Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN thế giới quan phật giáo và ảnh hưởng thế giới quan phật giáo đến đời sống tinh thần của người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.24 KB, 19 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG THẾ GIỚI
QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.
PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Vài nét về sự ra đời và tồn tại của Phật giáo
1.1.
1.2.

Thế giới quan Phật giáo
ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO

II.

ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT



2.1.

NAM HIỆN NAY
Phật giáo ở Việt Nam
Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đến đời sống tinh

2.2.

thần của người Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
7

11
11
13
16
17


MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tơn giáo lớn trên thế
giới, nó có lịch sử tồn tại hàng ngàn năm. Mặc dù ra đời rất sớm nhưng trong
bản thân nó chứa đựng những tư tưởng triết học rất lớn mang giá trị lịch sử và

hiện tại. Quá trình nghiên cứu tư tưởng triết học phật giáo chủ yếu được thực
hiện qua quá trình nghiên cứu những bộ kinh điển của đạo phật. Khi mới ra đời
hay còn gọi là đạo phật nguyên thuỷ - tư tưởng triết học phật giáo có đóng góp
to lớn cho tư duy nhân loại.
Đối với nước ta, Phật giáo xâm nhập vào từ rất lâu, một số tư tưởng triết
học cơ bản của học thuyết này đã ăn sâu, bám rễ trong tâm thức của người Việt
và đã góp phần tạo nên những giá trị truyền thống của dân tộc, tồn tại mãi với
thời gian. Ngày nay, mặc dù chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang
chiếm địa vị thống trị, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội;
thế nhưng, một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, qua đó có những tác
động nhất định đến công cuộc xây dựng xã hội mới trên đất nước ta.
Việc nhận diện đúng và tìm ra các giải pháp có tính khả thi để phát huy
những ảnh hưởng tích cực, đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực bởi sự tác động
của một số tư tưởng triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người
Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết, nhằm góp phần tăng cường, củng cố
vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy tối đa nội lực của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố và chủ động hội nhập quốc tế, hướng đến thực hiện trọn vẹn hai
mục tiêu chiến lược là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là lý do mà em chọn đề tài “Thế giới quan Phật giáo
và ảnh hưởng thế giới quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận.

1


NỘI DUNG
I. PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Vài nét về sự ra đời và tồn tại của Phật giáo
Phương Đông - khu vực được xem là một trong những trung tâm văn minh

lớn của nhân loại, nơi đã hình thành nên nhiều học thuyết triết học từ thời cổ đại
mà tinh hoa của nó vẫn cịn được lưu truyền đến ngày nay và ảnh hưởng không
nhỏ đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có nước ta. Phật giáo là một trong
những học thuyết triết học đó.
Phật giáo ra đời vào khoảng giữa thế kỷ VI tr.CN, đầu tiên nó là tơn giáo
của Ấn Độ, sau đó truyền bá sang các quốc gia phương Đơng, hình thành nên
những dòng Phật giáo khác nhau: Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Quốc,
Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Hàn Quốc, Phật giáo Srilanka, Phật giáo
Mianmar, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Campuchia, Phật giáo Lào, Phật giáo
Tây Tạng…
Người sáng lập Phật giáo là Tất Đạt Đa (Siddhartha), họ Cồ Đàm
(Gautama), lấy hiệu là Buddha (Phật), thường được gọi là Thích Ca Mâu Ni
(Sakyamuni - nghĩa là nhà hiền triết của xứ “Sakya” - đây là tên do học trị tơn
xưng sau khi Tất Đạt Đa đắc đạo), con của vua Tịnh Phạn Vương (Suddhodana)
và hoàng hậu Đại Ma Già (Mayaba). Đức Phật được sinh ra trong vườn Lâm Tì
Ni (Lumbini) vào năm 623 TrCN ở kinh thành nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu
- ngày nay thuộc một phần miền Nam của nuớc Nêpan và một phần Đông Bắc
của nước Ấn Độ). Tất Đạt Đa rất chăm chỉ, siêng năng học tập và đạt đến độ
văn võ toàn tài, năm 19 tuổi kết hôn với Da Du Đà La (Yasodhara) và sinh ra
La Hầu La (Rahula). Năm 29 tuổi, Ngài xuất gia đi cầu đạo nhân sinh và đến
năm 35 tuổi thì Ngài đắc đạo. Ngài nhập Niết Bàn (tịch diệt - mất) tại Câu Thi
Na Ca (Kusinagara) vào năm 544 tr.CN (các tín đồ Phật giáo thống nhất lấy
năm 544 tr.CN làm năm mở đầu của kỷ nguyên Phật giáo, năm 2007 là năm
2551 Phật lịch) [3, tr.156].

2


Khi mới xuất gia, Tất Đạt Đa cùng với các tu sĩ Bà La Môn giáo như A-rala Ca-la-ma (Arala Kalama), Uất-đà-ca La-ma-tử (Udrka Ramaputta) vào núi
Tuyết Sơn ngồi thiền tu khổ hạnh. Sau sáu năm ngồi thiền không hiệu quả, Ngài

quyết định rời núi Tuyết Sơn, xuống tắm rửa sạch sẽ ở sông Ni Liên Thuyền Na
(Nairanjana), uống một bát sữa bị của cơ Nan Đà (Nanda) dâng, rồi đến phát
nguyện nhập thiền dưới cây pippala (ngày nay gọi là cây bồ đề) tại Già Da
(Gaya). Sau 49 ngày (7 x 7), vào lúc nửa đêm, Ngài đại giác và trở thành Phật
(hiện nay, nơi Tất Đạt Đa đại giác được gọi là “Bồ Đề đạo trường” và là thánh
địa Phật giáo, thuộc đất Nêpan).
Việc từ bỏ ngồi thiền của Đức Phật ở núi Tuyết Sơn chính là hành vi chối
bỏ học thuyết của Bà La Môn giáo (ngày nay trên Phật điện trong các chùa có
hình tượng núi Tuyết Sơn là để nhắc lại bước đi tu hành thất bại chứ không phải
là nơi đắc đạo của Đức Phật), hơn nữa, tư tưởng phát hiện của Ngài là “diệt”
hoàn toàn trái với tư tưởng “sinh” của Bà La Môn giáo; cho nên, thể theo lời
khuyên của Phạm Thiên và Đế Thích, Ngài quyết định trực tiếp tham gia truyền
giáo. Trong lần thuyết pháp thứ nhất tại Vườn Hươu (Mrgavana -Lộc Uyển) gần
thành Ba La Nại (Benares), Ngài truyền đạo cho 5 đồ đệ (sau này được gọi là
Ngũ tỳ kheo), 5 đồ đệ này đã từng cùng Ngài ngồi thiền tu khổ hạnh ở núi Tuyết
Sơn là: A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata Kaundinia), A Thấp Bà (Asvajit - A
Thuyết Nhị - Mã Thắng), Bạt Đề (Bhadrika), Ma Ha Nam (Mahanamakulita Ma Ha Nam Câu Lợi), Thập Lực Ca Diếp (Dasabalakasyapa). Tiếp theo sau đó,
Ngài thu nạp và truyền đạo cho rất nhiều đệ tử, trong số đó có nhiều người đã
từng là tu sĩ Bà La Mơn giáo nổi tiếng thời bấy giờ, cũng trong giai đoạn này đã
xuất hiện 10 đệ tử nổi tiếng (Thập đại đệ tử), thường gặp trong các kinh là: Ma
Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa), Xá Lợi Phất (Sariputra), Mục Kiền Liên
(Mahamaudgalyayana), Tu Bồ Đề (Subhuti), Phú Lâu Na (Purna), Ma Ha Ca
Chiên Diên (Maha Katyayana), A Na Luật (Aniruddha), Ưu Bà Ly (Upali), A
Nan Đà (Ananda) và La Hầu La (Rahula).
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, do các đồ đệ nhận thức giáo lý của Ngài
không thống nhất nên đã diễn ra 4 lần kiết tập để chỉnh lý thống nhất.
3


Lần kiết tập thứ nhất tiến hành ngay sau khi Phật tịch diệt, được tổ chức tại

hang Thất Diệp trong thành Vương Xá (Rajagriha), có 500 tỳ kheo tham dự, do
Thập Lực Ca Diếp chủ trì. Phần “Pháp” do A Nan Đà giới thiệu, sau này là cơ sở
của “Kinh Tạng”; phần “Giới” do Ưu Bà Ly giới thiệu, sau này là cơ sở của
“Luật Tạng”. Trong lần kiết tập này, có một số Tỳ kheo tụ tập tại vườn Trúc Lâm
ngoại thành Vương Xá tuyên bố không đồng ý với nội dung kiết tập, sự kiện này
cho thấy mầm phân liệt trong nội bộ của Phật giáo đã bộc lộ.
Lần kiết tập thứ hai được tổ chức sau lần kiết tập thứ nhất khoảng 100 năm
tại thành Phệ Xá Lỵ (Vesali), có 700 Tỳ kheo tham dự, do Da Xá chủ trì. Nội
dung là thảo luận các vấn đề do giáo đồn đơng Ấn Độ nêu ra và đề nghị nới
rộng giới luật, cho phép các Tỳ kheo ăn uống, cư trú, toạ cụ thoải mái hơn, đặc
biệt là việc cho phép các Tỳ kheo nhận giữ và súc tích tiền bạc. Sau lần kiết tập
này, Phật giáo đã chia làm hai phái: Đại chúng bộ (Đại thừa) và Thượng toạ bộ
(Tiểu thừa).
Lần kiết tập thứ ba được tổ chức sau lần kiết tập thứ hai khoảng 100 năm
(khoảng năm 246 TrCN) tại thành Hoa Thị (Pataliputra), có 1.000 Tỳ kheo tham
dự, do vua A Dục đề xuất và Mục Kiền Liên Tử Đế Tu chủ trì. Nội dung là phê
phán ngoại đạo và quyết định truyền bá Phật giáo đến Srilanka cũng như các
nước thuộc Nam Á, dẫn đến hình thành Tam Tạng Pali (Kinh Tam Tạng được
viết bằng tiếng Pali, trước đó chỉ viết bằng tiếng Sanskrit).
Lần kiết tập thứ tư được tiến hành tại vùng Ca Thấp Di La (nay thuộc
Catsơmia) vào thế kỷ 1 sau công nguyên theo sự đề xuất của vua Ca Nhị Sắc Ca
(Kaniska), có 500 A La Hán tham dự, do Thế Hữu chủ trì. Lần kiết tập này chủ
yếu để luận giải Kinh Tam Tạng, cả thảy 300.000 tụng với 6.600.000 câu. Vua
Ca Nhị Sắc Ca đã cho khắc nội dung trên lên các tấm đồng, ròng rã 12 năm mới
xong (hiện nay các tấm đồng này đã mất).
Cịn có tư liệu cho rằng, lần kiết tập thứ tư được tổ chức đúng 500 năm sau khi
Phật tịch diệt (năm 44 thuộc thế kỷ 1 tr.CN) tại Kê Tân (tây bắc Ấn Độ ngày nay),
có 500 A La Hán và 500 Bồ Tát tham dự, do Ca Chiên Diên Tử chủ trì. Sau đó Mã
Minh chấp bút biên soạn A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa có đến 1.000.000 tụng.
4



Một tư liệu khác lại cho rằng, lần kiết tập thứ tư được tổ chức tại Srilanka
dưới triều vua Phạt Đa Ca Ma Ni A Ba Da (Vattagamani Abhaya) vào thế kỷ 1
tr.CN, có 500 Tỳ kheo tham dự, mục đích là biên soạn Tam Tạng Pali [4, tr.127].
Như vậy, riêng lần kiết tập thứ tư đã có nhiều tư liệu không thống nhất về
thời gian tổ chức, về người chủ trì và về nội dung kiết tập. Điều đáng quan tâm
là qua các lần kiết tập đã cho thấy rằng, nhận thức của các Đại sư về giáo lý nhà
Phật có sự khác nhau, cho nên nội dung Tam Tạng Pali khơng hồn tồn thống
nhất với Tam Tạng Sanskrit cũng là điều đương nhiên. Nhiều nhà nghiên cứu
còn cho rằng, nội dung Tam Tạng Pali chính thống hơn Tam Tạng Sanskrit, vì
thế họ thường viện dẫn văn bản Tam Tạng Pali để nghiên cứu về Phật giáo
nguyên thuỷ (còn được gọi là Phật giáo sơ kỳ); thậm chí có người cịn cho rằng
Phật giáo ngun thuỷ hồn tồn đồng nhất với Phật giáo Tiểu thừa.
Sau các lần kiết tập này, Phật giáo được truyền bá mạnh mẽ sang các nước
phương Đông như đã nêu trên. Do chịu sự chi phối của văn hoá bản địa mà Phật
giáo ở các nước này, bên cạnh những điểm chung, cịn có những nét khác biệt.
Ngay khi mới ra đời, Phật giáo phát triển rất thịnh vượng, số người theo
đạo Phật tăng lên rất nhanh. Dưới thời vua Axôka (273-237 TrCN) đạo Phật trở
thành quốc giáo ở Ấn Độ. Trong thời kỳ này, giáo lý đạo Phật, Kinh phật và các
tổ chức Phật giáo đã được hình thành. Năm 253 TrCN, một Đại hội Phật giáo lần
đầu tiên được triệu tập tại Pataliputơra. Vào thế klỷ III TrCN, đạo Phật đã được
truyền bá rộng rãi sang Xrilanca, Mianma, Thái Lan, Inđônêsia… [6, tr.290].
Bước vào chế độ Phong kiến, Phật giáo ở Ấn Độ cũng có nhiều biến
chuyển. Con đường tu hành khổ hạnh mà Phật giáo chủ trương từ trước không
lôi kéo được đơng đảo quần chúng nhân dân. Để thích ứng với hồn cảnh xã hội
mới, Phật giáo đã có nhiều biến đổi. Nội bộ Phật giáo bị phân hoá ra làm hai
giáo phái: Đại Thừa và Tiểu Thừa. “Thừa” nghĩa là cỗ xe chở người ra khỏi kiếp
luân hồi. Phái Đại Thừa chủ trương mở rộng cửa, tiếp nhận vào tổ chức Giáo hội
tất cả những ai đồng ý với nguyên lý cơ bản của đạo Phật và tích cực truyền bá

Phật giáo, kể cả phụ nữ, họ phê phán các khuynh hướng và trường phái bảo thủ
Tiểu Thừa. Phái Đại Thừa thờ cái toàn thể, gồm cả vật chất lẫn tinh thần. Toàn
5


thể ấy bất động thì hồn nhiên như khơng, nhất động thì sinh ra vạn vật; phần tinh
hoa nhất trong vạn vật là một hạng người rất siêu việt, rất hoàn hảo, rất thanh
tịnh, rất sáng suốt, được gọi là Phật. Phật không phải là người như người đời.
Phật là người tuyệt đối. Phật Thích Ca là một vị trong muôn vàn vị Phật khác.
Phái Đại Thừa chủ yếu thờ Phật A Di Đà (tín ngưỡng tịnh độ), tức là tin vào cõi
Tây Phương cực lạc và tin có Phật A Di Đà, đồng thời thờ Phật Quan Thế Âm vị Bồ Tát có chức năng dẫn dắt chúng sinh về Tây Phương cực lạc.
A Di Đà và Quan Âm Bồ Tát là hai vị Phật được tưởng tượng ra, khơng có
thật nhưng lại được thờ chính tại các chùa ở Á Đơng, cịn Phật Thích Ca thì có
thật mà lại được thờ phụ. Phật giáo Đại Thừa không những chủ trương chúng
sanh bình đẳng mà cịn nhấn mạnh lý tưởng của Bồ Tát, hy sinh tất cả vì chúng
sinh. Các vị Bồ Tát khơng quản ngại những khó khăn về sự khác biệt của ngôn
ngữ, phong tục, tập quán, đã đặt lên trên hết mục đích cao cả “chúng sanh vơ
biên thệ nguyện độ”, nghĩa là giải thốt cho vô biên, vô lượng chúng sinh, không
kể xiết, không phân biệt dân tộc và quốc độ. Với sự xuất hiện của phái Đại
Thừa, Phật giáo có một bước phát triển mới, vượt ra khỏi biên giới Ấn Độ. Phái
Đại Thừa phát triển rất mạnh ở Miền Bắc Ấn Độ rồi tuyền qua Tây Tạng (Trung
Quốc), Nhật Bản, Miền Bắc Việt Nam… Phái Đại Thừa chủ trương không nhất
thiết phải tu hành khổ hạnh.
Phái Tiểu Thừa (cỗ xe nhỏ) chủ trương giữ nguyên tính chất nguyên thuỷ của
đạo Phật, phải tu hành khổ hạnh, mục đích cuối cùng là thốt tục. Phái Tiểu Thừa
phát triển rất mạnh ở Miền Nam Ấn Độ rồi tuyền qua các nước Xrilanca,
Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào và Miền Nam Việt Nam. Phật giáo Tiểu
Thừa còn được gọi là Phật giáo Nam Phương hay Phật giáo Pali. (do Kinh Phật
được ghi bằng tiếng Pali và được dịch sang tiếng của các nước này từ tiếng Pali).
Năm 1193, những người Hồi giáo với tư tưởng “Thánh chiến” đã tàn sát tín

đồ Phật giáo Ấn Độ, phá huỷ các tu viện (sử sách xưa đã chép lại rằng trong thời
kỳ này có tu viện cháy đến 6 tháng mới dập tắt). Phật giáo đã bị tiêu diệt chính
ngay trên đất Ấn Độ, nơi khai sinh ra nó; song thực ra, Phật giáo đã bắt đầu suy
vong ở đây ngay từ thế kỷ IX. Tư tưởng Triết học Phật giáo dưới hình thái ý
6


thức xã hội là tôn giáo đã từ Ấn Độ truyền bá ra các nước chung quanh và đã trở
thành hệ thống tơn giáo - triết học thế giới, có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh
thần và lịch sử văn hố của nhiều nước Phương Đơng, trong đó có Việt Nam.
Tóm lại: Kinh Phật nói riêng, lý luận nhà Phật nói chung là thành quả tư
tưởng của nhiều thế hệ Đại sư hữu danh và vô danh trải qua quá trình tồn tại và
phát triển của Phật giáo chứ khơng phải chỉ riêng của Thích Ca Mâu Ni, mặc dù
hầu hết các kinh Phật đều mở đầu bằng sự giới thiệu Thích Ca Mâu Ni đã thuyết
pháp giảng kinh này ở đâu và với ai.
Cũng như nhiều trường phái tư tưởng khác ở Ấn Độ, Phật giáo có sự thống
nhất của hai tư cách: tư cách là một tôn giáo và tư cách là một hệ tư tưởng triết
học. Trong phạm vi bài tiểu luận này, tôi chỉ đề cập đến tư cách hệ tư tưởng triết
học của Phật giáo mà thôi.
1.2. Thế giới quan Phật giáo
Kinh điển triết học Phật giáo rất đồ sộ, gồm ba bộ phận: Kinh tạng (chép
những điều Phật đã thuyết pháp và được học trò ghi lại), Luật tạng (chép các
giới luật, các nguyên tắc xây dựng cộng đồng Phật giáo mà các giáo đoàn Phật
giáo phải tuân theo) và Luận tạng (chép các nội dung luận giải về giáo lý nhà
Phật của các học giả, cao tăng Phật giáo đời sau). Kinh tạng, Luật tạng và Luật
tạng được gọi chung là Tam Tạng kinh (phái Đại thừa dịch kinh gốc từ Tam
Tạng Sanskrit, phái Tiểu thừa dịch kinh gốc từ Tam Tạng Pali).
Xuất phát từ quan niệm cho rằng cuộc đời của mỗi con người đều là “bể
khổ”, nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển, nên mục đích cuối cùng
của Phật là tìm con đường giải thốt (Moksa) nhằm cứu vớt chúng sinh ra khỏi

bể khổ triền miên của vòng luân hồi bất tận. Cứu khổ, cứu nạn và giải thoát nỗi
khổ đau của nhân loại nơi trần thế là nội dung chủ yếu và là mục đích chính
của học thuyết triết học Phật giáo. Điều này được thể hiện qua câu nói của đức
Phật: “Này các đệ tử, ta nói cho mà biết, trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra
và lý giải về nỗi khổ đau và giải thốt khỏi nỗi khổ đau, cũng như nước ngồi
biển khơi chỉ có một vị mặn, đạo của ta dạy đây cũng chỉ có một vị là vị giải
thốt” [1, tr.90].
7


Nhìn chung, xét theo bản chất và mục đích, Phật giáo chú trọng giải quyết
những vấn đề thuộc nhân sinh quan - tức là quan niệm về cuộc sống của con
người với tư cách là một “chúng sinh” hiện hữu trên cõi trần gian. Thế nhưng,
những vấn đề nhân sinh quan Phật giáo lại không thể tách rời với những vấn đề
thuộc thế giới quan triết học của học thuyết này. Trong khi luận giải những vấn
đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo đã đề cập tới nhiều
nội dung thuộc phạm vi của phép biện chứng - với tư cách là học thuyết triết học
về mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của thế giới.
Như vậy, những vấn đề thuộc thế giới quan, phép biện chứng và nhân sinh
quan là những vấn đề thống nhất trong triết học Phật giáo, trong đó tất cả đều
nhằm đến mục tiêu cao nhất là giải quyết những vấn đề của cuộc sống nhân sinh.
Tư tưởng học thuyết Triết học Phật giáo thể hiện tập trung ở những phương diện:
bản thể luận, quan điểm về nhân sinh, nhận thức luận và lý luận về đạo đức.
Bản thể luận. Có thể nhận thấy một cách rõ ràng là thế giới quan triết học
Phật giáo và những tư tưởng biện chứng của nó được thể hiện thông qua một số
phạm trù cơ bản như: “vô ngã”, “vô thường” và “nhân quả”. Liên quan đến các
phạm trù cơ bản này là hàng loạt các phạm trù khác như: “nhân duyên sinh”,
“luân hồi”, “nghiệp báo”, “bản ngã” (cái tôi)… Các phạm trù này bao hàm nhiều
yếu tố duy vật, vô thần. Triết học Phật giáo sau này (nhất là phái Đại thừa) cịn
có thêm nhiều phạm trù khác nữa, song xét đến cùng, đó chẳng qua chỉ là sự

biến tướng từ các phạm trù của triết học Phật giáo nguyên thuỷ mà thôi.
Phật giáo quan niệm rằng không có ai sáng tạo ra vũ trụ, khơng thừa nhận
vũ trụ có ngày được tạo ra và có ngày bị tiêu diệt (tận thế). Vạn vật đa dạng và
vô cùng của thế giới sinh ra và tồn tại đều có nguyên nhân tự thân là do sự
chuyển biến của bản thân nó, trong nó - theo quy luật nhân quả (nhân nào, quả
nấy) và vũ trụ là tự tại (vốn có). Nhân quả là phạm trù tất yếu và phổ biến của
mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Từ phạm trù nhân quả, triết học Phật giáo đưa ra quan niệm về tính đa
dạng, tính vơ lượng của tồn tại khơng giới hạn. Những tồn tại đó lại được phân
chia thành những lớp tồn tại phân biệt nhất định với nhau mà triết học Phật giáo
8


gọi đó là “các cõi giới”. Cụ thể là: thế giới vạn vật (vạn pháp) là vô thuỷ, vô
chung (tồn tại trong không gian và thời gian vô tận); mỗi sự vật, hiện tượng cụ
thể thì có thuỷ, có chung (tồn tại trong khơng gian và thời gian có giới hạn). Mỗi
sự vật (pháp) cụ thể đều có sinh, có diệt theo quy luật “thành, trụ, hoại, không”;
mỗi sinh vật đều theo quy luật “sinh, trụ, dị, diệt”; mỗi con người đều tuân theo
quy luật “sinh, lão, bệnh, tử” [2, tr.82].
Phật giáo đề cập tới rất nhiều cõi giới với những đặc tính tồn tại khác nhau,
trong đó “cõi hữu vi” chỉ là một trong số ấy, đó là thế giới của các sự vật hiện
tượng mà các giác quan của con người có thể cảm nhận được. Nói theo ngôn
ngữ của tư duy triết học hiện đại ngày nay thì đó là thế giới các sự vật hiện
tượng vật chất - vật lý. Ngồi cõi giới này cịn có nhiều cõi giới khác mà các
giác quan thông thường của con người không thể trực tiếp cảm nhận được.
Muốn nhận thức được các cõi giới này, con người cần phải “khai mở” những
năng lực cảm nhận đặc biệt.
Trên cơ sở phạm trù nhân quả, Phật giáo đề cập đến phạm trù luân hồi.
Phạm trù này tuy được vận dụng nhiều trong việc lý giải cuộc sống nhân sinh,
nhưng thực ra nó là phạm trù cơ bản của những vấn đề thuộc thế giới quan triết

học. Các phạm trù nhân quả, luân hồi mặc dù đã được đề cập trước đó trong triết
học Upanisad và cũng không chỉ triết học Phật giáo mới khai thác các phạm trù
này, thế nhưng, quan niệm của triết học Phật giáo vẫn có những điểm khác biệt
nhất định. Sự khác biệt này liên quan trực tiếp đến việc lý giải các phạm trù vô
ngã, vô thường.
Các phạm trù “vô ngã”, “vô thường” là những phạm trù cơ bản của triết học
Phật giáo về thế giới. Vơ ngã là “khơng có cái tơi bất biến” (Anatman), cái được
gọi là “một tồn tại - sắc” nào đó với một cái “danh” nhất định nào đó, thì hồn
tồn khơng có tự tính, nó chỉ là “giả hợp” của nhân dun nhất định. Nói cách
khác, nó khơng phải là nó mà là tổng hợp của những cái khơng phải là nó, nhờ
hội đủ nhân duyên. Do đó, trong cái “một” đã tất yếu bao hàm cái “đa - nhiều”,
một là tất cả và tất cả cũng là một. Đây là nguyên lý phổ quát của thế giới quan
Phật giáo, hồn tồn đối lập với cách nhìn siêu hình về thế giới. Chính vì thế,
9


Phật giáo cho rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng xung quanh ta cũng như chính
bản thân ta là hồn tồn khơng có thực, chỉ là ảo giả, do vơ minh đem lại. Thế
giới vơ tình (vạn vật vơ tri, vô giác) được tạo thành bởi 5 yếu tố (sắc - vật chất)
là: Địa (đất, các chất khoáng); Thuỷ (nước, các chất lỏng); Hoả (lửa, các loại
nhiệt); Phong (gió, khơng khí); Khơng (khoảng trống). Thế giới hữu tình - con
người, được cấu tạo do sự nhóm họp của 5 yếu tố (ngũ uẩn) là: Sắc (vật chất); Thụ
(cảm giác); Tưởng (ấn tượng); Hành (tư duy nói chung); Thức (ý thức). Các yếu tố
Thụ, Tưởng, Hành, Thức thuộc lĩnh vực tinh thần, được gọi chung là “Danh”.
“Danh” và “Sắc” chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang
trạng thái khác, đây là cơ sở để khẳng định “khơng có cái tơi” [5, tr209].
Từ phạm trù vô ngã, triết học Phật giáo đưa ra những nguyên lý về mối
liên hệ tất nhiên, phổ biến: “có cái này thì có cái kia, khơng có cái này thì khơng
có cái kia”, rằng một cái khởi lên thì cái khác cũng động khởi, cái này tĩnh thì
cái kia cũng tĩnh. Vì thế, khơng có cái nào tồn tại biệt lập tuyệt đối so với cái

khác, tất cả đều dung nhiếp nhau, hoà đồng nhau. Mặt khác, triết học Phật giáo
còn cho rằng, bản chất sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển liên tục
(theo phạm trù “vô thường”). Vô thường là không “thường hằng”, là không “bất
biến”; không bất biến tức là biến (cái luôn luôn biến đổi mới là điều không biến
đổi, là bất biến). Biến là biến động: sinh - biến; biến - sinh; có có - khơng khơng;
nay có - mai khơng… tất cả đều tuân theo quy luật tất yếu và phổ biến là tồn tại
- không tồn tại, không tồn tại - tồn tại; nên khơng thể tìm ra ngun nhân đầu
tiên và cũng khơng có cái gì là vĩnh hằng, bất biến. Khi triết học Phật giáo đưa
ra quan niệm cho rằng, mỗi sự vật (pháp) cụ thể đều có sinh, có diệt theo quy
luật “thành, trụ, hoại, khơng”; mỗi sinh vật đều theo quy luật “sinh, trụ, dị, diệt”;
mỗi con người đều tuân theo quy luật “sinh, lão, bệnh, tử” là muốn diễn đạt cái
quy luật vô thường của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, Phật giáo đã bác bỏ sự tồn tại của Brahman (đấng sáng tạo - tồn
tại tuyệt đối) và Atman (ngã - ý thức thuần tuý) của thánh kinh Upanishad; vì
thế, Phật giáo được coi là một trong ba trường phái không chính thống (khơng
thừa nhận quyền uy của kinh Vêđa) của triết học Ấn Độ cổ, trung đại.
10


II. ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Phật giáo ở Việt Nam
Tuy Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều và trực tiếp của Phật giáo Trung Quốc
(rõ nhất là Phật giáo ở miền Bắc), nhưng Phật giáo vào Việt Nam sớm hơn vào
miền Nam Trung Quốc, do các cao tăng Ấn Độ sang truyền bá trực tiếp.
Sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam không phải xảy ra trong một lúc mà
diễn ra liên tục từ những năm đầu công nguyên cho đến các thế kỷ về sau. Lúc
đầu do người Ấn Độ truyền bá, sau đó là người Trung Hoa và có cả những người
Việt Nam sang Ấn Độ hoặc Trung Quốc để tiếp thu Phật pháp rồi về truyền bá
cho dân Việt.

Sử sách cho biết nhiều nhà sư Trung Quốc trên đường sang Ấn Độ để thỉnh
kinh đã đi theo hướng nam, dừng chân ở Châu Giao rồi ra biển Đông đi tiếp.
Trong các chuyến “Tây du” này, ngồi các nhà sư Trung Quốc cịn có các nhà sư
người Việt Nam. Thậm chí, một số nhà sư người Việt như Khuy Xung, Huệ
Diệm, Tri Hành, Đại Thặng Đăng… cịn chủ động theo thuyền bn của người
Ấn Độ để sang Tây Trúc thỉnh kinh; sở dĩ như vậy vì Phật giáo mà người Ấn Độ
và người Trung Hoa truyền sang chưa đáp ứng được nhu cầu “tầm sư học đạo”
của họ. Trong số này, tiêu biểu là Đại Thặng Đăng, ơng đã đạt đến trình độ Phật
pháp un thâm, trực tiếp giải thích được bộ “Duyên sinh luận” và đã đem kiến
thức tiếp thu được tích cực truyền bá cho nhân dân ta. Sự kiện này đã góp phần
tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam [7, tr.215].
Vào những thế kỷ đầu cơng ngun, do có nhiều yếu tố thuận lợi nên Luy Lâu
đã trở thành trung tâm Phật giáo của Việt Nam. Phật giáo được truyền bá ở đây, vào
thời điểm này là Phật giáo Đại thừa, có tính năng động và tích cực, kết hợp nhuần
nhuyễn với tính phóng khống, khơng câu nệ hay giáo điều, không cố chấp, được
tạo nên bởi truyền thống tư tưởng và tín ngưỡng của người dân bản địa.
Phật giáo Luy Lâu có những nét tương tự như tín ngưỡng của cư dân nông
nghiệp lúa nước. Phật được quan niệm như một ơng Tiên có mặt ở khắp mơi, có
thể biết được mọi nỗi suy tư và hành vi của mỗi người, có thể cứu giúp người tốt
11


và trừng trị kẻ xấu như ông Bụt trong truyện “Tấm - Cám”. Phật còn được quan
niệm như một vị thần linh có nhiều phép lạ, mang phúc trừ hoạ cho dân…
Từ Luy Lâu, Phật giáo lan truyền ra khắp đồng bằng sông Hồng, sông Mã,
sông Cả; gắn liền với tín ngưỡng dân gian, được dân gian hố và phong tục hố.
Nó thể hiện tâm lý, lịng mong ước, thế giới quan của cư dân người Việt. Chính
vì vậy mà nó có độ bền vững, có sức sống trải qua hàng ngàn năm và còn được
lưu truyền đến ngày nay.
Riêng ở miền Nam, Phật giáo tuy in đậm dấu ấn của phái Tiểu thừa, phần

nào có tính cực đoan hơn, thế nhưng, trải qua thời gian dài tồn tại, nó cũng đã
được bản địa hoá để phù hợp với phong tục tập quán của người dân Việt Nam.
Trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã có nhiều cơng hiến to lớn vào sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Phát huy truyền thống đó, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược, Phật giáo cũng đã có những đóng góp đáng
kể vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những năm
gần đây, nhiều thành tựu to lớn mà nước ta đã đã được trên các phương diện, có
sự đóng góp cơng sức khơng nhỏ của Phật tử cả nước. Hiện tại, nước ta có trên
20 triệu tín đồ theo đạo Phật, nếu tính cả những người có tín ngưỡng Phật giáo
thì con số này còn lớn hơn. Hoạt động của Giáo hội Phật giáo được duy trì ngày
càng đa dạng trong khn khổ Pháp luật. Nhiều chùa chiền cũng như các Học
viện, Trường Cao đẳng Phật học được khôi phục và xây dựng mới theo chủ
trương, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Các Học viện, Trường
Đại học trong hệ thống giáo dục quốc gia cũng đã đưa chương trình nghiên cứu
tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng vào học tập, nghiên cứu để tìm ra những
điểm tích cực cũng như hạn chế của nó đối với xã hội ngày nay. Đây chính là
những phương thức, là điều kiện để tư tưởng Phật giáo còn ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần, nhất là trong quá trình xây dựng phẩm chất đạo đức của người
Việt Nam.
2.2. Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người Việt Nam hiện nay
12


Như trên đã đề cập, Phật giáo vào Việt Nam qua hai con đường ở hai miền
Bắc, Nam. Phật giáo ở Miền Bắc được du nhập sớm hơn và thiên về phái Đại
Thừa, cịn ở Miền Nam thì được du nhập muộn hơn và thiên về phái Tiểu Thừa.
Điều này, đến nay còn được thể hiện rõ qua việc bố trí điện thờ tại các chùa
chiền và lịng tin của các Phật tử ở hai miền. Tuy có sự khác nhau nhất định,
song xét đến cùng, những tinh hoa triết học Phật giáo được cải biến sau khi du

nhập, cùng với nền văn hoá bản địa và Nho giáo, Đạo giáo, đã có những ảnh
hưởng sâu đậm đến tư tưởng của con người Việt Nam, góp phần tạo nên bản sắc
văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, lưu truyền mãi đến ngày nay. Bởi
lẽ, từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã tồn tại gắn liền với lịch sử dân tộc,
đã có đóng góp quan trọng vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
những tư tưởng cơ bản của nó đã ngấm sâu vào máu thịt, vào tư duy, trở thành
một bộ phận văn hoá, nếp sống và phong tục, tập quán của người Việt.
Theo suốt chiều dài của lịch sử, ngày nay Phật giáo ở nước ta vẫn cịn tồn
tại. Số tín đồ và những người có cảm tình với Phật giáo hiện rất lớn, kinh sách
nhà Phật và chùa chiền được củng cố và xây dựng mới ngày càng nhiều, việc
nghiên cứu Phật học ngày càng được quan tâm đúng mức, vai trị và cơng lao
đóng góp của Phật tử đối với sự phát triển của đất nước ngày càng có ý nghĩa
thiết thực. Có thể khẳng định, ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và tư tưởng
triết học Phật giáo nói riêng đối với xã hội ta hiện nay là đáng kể. Do thời gian
có hạn nên trong phạm vi bài tiểu luận này chỉ đề cập đến một số ảnh hưởng về
mặt tinh thần của người Việt Nam trên các phương diện thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp tư duy và quan niệm về đạo đức mà thôi.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế có
nhiều thành phần và được vận hành bằng cơ chế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều đó đã chứng tỏ hiện nay nước ta có nhiều giai tầng với
nhiều lớp người khác nhau, trong đó, phổ biến hơn cả vẫn là lớp người truyền
thống chiếm tỉ lệ khá lớn, đang sinh sống ở nơng thơn, thậm chí cả ở thành thị.

13


Đã có con người truyền thống thì dứt khốt phải tồn tại thế giới quan truyền
thống gắn liền với phong tục và tập quán truyền thống. Trong thế giới quan truyền
thống ấy, đương nhiên có sự ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo. Biểu hiện:
Thấm nhuần tư tưởng triết học Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là

sự kết hợp động của những yếu tố động, nên nó khơng có tự tính, tức là khơng
có cái mà nhờ đó có thể gọi nó là nó. Mọi cái đều “vô ngã”, ngay con người
cũng chỉ là kết hợp động của “ngũ uẩn”, bởi vậy, con người cũng là vơ ngã. Đã là
vơ ngã, đã khơng có cái gì mà nhờ đó tơi có thể được gọi là tơi, ta có thể được gọi
là ta, thì sống với chết, sinh với tử nào có nghĩa lý gì, đó chẳng qua chỉ là sự đổi
thay, là sự hợp tan của ngũ uẩn. Vì thế, trước cái chết, người Việt Nam không hề
khiếp sợ hay bạc nhược, họ sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì nghĩa cả.
Cũng xuất phát từ quan niệm này mà người Việt Nam thường tuân theo quy
luật “trẻ vui nhà, già vui chùa”. Đi chùa đối với các cụ già đã trở thành một
truyền thống lâu đời ở nước ta, nhất là các cụ bà. Các cụ già, một mặt do tuổi
cao sức yếu không thể lao động, nên thường có thời gian rỗi rãi; mặt khác, tuổi
đời của họ đã ở buổi xế chiều, mọi đắng cay ngọt bùi trên cõi đời họ đã từng
nếm trải, do đó, họ có một tầm nhìn sâu xa, bao dung, muốn cầu xin và để lại
phúc đức cho con cháu và muốn có một sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Vì vậy, họ
đến chùa khơng chỉ để vui thú tuổi già mà còn để thực hiện ước nguyện chân
thành, sâu kín của họ. Ngày nay, với chủ trương khơi phục tinh hoa văn hố
truyền thống trong cảnh thái bình, các cụ lại thường xuyên đến chùa vào những
ngày sóc, vọng (mùng một và rằm âm lịch), thậm chí cả những ngày ma chay,
giỗ tết. Cảnh thanh tịnh, trầm mặc, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng mõ đều
đặn cùng tiếng kệ, lời kinh không thể không ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành
động của họ; thuyết từ bi, cứu khổ, cứu nạn, kiếp luân hồi, luật nhân quả, nghiệp
báo không thể không lay động tâm can của họ; đặc biệt là thuyết vô thường của
nhà Phật đối với họ - với những người sắp từ giã cõi trần gian này lại càng thấm
thía sâu sắc hơn.
Một tư tưởng triết học của Phật giáo ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của
phần lớn người Việt Nam hiện nay là luật nhân quả. Xuất phát từ việc Phật đã
14


nhìn ra mối quan hệ tất yếu, phổ biến của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới là

quan hệ nhân quả và điều đó đã được trải nghiệm, minh chứng trong thực tiễn,
nên người Việt rất tin. Người ta thường nói với nhau: “Gieo nhân nào thì gặt quả
ấy”, “Gieo gió gặt bão”… Để hiểu cho đến ngọn nguồn quan niệm này của Phật
giáo đối với người dân thường thật không đơn giản, nhất là thuyết luân hồi, quả
báo; thế nhưng, vì nó rất gần gũi với cuộc sống nên ai cũng có thể hiểu được
phần nào. Bên cạnh mặt tiêu cực, quan niệm này cũng có mặt tích cực nhất định,
vì ảnh hưởng của nó đã góp phần vào việc làm hạn chế các tệ nạn xã hội. Trên
thực tế, nếu ai cũng đơn thuần cho rằng: đời người chỉ sống có một lần mà thơi,
chết là hết, không chịu trách nhiệm với những việc đã gây ra khi còn sống…
chắc hẳn họ sẽ thiên về hưởng thụ theo kiểu sống gấp, dẫn đến tham lam, tàn
bạo. Một khi tính ích kỷ và “cái tơi” lên đến cực điểm, con người sẽ bất chấp
công bằng và lẽ phải, sẵn sàng chà đạp lên luân lý đạo đức, để thoả mãn những
dục vọng cá nhân thấp hèn. Đây là dấu hiệu suy thoái trong cuộc sống, cần phải
được đấu tranh ngăn chặn. Hiện tại đã xảy ra những tệ nạn xã hội có nguyên
nhân bắt nguồn từ quan niệm nêu trên. Vì thế, một mặt chúng ta cần phổ biến,
tuyên truyền pháp luật, mặt khác cũng nên đề cao giáo dục và khơi dậy lương
tâm ở mỗi người, bởi lẽ “tồ án lương tâm” cũng có vai trị khơng nhỏ trong quá
trình điều chỉnh hành vi của con người.
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với thế giới quan của người Việt Nam hiện
nay cịn thể hiện khơng chỉ ở quan niệm của Phật giáo về vũ trụ, thế giới, mà
cịn ở quan niệm của nó về con người và cuộc đời của họ. Phật giáo cho rằng đời
là khổ, cuộc đời là bể khổ; cái khổ ấy tuy có yếu tố vật chất nhưng lại nghiêng
về tinh thần cá nhân. Nếu bỏ qua hay không chú ý nhiều đến cái khổ về vật chất,
cái khổ do xã hội gây ra, thì sẽ dẫn đến tư tưởng an phận thủ thường, không dám
đấu tranh, và như vậy xã hội không thể có động lực để phát triển. Đây cũng là
ảnh hưởng tiêu cực cần được đấu tranh khắc phục.

15



KẾT LUẬN
Phật Giáo là một học thuyết triết học - tôn giáo được truyền bá vào nước ta
từ rất sớm và tồn tại trải qua hàng ngàn năm. Trên cơ sở văn hoá tinh thần bản
địa làm nền tảng, tư tưởng triết học Phật giáo cùng các tư tưởng triết học du
nhập khác đã được người Việt Nam tiếp thu, cải biến cho phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh sống của mình, góp phần tạo nên những giá trị văn hoá tư tưởng
truyền thống, in đậm bản sắc dân tộc.
Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tồn tại lâu dài ở Việt Nam, tuy trải
qua những bước thăng trầm, lúc được tôn là quốc giáo, lúc bị xem là tà đạo và bị
cơng kích kịch liệt; nhưng nhìn chung, những tư tưởng triết học cơ bản của Phật
giáo đã ăn sâu bám rễ vào tâm thức người Việt; ngày nay, những tư tưởng đó vẫn
đang cịn ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta, tác động
trên cả hai phương diện: tích cực và tiêu cực, cần phải nghiên cứu tìm ra giải
pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực, ngăn chặn và đẩy lùi những ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng Phật giáo, góp phần đảm bảo cho đất nước ta phát
triển nhanh và bền vững (lĩnh vực này rất rộng, đã được nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến, khi có điều kiện, bản thân tôi sẽ nghiên cứu nội dung này trong một
chuyên đề riêng); song theo tôi, hiện nay tinh hoa triết học Phật giáo vẫn cịn
ngun giá trị, có ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình xây dựng phẩm chất đạo
đức của con người Việt Nam nói riêng và xây dựng xã hội mới nói chung./.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Cần (2017), Tinh hoa Phật giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Thích Nữ Trí Hải dịch (2014), Đức Phật đã dạy những gì (con đường
thốt khổ), Nxb Tơn giáo, Hà Nội.
3. Phương Kỳ Sơn (2015), Lịch sử Triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Tài Thư (2013), Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Thích Minh Thuận (2008), Phật học căn bản, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Viện Triết học (2014), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Hữu Vui (2012), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17



×