỷ.
Ngoài ra,cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, và sau này cuộc chiến
tranh Yom Kippur (tên một ngày lễ của Israel) năm 1973 cho thấy rằng
Israel đối với các nước Arabs không phải là một chàng Davis nhỏ nhắn
trước một anh khổng lồ Golliah. Sự so sánh đó chỉ đúng trên phương diện
dân số và diện tích đất đai lúc đầu vào năm 1948. Nhưng xét trên bình diện
khả năng qn sự thì Israel khơng phải là một nước yếu nhược đứng trước
các cường quốc. Trái lại, Israel là một cường quốc nguyên tử với kinh tế
phát triển, hoả lực và vũ khí tối tân ln ln áp đảo các nước Arabs với vũ
khí thơ sơ và kinh tế kém phát triển. Điều này trái ngược với lý do thứ 2
nêu ở trên rằng Mỹ phải ủng hộ Israel vì nước này yếu đuối đứng trước sự

đe doạ của khối Arabs đơng đảo và ở thế mạnh.
Tóm lại , những lý do thường được công khai viện dẫn cho các chính
sách của Mỹ đối với Israel là khơng phù hợp với thực tế, khơng giải thích
được một cách thỏa đáng câu hỏi căn bản về mối quan hệ đặc biệt của hai
quốc gia. Trái lại những phân tích khách quan các sự kiện lịch sử cho thấy
có hai khía cạnh khác, sâu xa và kín đáo hơn, ít được cơng luận biết đến,
của mối quan hệ Mỹ-Israel; đó là:
1-Mỹ muốn chế ngự Trung Đông và kho dầu lửa của nó, và để đạt
mục đích đó, Mỹ đã xử dụng con bài Israel trong chiến lược cân bằng
quyền lực từ xa (off-hand balance of powers); chiến lược này ít ra đã áp
dụng được cho đến khi chiến tranh Iraq xảy ra năm 2003, khi Mỹ phải trực
tiếp can thiệp.
2.- Do tham vọng tái lập một nước Isreal Lớn , người Do Thái đã nổ
lực vận động hành lang (Jewish Lobby) để hướng dư luận và chính sách
của Mỹ vào mục tiêu đó.


KHỐNG CHẾ TRUNG ĐƠNG
Động lực chính yếu khiến Mỹ ln xem trọng và quyết tâm duy trì
mối quan hệ chặt chẻ với Israel; đó là độc tơn khống chế nguồn dầu lửa ở
Trung Đơng. Đó cũng là nền tảng trong chính sách của đế quốc Anh trong
thập niên đầu của thế kỷ 20 đối với khối Arabs trong Vùng. Vì động cơ đó,
Mỹ cần đến Israel như một căn cứ tiền tiêu trong việc chống lại các trào
lưu quốc gia (nationalism) của các nước Arabs, gây xáo trộn, làm suy yếu
và chia rẽ giữa các quốc gia này, kìm hảm đà phát triển kinh tế, ngăn cản
họ đoàn kết chặt chẻ lại thành một khối trên căn bản tôn giáo chung,
Muslim, để bảo vệ nguồn tài nguyên dầu hỏa, là máu của nền văn minh thế
giới hiện đại. Sự hùng mạnh và đoàn kết của các nước Arabs theo chủ
nghĩa quốc gia bị xem là mối đe doạ nghiêm trọng cho sự khống chế của
Mỹ đối với chính tình và nguồn dầu lửa ở Trung Đông.

Đệ nhị thế chiến đã làm cho Âu Châu, ở cả hai phe, suy sụp hoàn
toàn. Vị thế bá chủ của đế quốc Anh cũng dần dà biến mất, nhường chỗ cho
siêu cường đang lên là Mỹ. Cuộc chiến đã làm cho Anh quốc gần như phá
sản, mắc một số nợ lớn; trong lúc Mỹ lại trở thành chủ nợ hầu như của tất
cả các cường quốc của khối Đồng Minh. Anh đã đành phải nhường dần điạ
vị của mình cho Mỹ. Cùng với việc phát hiện ra Arab Saudi và mối quan hệ
đặc biệt giữa Tổng Thống Mỹ Roosevelt và vua Abdul Aziz Saud, Mỹ đã
khống chế được một vựa dầu lớn. Trong số 7 công ty dầu hỏa lớn nhất thế
giới từ trước đến nay; người ta còn gọi là “7 chị em “(seven sisters), thì Mỹ
đã chiếm hết 5. Đó là Mobil, Exxon, Texaco, Chevron và Gulf Oil. Hai
công ty kia là BP (British petroleum) and Shell của Anh. Dầu hỏa, như vậy,
mang dấu ấn rất nặng của văn minh Anglo-Saxon. Những cơng ty dầu hỏa
này đơi lúc cịn được gọi là Big Oils, kiểm sốt hầu như tồn bộ dầu hoả rẻ
tiền của Trung Đơng, cung cấp dầu cho tồn thế giới.


Sau Đệ nhị Thế chiến,với kế hoạch Marshall, 5 công ty dầu của Mỹ
trở thành độc quyền cung cấp dầu cho Âu châu. Các quốc gia Âu châu, trái
lại không được dùng tiền của kế hoạch để xây dựng nhà máy lọc dầu riêng
cho mình. Sự độc quyền đó đã giúp cho Big Oils thu được những lợi nhuận
khổng lồ. Điều này đóng góp vào sự cực thịnh của kinh tế Mỹ trong thập
niên 1950s. Nhờ vào giá dầu quá rẻ mà hệ thống xa lộ liên bang ra đời dưới
đạo luật National Defense Highway Act. Cùng với hệ thống giao thông là
kỷ nghệ xe hơi bùng phát với những cơng ty xe hơi lớn có ảnh hưởng rất
quan trọng đối với kinh tế Mỹ, đến độ bộ trưởng Quốc phịng Mỹ, ơng
Wilson, đã có câu nói bất hủ: “Cái gì tốt cho General Motors thì cũng tốt
cho nước Mỹ” (What’s good for General Motors is good for America)
(General Motors là một hảng chế tạo xe hơi lớn của Mỹ).
Bảo về nguồn dầu hỏa Trung Đông, như vậy, là rất quan trọng, trở
thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử chính sách đối ngoại của Mỹ ở Trung

Đông trong hơn nửa thế kỷ nay. Có thể tìm thấy rất nhiều dấu vết của động
cơ ấy qua chính sách của Mỹ trong thời gian ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến
đối với Iran, phản ứng trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, cuộc chiến IranIraq, cuộc chiến vùng Vịnh 1991, cuộc chiến Iraq 2003 và trong quá trình
cuộc xung đột Israel-Palestine.
Quan điểm của Mỹ về Trung Đơng được tóm tắt trong học thuyết
Carter. Vị TT này từng tuyên bố năm 1980: “ Bất cứ toan tính của một lực
lượng bên ngồi nào nhằm kiểm soát vùng Vịnh sẽ bị coi như là một hành
động tấn cơng vào quyền lợi sống cịn của Mỹ, sẽ bị đẩy lùi bằng mọi
phương cách cần thiết, kể cả bằng quân sự”.
(Any attempt by any outside force to gain control of the Persian Gulf
region will be regarded as an assault on the vital interest of the US. It will
be repelled by use of any means necessary including military force).


Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Henry Jackson cũng từng nói rằng :”
Những đe doạ đối với sự liên tục của dòng dầu hỏa từ vùng Vịnh là hết sức
nguy hiểm cho nền kinh tế của Tây Phương và Nhật Bản đến mức có thể
gây ra đại chiến” ( Threats to the continuous flow of oil through the Gulf
would so much endanger to the Western and Japanese economies as to be
grounds for general war)
1.-Đối với Iran. Lúc đầu Iran và Israel được xem là hai đồng
minh chính của Mỹ ở Trung Đơng. Anh Quốc kiểm sốt vựa dầu của
nước này qua công ty Anglo-Iranian Oil Company. Nhưng rồi, đến năm
1953, thủ tướng Mohammed Mossadegh, do dân Iran bầu lên, muốn tìm
cách quốc hữu hố, có bồi thường thoả đáng, cơng ty dầu hoả đó để có vốn
phát triển kinh tế Iran. Kế hoạch của Mossadegh gặp phải phản ứng dữ dội
của Anh-Mỹ. CIA liền tìm cách lật đổ Mossadegh, vu cáo ông này là Cộng
Sản, và tái lập chế độ quân chủ của vương triều Peacock Throne, đưa vua
Shah trở lại cầm quyền Iran.Khi cầm quyền,việc đầu tiên của Shah là ký
nhượng việc mua bán dầu cho các công ty dầu hoả Tây Phương, trong đó

các cơng ty Mỹ chiếm 40%, với những điều kiện rất dễ dàng. Chế độ cai trị
của Shah độc đốn, hà khắc, lịng dân Iran rất oán hận. Shah tồn tại được
26 năm chỉ nhờ một chỗ dựa duy nhất; đó là sự hậu thuẩn của Mỹ. Điều
này giải thích vì sao năm 1979, khi phong trào Hồi Giáo Căn Để ( Islamic
Fundamentalism) do Ayatollah Khomenei lãnh đạo lật đổ Shah, lập nên
chế độ Hồi giáo ở Iran ,chính quyền của Khomenei đã bắt giam con tin Mỹ
trong hơn một năm, làm mất thể diện của Mỹ trước cộng đồng quốc tế, làm
sút giảm uy tín của Mỹ ở Trung Đơng. Từ đó Iran và Mỹ-Israel trở nên thù
địch cho đến nay.
2.-Chiến tranh 6 ngày: Tháng 6 năm 1967, Israel , áp dụng chiến
lược “ tấn công ngăn ngừa” ( preventative attack),bất thần tấn công Egypt,


Syria và Jordan. Với ưu thế tuyệt đối về tình báo, không quân và hoả lực,
chỉ trong 6 ngày Israel đã gây thương vong cho hơn 10,000 lính Arabs, phá
huỷ 340 máy bay. Ngược lại phía Israel chỉ chết hơn 300 lính và khoảng 30
phi cơ bị bắn hạ. Israel chiếm cao nguyên Goland của Syria, bán đảo Sinai
của Egypt, dải Gaza và vùng West Bank tiếp giáp với Jordan. Lãnh thổ của
Israel đã tăng gấp 3 lần sau cuộc chiến 6 ngày này, dồn đuổi hơn 220,000
người Palestinians ra khỏi nơi cư trú của họ.[8]
Mỹ đã làm tất cả để hậu thuẩn cho Israel trong cuộc chiến này: cung
cấp tin tức tình báo, viện trợ các loại vũ khí và máy bay tối tân, ngay cả
cho dùng phi cơ khơng qn Mỹ hố trang và phi cơng Mỹ với passport
dân sự trong các phi vụ tiếp liệu cho Israel, v.v…Quan trọng hơn nửa là
chính phủ Mỹ đã dùng quyền veto để chống lại đề nghị Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết buộc Israel trao trả các lãnh thổ đã chiếm
đóng.[9]
Một điều quan trọng hơn nữa là đến năm 1967, Israel đã thành công
trong việc sỡ hữu vũ khí ngun tử với sự giúp đỡ của cơng ty NUMEC, và
của hai chính phủ Mỹ và Pháp. Tính đến năm 1969, Israel có tổng cộng

chừng từ 12 cho đến 16 đầu đạn nguyên tử. Điều này trái với lời hứa của
Thủ tướng Israel Eshkol đã đưa ra năm 1966 rằng Israel sẽ không là nước
đầu tiên sản xuất vũ khí ngun tử ở Trung Đơng. Israel khơng bao giờ ký
Hiệp ước Hạn chế Phổ biến Nguyên tử (Nuclear non-proliferation Treaty)
cũng không hề chấp thuận cho việc thanh tra nguyên tử đối với đất nước
của họ.
Lập trường của Mỹ trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 giữa các nước
Arabs và Israel như trên không được xem là một thành cơng về mặt ngoại
giao. Khối Arabs từ đó càng nghi ngờ chính sách của Mỹ hơn, dư luận
Arabs càng ngày càng trở nên chống Mỹ. Khơng khí thù địch giữa Mỹ-


Israel và khối Arabs, cứ qua mỗi biến cố chiến tranh, lại càng gia tăng hơn,
làm thất bại mọi nổ lực kiến tạo một sự ổn định lâu dài cho Trung Đông
hoặc giúp giải quyết số phận đau khổ của hàng triệu người Palestine đang
sống trên đất của họ cũng như những người đã và đang sống trong tình
cảnh tị nạn trong hơn nửa thế kỷ qua ở rãi rác khắp các nước Egypt, Syria,
Jordan, Lebanon, v.v…
3.-Kế đến là cuộc chiến Iran-Iraq (1980-1988). Iraq và Iran đã
từng xung đột nhau nhiều lần trong lịch sử. Từ sau khi Ayatollah Khomeini
lên cầm quyền, Iran đã ngấm ngầm xúi dục dân Iraq thuộc hệ phái Shiite
nổi lên chống lại sự cầm qưyền của hệ phái Sunni. Saddam Hussein cũng
có tham vọng biến mình thành lãnh tụ của Arabs đầu tiên đánh bại người
Persians, chiếm lại vùng lãnh thổ Shatt-al-Arab.
Khi chiến tranh bắt đầu vào năm 1980, bề ngoài Mỹ đứng trung lập,
nhưng bên trong ngấm ngầm khuyến khích Saddam Hussein. Cả hai chính
phủ Mỹ, Carter và Reagan, đều tìm cách giúp đỡ Iraq của Saddam về nhiều
mặt : cung cấp tin tình báo, kể cả khơng ảnh về sự bố trí của quân Iran ;
cung cấp hàng tỉ dollars tín dụng ; bí mật viện trợ vũ khí hố học ; viện trợ
lương thực ; ủng hộ các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên án Iran ; nhiều

chính khách Mỹ kêu gọi phong toả hải lộ Iran. Tháng 7 năm 1988, hải quân
Mỹ ngay cả bắn hạ một phi cơ thương mãi của Iran, giết chết 290 thường
dân ![10]
Cuộc chiến kết thúc, Iran bị tàn phá nặng, suy kiệt về mọi mặt. Iraq
cũng kiệt quệ về kinh tế, nợ nần chồng chất ; nhưng lại có một đội quân
hùng mạnh nhất trong khối Arabs với kho vũ khí khổng lồ ; đặc biệt là vũ
khí hố học do Mỹ trang bị. Vừa để giải quyết vấn đề nợ nần, đồng thời tận
dụng lực lượng quân đội hùng mạnh cho tham vọng trở nên cường quốc
Arabs số một, Saddam Hussein đã làm một điều dại dột ở quy mô chiến


lược ; đó là xâm chiếm Kuwait, khơi mào cho cuộc chiến tranh vùng
Vịnh lần thứ nhất tháng 8/1990.
Theo William Engdahl, thì Mỹ đã gài bẩy cho Saddam Hussein tấn
cơng Kuwait. Một tuần trước khi khởi binh, Saddam Hussein đã triệu Đại
sứ Mỹ, là ông April Glaspie, đến để hỏi về lập trường của Mỹ đối với vụ
tranh chấp Iraq-Kuwait và được ông Glaspie khẳng định là Mỹ không can
thiệp.[11] Sự kiện này được ghi lại trong hồ sơ của chính phủ Saddam
Hussein.
Các cơ quan tình báo Mỹ nắm vững tin tức về kế hoạch tấn công
Kuwait của Saddam và vì vậy đã báo động trước cho hồng gia nước này
thốt thân an tồn cùng với tồn bộ trương mục tài chánh khổng lồ của
mình. Iraq của Saddam đã hồn thành điều mà Mỹ mong mỏi là làm
suy yếu Iran ; nay đến lúc Mỹ lại cần một lý do chính đáng để làm cho
Iraq , đến lượt nó, cũng phải kiệt quệ. Bằng việc tấn công Kuwait,
Saddam Hussein đã cho TT George Bush cơ hội tốt để thành đạt mục đích
đó, đồng thời vận động sự hậu thuẩn quốc tế cho mưu đồ riêng của mình
trong việc thực hiện một New World Order, là một trật tự mà Ông đã
xướng ra ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ.
SỰ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG CỦA NGƯỜI JEWS Ở MỸ

(Jewish lobby).
Tổ chức vận động hành lang mạnh nhất của người Jews ở MỸ là
American-Israeli Public Affair Committee ( AIPAC). Tổ chức này có ảnh
hưởng mạnh hơn cả cơng đồn AFL-CIO và Hiệp Hội Súng trường Quốc
gia (National Rifle Association). Ngoài ra, hổ trợ cho AIPAC cịn có các
nhóm Phúc Âm Kitơ giáo (Christian Evangelicals) khác như Garry Bauer,
Ralph Reed, Pat Robertson, Tom Delay, v.v…Những nhóm này tin rằng sự
hồi sinh quốc gia Israel là phù hợp với lời tiên tri trong Kinh Thánh và là


Thánh Ý Chúa. Cả nhóm Tân Bảo Thủ (neo-conservatives) cũng là những
người vận động đắc lực cho Israel, như John Bolton: cựu Đại sứ tại LHQ,
Paul Wolfowitz: cựu Thứ trưởng Quốc phòng, Jeanne Kirpatrick, Henry
Kissinger, v.v…
Nổ lực vận động hành lang của người Israelis tập trung vào hai mặt
chính: Ảnh hưởng lên lập trường và chính sách của các nhà lập pháp
và viên chức chính phủ ở Washington, để các lập trường, chính sách đó
ln đi theo chiều hướng ủng hộ Israel. Thứ hai là tìm cách ảnh hưởng
đến cơng luận Mỹ, phơ bày những nét tích cực của Israel và những gì tiêu
cực của phía Arabs, tìm cách kiểm sốt các cuộc tranh luận về các vấn đề
Trung Đơng, hạn chế hoặc vơ hiệu hố những lời phê bình bất lợi cho
Israel.
ẢNH HƯỞNG LÊN CHÍNH SÁCH
Uỷ Ban Cơng Vụ Mỹ-Do Thái (American-Israel Public Affair
Committee)(AIPAC) có ảnh hưởng rất mạnh lên Quốc Hội. Uỷ Ban này có
những mối quan hệ đặc biệt đối với các nhân viên tham mưu (staffers) của
các Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nhiều nhân viên tham mưu này hoặc là người
Mỹ gốc Do Thái hoặc là thân Israel, hay hưởng bổng lộc của AIPAC; chính
bộ phận tham mưu này là những người soạn thảo chính sách, dự luật cho
Quốc Hội. Bản thân AIPAC đơi khi cịn giúp cho các nhân viên tham mưu

QH trong việc soạn thảo các báo cáo nghiên cứu, các chính sách, tổng kết
số liệu thống kê, hay ngay cả viết diễn văn.
Đối với bên Hành Pháp cũng vậy. Một ví dụ là thời TT Bill Clinton,
chính sách Trung Đơng đã được soạn thảo bởi những nhân vật thân Israel,
hoặc có quan hệ gắn bó với những tổ chức pro-Israel, như Martin Indyk,
trước kia là Phó Giám đốc nghiên cứu của AIPAC, đồng thời là sáng lập
viên cơ quan Washington Institute for Near East Policy (WINEP)-một tổ


chức ủng hộ Israel. Một nhân vật khác cùng soạn thảo chính sách Trung
Đơng thời Clinton là ơng Dennis Ross, sau khi rời khỏi chính quyền đã
làm việc cho WINEP. Nhân vật thứ 3 tham dự việc hình thành chính sách
Trung Đông là ông Aaron Miller là người thường xuyên sinh sống ở Israel.
AIPAC tìm cách tưởng lệ cho những Dân Biểu, Nghị Sĩ nào có
những chủ trương, đường lối có lợi cho Israel; ngược lại vận dụng mọi
biện pháp để trừng phạt những người có quan điểm bất lợi cho Israel. Khi
cần AIPAC có thể lập ra cả một chiến dịch rầm rộ nào biểu tình, thư hay
điện thoại khiếu nại, hoặc dùng truyền thơng để chỉ trích những chính
khách nào có vẻ có thái độ thiếu thân thiện với Israel. Đôi khi chỉ một lời
tuyên bố hớ hênh bất lợi cho Israel cũng đủ gây rắc rối lớn cho một chính
khách.
Chẳng hạn, trường hợp của Howard Dean. Năm 2004, khi ra tranh
cử TT, Howard Dean kêu gọi Mỹ nên xử sự “ đồng đều” (even-handed
role) hơn trong cuộc tranh chấp Israel-Arabs. Vậy là ngay lập tức TNS
Joseph Lieberman cơng kích Dean cho rằng ơng này là “vơ trách nhiệm”
và bán rẻ Israel. Một số đông Dân Biểu của đảng Dân Chủ ký chung thư
phản đối lời tuyên bố của Dean. Đồng thời hàng trăm ngàn thư từ, e-mails
từ các nơi gởi đến các tờ báo lớn của Mỹ kêu gọi tẩy chay Dean, cho rằng
Dean là điều không tốt cho Israel. Cho đến hôm nay, tuy từng ở cương vị
chủ tịch đảng Dân Chủ, có cơng lớn trong việc giúp Obama thắng cử,

nhưng Howard Dean cũng không nắm được một ghế Bộ Trưởng nào trong
chính phủ mới cả. Nhiều người cho rằng chỉ vì Dean đã lỡ lời trước đây khi
bàn về chính sách đối với Israel-Arabs.
Ảnh hưởng của Jews Lobby cũng ghi những dấu ấn lớn lên các
chính sách của chính phủ George W. Bush đối với Iraq và Iran. Các nhân
vật neo-conservatives thân Do Thái như Paul Wolfowitz, William Kristol,


Richard Perle, Donald Rumfeld, Charles Krauthammer, Robert Kagan, đã
cùng với WINEP, JINSA ( think tanks Do Thái) tích cực vận động cho
chiến tranh Iraq ngay từ thời TT Bill Clinton, và từ những ngày đầu của TT
Bush. Các cơ quan tình báo Israel đã đóng góp rất tích cực trong việc thiết
lập hồ sơ chuẩn bị cho việc tấn công Iraq, và về sau này những tin tức liên
quan đến chương trình nguyên tử của Iran. Chiến tranh Iraq và việc kiềm
chế Iran, trước hết và trên hết, là những bảo đảm an ninh lớn lao cho Israel,
chứ không phải cho chính cơng dân Mỹ. Nguời được lợi lớn nhất trong
chiến tranh Iraq là Israel; nhưng người hứng chịu gánh nặng tài chánh và
nhân mạng lại là taxpayers Mỹ!
Một ví dụ khác nổi bật nhất về ảnh hưởng của Jewish Lobby lên
chính sách của Mỹ là trường hợp TT George W.Bush. Vào khoảng cuối
năm 2001, Bush tuyên bố ủng hộ sự thành hình quốc gia Palestine và đề
nghị phiá Israel gặp Chủ tịch Palestine Yasser Arafat để đàm phán. Ngay
lập tức, Thủ tướng Israel là Sharon liền tố cáo là Bush “ tìm cách làm đẹp
lịng Arabs bằng cách bán rẻ chúng ta” và cảnh cáo rằng “ Israel sẽ không
giống với Tiệp Khắc” ( tried to appease the Arabs at our expense)
và( Israrel will not be Czechoslavia)( ý Sharon muốn ám chỉ rằng việc
Bush nhượng bộ Arabs và bỏ rơi Israel cũng như trước kia Thủ tướng
Neville Chamberlain đã nhượng bộ Hitler và hy sinh Tiệp).
Lời tuyên bố của Sharon, theo phát ngôn viên White House là “
unacceptable” và làm George W.Bush giận lắm. Nhưng rồi có đến 89 vị

Thượng Nghị Sĩ Mỹ đồng ký tên yêu cầu Bush không nên thương lượng
với Yasser Arafat và không nên kiềm chế việc Israel trả đủa người
Palestine, mà nên bày tỏ mạnh mẽ sự hậu thuẩn cho Israel.( Bức thư của
các TNS là kết quả của cuộc họp giữa các lãnh tụ của Cộng Đồng người
Mỹ gốc Do Thái với các Nghị Sĩ chính trong Thượng Viện). Vậy là Bush


đành nuốt giận.
Chưa hết, đến tháng 4 năm 2004 khi quân đội Do Thái(Israel
Defense Force) ào ạt tấn công, chiếm đóng nhiều vị trí ở West Bank của
người Palestine, gây cơng phẩn dư luận quốc tế, TT Bush vì uy tín của Mỹ,
đã lên tiếng cơng khai u cầu Israel rút quân “ halt the incursion and
begin withdrawal without delay”.
Thay vì làm theo lời Bush, Israel và Jews Lobby đã ráo riết vận động
Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho chính sách của Israel, vượt qua phản ứng của
Hành Pháp. Hạ Viện bỏ phiếu 352/21 và Thượng Viện 94/2 thông qua Nghị
Quyết kêu gọi đoàn kết và cấp thêm 200 triệu dollars cho Israel để chống
khủng bố! Người ta chưa thấy Quốc Hội đạt đưọc sự đồng thuận cao như
vậy trong bất kỳ một biểu quyết ngân sách hay dự luật nào khác. Sau này
Cố vấn An Ninh Quốc Gia Brent Scrowcroft đã nói rằng Thủ Tướng
Sharon của Israel “ đã nắm được chóp chài của TT Bush” ( Sharon has
President Bush wrapped around his finger)![12]
Một vũ khí khác của AIPAC là đóng góp trong các chiến dịch tranh
cử.Tờ Washington Post đã có lần ước tính rằng các ứng viên đảng Dân Chủ
nhận đến gần 60% tiền vận động tranh cử từ các ủng hộ viên gốc Do Thái.
Chính phủ Bill Clinton và cả bà Hillary Cliton đều nhận sự ủng hộ lớn lao
của AIPAC và các tổ chức pro-Israel khác. Vì vậy, tuy TT Barack Obama
nói nhiều về Thay Đổi ( Change), và nhấn mạnh đến mặt trận ngoại giao,
nhưng việc trao Bộ Ngoại Giao cho bà Hillary Clinton làm cho nhiều
người tin rằng chính phủ mới sẽ khơng có những đổi thay lớn trong chính

sách đối với cuộc tranh chấp Israel-Palestine; một chính sách đã từng khiến
cho một nhà thương thuyết Palestine, trong cuộc hoà đàm tại trại David
năm 2000, than phiền rằng :” phải thương thuyết một lúc với hai phái
đoàn Israels: một mang cờ Do Thái và một mang cờ Mỹ” ( negotiating


with two Israel teams: one displaying an Israeli flag, and one an American
flag)[13]
ÀNH HƯỞNG LÊN CƠNG LUẬN MỸ:
Ngồi ra người Do Thái cịn ảnh hưởng lên dư luận Mỹ thơng qua
các phương thế sau đây:
1.-Think Tanks: Các think tanks đóng một vai trị rất quan trọng
trong sự định hình các luồng tư tưởng của công luận cũng như trong việc
hoạch định các chính sách trên thực tế. Think Tanks- nơi quy tụ các học
giả, chính khách, chuyên gia, chiến lược gia, phân tích gia thượng thặng
của các lãnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội- là một sản phẩm đặc
trưng của Mỹ xét cả về quy mô lẩn mức độ ảnh hưởng lên chính quyền và
giới truyền thơng. Tại Âu Châu và Á Châu ngày nay tuy cũng có think
tanks, nhưng chẳng qua cũng chỉ là một sự bắt chước theo Mỹ, ở quy mô
khiêm tốn, mà thôi.
Kể từ khi RAND Corporation, think tank đầu tiên, ra đời năm 1946,
đến nay có tổng cộng lớn nhỏ chừng hơn 1,500 think tanks trên tồn nước
Mỹ, trong số đó có chừng 15 think tanks lớn và có ảnh hưởng nhất đặt bản
doanh ở Washington, DC. Những think tanks quen thuộc là : Amerian
Heritage, Brookings Institution, Center for Strategic and International
Studies, Center for Security Policy, Foreign Policy Research Institute,
Jewish Institute for National Security Affairs (JINSA), American
Enterprise Institute, The Heritage Foundation, Cato Institute, The Carnegie
Endownment for International Peace, The Council on Foreign Relations,
Washington Institute for Near East Policy (WINEP), Hudson Institute,

v.v…Trung bình những think tanks này có ngân sách thường niên chừng 25
triệu dollars trở lên.[14]


Trong các think tanks trên thì WINEP được lập ra năm 1985 do nổ
lực của Jewish Lobby. Các think tanks khác như JINSA, Heritage
Foundation, Hudson Institute, The Institute for Foreign Policty Analysis và
Brooking Institution đều chịu ảnh hưởng rất nặng, hoặc về nhân sự hoặc về
tài chánh, hoặc cả hai, của giới vận động hành lang Do Thái (Jewsish
Lobby).
2.-Các trường đại học: Jewish Lobby cũng tìm nhiều phương cách
để gây ảnh hưởng đến những cuộc thảo luận tại các trường đại học liên
quan đến vấn đề Trung Đông và quốc gia Israel; nổ lực tạo ra những hình
ảnh và dư luận tốt đẹp về Israel, đồng thời tìm mọi cách giảm thiểu những
phê bình đối với các chính sách của nước này. Nhiều nhóm hoạt động, như
Caravan for Democracy, gởi các diễn giả đến các trường đại học lớn giải
thích các chính sách của Israel cho sinh viên Mỹ, tổ chức các sinh hoạt
ngoại khoá tuyên truyền cho Israel. Họ còn tổ chức việc theo dỏi những bài
giảng của các giáo sư để phát hiện sớm, và tìm cách đối phó, những bài có
nội dung bất lợi cho Israel, lập ra những black lists các giáo sư có quan
điểm “ chống Israel” rồi vận động sinh viên và phụ huynh lên án hoặc cô
lập hay tẩy chay các giáo sư đó, hay ngay cả vận động để các trường đại
học khơng mướn những vị giáo sư hay học giả đó. Một ví dụ là trường hợp
học giả Trung Đơng nổi tiếng Rashid Khalidi. Khi trường đại học
Columbia mời Ông về giảng dạy, lập tức có hàng ngàn lá thư gởi đến văn
phòng viện trưởng của Trường để phản đối với lý do là ơng Khalidi có
quan điểm chính trị khơng thích hợp. Vài năm sau, đến lượt trường đại học
Princeton cũng gặp tình cảnh tương tự khi trường này định mời ông
Khalidi đến giảng dạy ở trường.
3.-Giới truyền thông: truyền hình, báo chí, nhà xuất bản…Chính



trong lãnh vực truyền thông Mỹ mà ảnh hưởng của Jewish Lobby là gần
như vơ tiền, khống hậu. Sơ lược sau đây là một số những tổ hợp truyền
thông lớn ở Mỹ, trong đó người Do Thái hoặc làm chủ hoặc nắm quyền
kiểm soát tuyệt đối:
Time Warner: Tổ hợp truyền thông lớn nhất này là sự kết hợp giữa
Warner và AOL, có doanh thu hằng năm chừng 50 tỉ dollars. Warner được
người Do Thái lập ra vào thế kỷ trước, trở nên một trung tâm quyền lực của
người Do Thái ở Hollywood. Giám đốc điều hành(CEO) hiện nay là Gerald
Levin, một người Do Thái.
Tổ hợp này bao gồm nhiều hảng phim như Warner Brothers Studio,
Castle Rock Entertainment, New Line Cinema; nhà xuất bản như TimeLife Books, Book of the moth Club, Little Brown, v.v…; dịch vụ internet
như AOL; và cả hệ thống truyền hình CNN với hàng trăm triệu khán giả.
Disney : Tổ hợp truyền thông khổng lồ thứ hai này có doanh thu
hàng năm chừng 35 tỉ dollars, cũng là của người Do Thái , hiện nay do
Michael Eisner làm giám đốc. Tổ hợp này cũng bao gồm nhiều cơng ty
truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản: hệ thống truyền hình ABC, ESPN,
NBA, NFL, A&E, Life Time TV, Disney Radio Network, Walt Disney
Company Book Publishing, Miramax Books, v.v…Đáng chú ý nhất là
Disney Publishing Worldwide xuất bản sách báo bằng 55 ngôn ngữ khác
nhau, đến 74 quốc gia trên khắp thế giới, có hơn trăm triệu độc giả hàng
tháng !
Viacom: Với doanh thu đồng niên chừng 30 tỉ dollars, Viacom là tổ
hợp lớn thứ 3 nằm dưới sự kiểm soát của người Do Thái, đứng đầu là
Sumner Redstone và Melvin Karmazin. Viacom cung cấp các chương trình
truyền hình, sỡ hữu mạng truyền hình CBS với khoảng 39 đài truyền hình,
và hàng trăm đài phát thanh khác trên nhiều vùng. Hệ thống MTV, Country



Music Television, và The Nasville Network Cable Channels cũng thuộc về
Viacom.
Ngồi ra, kênh truyền hình Fox News Channel cũng nằm dưới sự
kiểm soát của người Do Thái. Cùng với Fox Television Network, 20 th
Century Fox Film và nhà xuất bản Harper Collins, nó thuộc về tập đồn
News Corporation, chun vận động cho các chủ trương cuả nhóm Tân
Bảo Thủ (neoconservatives) trong chính phủ của TT Bush, đứng đằng sau
các nổ lực tuyên truyền cho cuộc chiến Iraq. Tờ The Weekly Standard với
cây bút nổi tiếng William Kristol cũng thuộc về News Corporation và nằm
trong tầm tay điều khiển của người Do Thái.
Như vậy, về mặt truyền thông, người Do Thái ở Mỹ đã trực tiếp nắm
trong tay nhiều cơ sở quan trọng, có mức độ ảnh hưởng vơ cùng lớn lao lên
công luận Mỹ. Những nhận định sau đây trong một bài nghiên cứu của
nhóm National Vanguard Books có thể ít nhiều nói lên tầm mức của những
ảnh hưởng như vậy:
“Khơng có một quyền lực nào trong thế giới ngày nay lớn hơn quyền
lực đạt được bởi những người uốn nắn cơng luận Mỹ. Chưa hề có một ơng
vua, một vị giáo hồng thời xưa, một ơng tướng bách chiến hay một vị giáo
chủ nào đã từng hành xử một quyền lực sánh được với quyền lực của
chừng vài chục người đang kiểm sốt các phương tiện giải trí và truyền
thông đại chúng của Mỹ”. ( there is no greater power in the world today
than that wielded by the manupulators of public opinion in America. No
king or pope of old, no conquering general, or high priest ever disposed of
a power even remotely approaching that of the few dozen men who control
Amerca’s mass media of news and entertainment)[15].
Truyền thông vận dụng nhiều phương cách để nhào nặn
( manipulating) dư luận một cách tinh vi và thấu đáo. Trước hết là cách


quản lý việc đưa tin. Chỉ nội một việc sắp xếp cách thức tin tức được đưa

ra, thời điểm và khung cảnh đưa tin, thời lượng cho từng phần tin, giọng
điệu khi đọc tin, hình tượng đi kèm theo tin, cách thức đối chiếu các bản
tin, từ ngữ xữ dụng, cách chạy các hàng tít, v.v…Rồi cịn những chọn lựa
dựa theo bối cảnh văn hóa, chủng tộc, lịch sử, tơn giáo và đặc điểm tâm lý
của từng bộ phận độc, khán, thính gỉa, để rồi từ đó có phương cách phổ
biến tin tức cho phù hợp.
Chẳng hạn, cách mà báo chí Tây phương, nhất lả báo chí Mỹ, miêu
tả về hành động của hai bên Israel-Palestine. Bất kỳ khi nào Isarel có một
hoạt động nào đó đối với người Palestine, hoặc là dùng phi cơ ném bom,
hay xua chiến xa tấn công vào các vùng của người Palestine, giết hại hàng
chục, hàng trăm thường dân, kể cả đàn bà trẻ em , thì báo chí, truyền hình
Mỹ gọi đó là các hoạt động quân sự (MILITARY MISSIONS). Nhưng nếu
phía người Palestine trả đủa, bất kỳ là bằng cách nào, kể cả bằng dùng
giàng thung bắn đá hay mang bom tự sát, gây thương vong cho thường dân
hay chiến sĩ Israel, thì báo chí và truyền hình Mỹ đều gọi các việc làm đó
là hành động khủng bố (TERRORIST ACTIONS). Dư luận Mỹ , và cả của
người Việt, không mấy ai thắc mắc về sự khác biệt trong cách dùng từ ngữ
như vậy của giới truyền thông Mỹ đối với hai bên Israel-Palestine. Người
ta mặc nhiên chấp nhận, và chính sự mặc nhiên chấp nhận đó là kết quả
của sự nhào nặn công luận, một cách tinh vi, của các phương tiện truyền
thơng Do Thái -Mỹ. Vì về mặt tâm lý, một cách vơ thức, người nghe sẽ có
những phản ứng tình cảm khác nhau đối với mỗi từ: hoặc là trung lập, kính
nể hoặc là thiện cảm đối với từ MILITARY; ngược lại sẽ khinh chê hoặc
căm ghét đối với từ TERRORIST.
Một ví dụ khác về cách chọn từ ngữ của giới truyền thông Do Thái
-Mỹ là chữ CONFLICT. Báo chí và truyền hình Mỹ qua hàng mấy chục


năm nay ln dùng từ ngữ này khi nói đến sự thù địch giữa IsraelPalestine. Nhưng nhiều học giả cho rằng chữ CONFLICT bao hàm ý rằng
hai bên liên hệ, trong sự tranh chấp hay xung đột, có mức độ bình đẳng

(EQUALITY) về tư thế và về lực lượng; và không nên lẩn lộn giữa
CONFLICT với ANNEXATION, INVASION, hay OCCUPATION. Trong
hàng mấy chục năm qua, sự thật cho thấy người Israelis đã INVADED
(xâm chiếm), ANNEXED (sáp nhập) và OCCUPIED (chiếm đóng) đất đai
của người Palestine, chứ khơng phải là tranh chấp CONFLICTED giữa hai
quốc gia bình đẳng về mặt quốc tế công pháp. Việc lập đi lập lại từ
CONFLICT là có thâm ý che lấp sự chênh lệch quá xa lực lượng của hai
bên và tính chất chủ động xâm lăng của người Do Thái.
Ngoài việc quản lý tin tức (news management), mặt thứ hai cũng hết
sức quan trọng trong việc uốn nắn dư luận vào một hướng định trước là
việc giải thích và bình luận tin tức của các nhà bình luận, chun gia, trí
thức, học giả, v.v… Về mặt này, người Do Thái, cùng với khả năng khống
chế lớn lao các phương tiện thông tin, là khả năng tài chánh để thuê mướn
các chuyên gia, nhà bình luận, học giả, biên tập viên, ký giả, v.v…nhằm
mớm vào trí óc dân Mỹ những cách giải thích và bình luận tạo nên những
hình ảnh tốt đẹp về Israel. Người Palestine hầu như khơng có lấy một diễn
đàn hay một cơ hội để lên tiếng trước công luận Mỹ; nhưng người Do Thái
lại chiếm vai trị độc tơn trong cơng việc giải thích và bình luận tin tức liên
quan đến cuộc xung đột Israel-Palestine. Nói đúng hơn là người Do Thái
độc quyền trong việc giải thích mọi vấn đề của cuộc xung đột, uốn nắn dư
luận theo chiều hướng thuận lợi nhất cho phiá họ.
HIỆN TRẠNG NGƯỜI PALESTINE


×