Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Khối ủy ban hành chính nhà nước bài tiểu luận quản lý cấp phòng, quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.18 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
----------

LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUN VIÊN CHÍNH
Tổ chức tại ………………………………………………………..

TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chủ đề 1:
“Phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi phá rừng theo quy định của pháp luật
nhằm giáo dục ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong bảo vệ rừng ở địa phương, tạo
điều kiện cho người dân hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng”

Chủ đề 2:
“Xử lý tình huống về việc phối hợp trong công tác giáo dục trên địa bàn huyện......... –
tỉnh .................”

Chủ đề 3:
“Xử lý tình huống giải quyết đơn khiếu nại của gia đình bệnh nhân ở xã B, Huyện
C, tỉnh ................”

Họ và tên: ………………………..
Lớp: …………………………..
Đơn vị công tác: …………………………
…………, tháng 5/2021


MỤC LỤC
Trang


PHÂN 1: LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………….............2
1.1. Lý do lựa chọn đề tài………………………………………………….. .2
1.2. Mục tiêu đề tài……………………………………………………….….3
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài……………………………………...…..3
1.4. Phạm vi nghiên cứu đề tài……………………………………............... 3
1.5. Bố cục của tiểu luận………………………………………………….…3
PHẦN 2: NỘI DUNG………………………………………………………..4
2.1. Mô tả tình huống………………………………………………………...4
2.1.1. Hồn cảnh xuất hiện tình huống………………………………………4
2.1.2. Mơ tả tình huống………………………………………………………4
2.2.Phân tích tình huống……………………………………………………..5
2.2.1. Mục tiêu phân tích tình huống………………………………………...5
2.2.2. Cơ sở lý luận……………………………………………………….….6
2.3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả…………………………………...….9
2.3.1. Nguyên nhân…………………………………………………………10
2.3.2. Hậu quả………………………………………………………………14
2.4. Xác định mục tiêu xử lý tình huống……………………………………15
2.4.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống………………………………...16
2.4.1. Mục tiêu xử lý tình huống……………………………………………16
2.4.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống………………………………...17
2.4.3. Lựa chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý tình huống………...18
PHẦN 3: KẾT LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………20
3.1. Kết luận………………………………………………………………...20
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………….21
3.2.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước………………………………………21
3.2.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng…………………………………....22
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….23


PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU

1.1. Lý do lựa chọn đề tài.
Rừng và đất rừng nước ta chiếm hơn 60% tổng diện tích tự nhiên, là
tài nguyên quý của quốc gia. Nó đóng vai trị quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Ngày nay diện tích
rừng của nước ta đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng, kéo theo đó là
nhiều lồi động vât, thực vật rừng q, hiếm đang có nguy cơ đe dọa bị tuyệt
chủng là bộ phận quan trọng của môi trường sống, đồng thời cũng là một
trong những thế mạnh của khu vực tây nguyên, nơi có nhiều đồng bào dân
tộc ít người sinh sống, là địa bàn có vai trị rất trọng yếu đối với an ninh,
quốc phịng, kinh tế và văn hố cơng cộng.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính
sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. trong đó trực tiếp
là lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng của các đơn vị chủ rừng nhà nước,
lực lượng kiểm lâm các cấp đã có nhiều cố gắng thực hiện chủ trương, chính
sách nói trên của Đảng và Nhà nước trong kinh doanh phát triển nghề rừng;
quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản; đấu tranh với các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng, phục vụ đời sống dân sinh cả
nước.


Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu, nhiệm vụ công tác quản lý, bảo vệ
rừng, quản lý lâm sản của Đảng, Nhà nước đặt ra, thì việc tổ chức thực hiện
của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn, lực lượng Chuyên trách bảo
vệ rừng, lực lượng Kiểm lâm và các cơ quan hữu quan trong những năm qua
còn nhiều hạn chế, nhất là chưa khống chế được các vi phạm pháp luật khiến
cho nạn phá rừng, đốt cây, cháy rừng, lấn rừng, khai thác rừng trái phép diễn
ra nghiêm trọng.
Các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý

lâm sản đang là một thách thức lớn đối với công tác quản lý nhà nước của
các cơ
quan chức năng từ trung ương đến các địa phương. Để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản,
một trong những biện pháp có tính cấp thiết hiện nay là phải xử lý nghiêm
minh các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Vì vậy, xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là vấn đề nghiên
cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn hiện nay.
Mặc dù tình trạng vi phạm giảm qua các năm, nhưng số vụ vi phạm
còn lớn, diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, với tính chất, mức độ ngày càng
nghiêm trọng đang tạo gánh nặng cho các lực lượng chức năng, nhất là lực
lượng huyên trách bảo vệ rừng, lực lượng kiểm lâm trong ngăn chặn hành vi
vi phạm pháp luật. Nguyên nhân của vấn đề này có thể được đề cập ở nhiều
phương diện, trong đó phải kể đến cơng tác giao đất, giao rừng, khốn bảo
vệ rừng, tổ chức thực hiện cơ chế hưởng lợi của người làm rừng còn chưa
hợp lý nên người dân sống xung quanh rừng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu
số còn chưa hiểu, chưa thực hiện các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ
rừng; thậm chí cịn xâm hại tài nguyên rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng.
Trong khi đó, để quản lý và bảo vệ rừng có hiệu quả, một trong những giải
pháp cần được các cấp chính quyền thực hiện là vừa phải kết hợp giữa xử lý
nghiêm minh các hành vi phá rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với việc
tạo các điều kiện cần thiết để cho những người dân sống xung quanh rừng
được hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng lại chưa thực sự được quan
tâm. Vì vậy, để góp phần tạo chuyển biến cơ bản và bền vững trong công tác
quản lý, bảo vệ rừng
Với những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Phát hiện và xử lý
nghiêm minh các hành vi phá rừng theo quy định của pháp luật nhằm
giáo dục ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong bảo vệ rừng ở địa
phương, tạo điều kiện cho người dân hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo
vệ rừng”…

1.2 Mục tiêu đề tài.
Ngăn chặn nạn chặt phá rừng trái pháp luật và xử lý triệt để các vụ


việc vi phạm pháp luật về lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ và phát triển rừng;
quản lý lâm sản góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường
sống của con người.
1.3 Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Phương pháp phân tích kẽ hở: tìm ra vi phạm của đối tượng vi phạm.
Phương pháp lý luận thực tiễn: căn cứ trên các văn bản quy phạm của
Nhà nước.
Phương pháp so sánh: đưa ra các phương án tối ưu để lựa chọn cách
giải quyết tốt nhất.
1.4 Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi không gian: vụ việc phá rừng, lấn chiếm rừng trái pháp luật
Tại huyện Bảo Lâm tỉnh........
Phạm vi thời gian: vụ việc xảy ra vào tháng 3 năm 2017.
1.5 Bố cục của tiểu luận.
Ngồi Lời nói đầu, Kiến nghị và kết luận, tài liệu tham khảo thì nội
dung
chính của tiểu luận gồm 5 phần:
1. Mơ tả tình huống
2. Xác định mục tiêu, xử lý tình huống
3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
Do thời gian làm tiểu luận có hạn và năng lực của bản thân còn hạn
chế nên bài tiểu luận khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong q thầy,
cơ góp ý cho bài tiểu luận của em được hồn thiện hơn.
PHẦN 2: NỘI DUNG

2.1. Mơ tả tình huống.
2.1.1. Hồn cảnh xuất hiện tình huống
Xã ........, ........ huyện ................, tỉnh ......... là xã vùng sâu vùng xa
(thộc tỉnh Nam tây ngun, huyện phía nam của tỉnh.......) có diện tích chủ
yếu là rừng là rộng thường xanh . Ở đây chỉ có rừng và rừng. Tứ bề là cây
đại thụ, là vực thẳm. Rừng ở đây rất đa dạng và phong phú, nhưng đời sống
nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và những người từ các tỉnh
phía Bắc di cư vào đời sống kinh tế rất khó khăn. Một số hộ dân từ phía Bắc
vào đã xúi giục các hộ dân là đồng bào dân tộc địa phương tổ chức phá rừng
một cách “bài bản” để lấy đất sản xuất. Họ thường xuyên theo dõi, nắm chắc
quy luật đi tuần tra, kiểm tra của lực lượng bảo vệ rừng. Họ dùng các
phương tiện thông tin liên lạc như bộ đàm, điện thoại di động để thông báo


cho nhau khi phát hiện lực lượng bảo vệ rừng. Thường tổ chức số đông trong
việc phá rừng để tạo thế áp đảo với lực lượng chức năng khi bị phát hiện.
Việc phá rừng thường được tổ chức vào ban đêm. Khi gặp lực lượng chức
năng những đối tượng này sẵn sàng chống trả, thậm chí khi đã bị tịch thu gỗ
về trụ sở của Cụm Kiểm lâm địa bàn nhiều người cịn manh động tấn cơng
để cướp lại gỗ…
2.1.2. Mơ tả tình huống.
Ngày 24 tháng 5 năm 2015, Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng phối
hợp kiểm lâm viên đến hiện trường tại tiểu khu 390 thì thấy diện tích rừng bị
chặt phá khá rộng. Sau khi đo đạc xác định là 7.800 m2. Trên diện tích bị
chặt phá khơng có các loại thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
nhóm IA, IB thuộc danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm quy định tại Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006
của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm. Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng phối hợp kiểm lâm viên đã tiến
hành lập biên bản hiện trường để báo cáo các cơ quan chức năng xử lý.

Vào hồi 19 giờ ngày 12 tháng 10 năm 2017, nhận được tin báo của
quần chúng nhân dân, có một số đối tượng vào rừng để phá rừng làm rẫy,
kiểm lâm viên địa bàn thuộc Hạt kiểm lâm huyện Bảo lâm phối hợp với Lực
lượng chuyên trách bảo vệ rừng của Công ty TNHH MTV lâm nghiệp ........,
tiến hành kiểm tra tiểu khu 431 ranh giới hành chính xã ....... huyện ......, phát
hiện Ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều, người đồng
bào dân tộc Châu Mạ, đều thường trú tại thôn .... xã ..... huyện .......tỉnh.......,
đang tiến hành chặt phá cây rừng để lấy đất sản xuất. Khi lực lượng chuyên
trách và kiểm lâm đến và yêu cầu khơng được phép phá rừng thì K’Vríp cùng
các đối tượng đã có hành vi chống đối, khơng cho lực lượng kiểm lâm thu giữ
các công cụ, phương tiện được sử dụng để phá rừng như dao phát, cưa xăng
cầm tay…, đèn pin… Họ cố tình khơng chấp hành và vẫn ngang nhiên dùng
dao, cưa máy tiếp tục chặt cây rừng, gây gổ với lực lượng chuyên trách và cán
bộ kiểm lâm nếu khơng để cho họ làm thì sẽ “chém”. Nhận thấy nếu cứ giành
giật như vậy thì có thể các hộ dân khác đang phá rừng ở gần đó có thể thấy
động và đến chi viện thì với lực lượng mỏng, không đủ để giải quyết vụ việc,
nên kiểm lâm viên chỉ đạo tổ công tác tiến hành lập biên bản, sau đó rút về
Cụm kiểm lâm địa bàn để tìm biện pháp giải quyết.
Nhận thấy tình hình ngày càng có khả năng phát triển phức tạp mà lực
lượng chuyên trách bảo vệ rừng, kiểm lâm lại mỏng, tính chất vụ việc có sự
tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số có thể gây nên nhiều bất ổn về chính
trị nếu khơng được xử lý một cách khôn khéo. Ngày 16 tháng 10 năm 2017,
nhận sự chỉ đạo của UBND huyện, Công ty phối hợp Hạt kiểm lâm, chính
quyền địa phương đến thơn bn, nơi gia đình ông K’Vríp đang sinh sống để


gặp trưởng thôn K’Poi và già làng để giúp lực lượng chuyên trách và kiểm
lâm tuyên truyền, giải thích, vận động gia đình ơng K’Vríp và nhiều hộ dân
khác khơng phá rừng để làm rẫy, trồng cà phê, trồng điều nữa mà chờ đợi
chính quyền có các chương trình phù hợp cho bà con tham gia vào các dự án

trồng rừng, bảo vệ rừng nhưng già làng đã từ chối vì “họ đang cần đất để
làm sản xuất, trồng bắp, lúa, chè… để có cái ăn, khơng sẽ bị đói nên có nói
gì thì họ cũng khơng nghe đâu” và “Cái nếp sống du canh, du cư vẫn còn
nặng lắm các cán bộ à!”. Cũng theo trưởng thôn K’Poi gia đình ơng K’Vríp
từ trước đến nay ln chấp hành tốt các quy định của địa phương, nay nghe
theo lời của một số “người xấu” xúi bẩy tham gia phá rừng làm rẫy.
2.2.Phân tích tình huống.
2.2.1. Mục tiêu phân tích tình huống.
Mục tiêu phân tích tình huống là nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm
của hộ Ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều theo quy
định của pháp luật hiện hành; thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm
của các Ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều. Thơng qua
đó tìm hiểu các ngun nhân, hậu quả, nhất là những nguyên nhân gắn với
điều kiện sinh hoạt, phong tục tập quán, luật tục của địa phương để góp phần
giải quyết một cách thấu tình, đạt lý tình huống nêu trên.
2.2.2. Cơ sở lý luận.
a. Nhận thức chung về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm pháp luật
trong quản lý, bảo vệ rừng.
Rừng là tài nguyên của quốc gia, là bộ phận quan trọng của môi
trường sinh thái. Vì vậy, để khai thác rừng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã
hội và phát triển rừng vì tương lai, lợi ích của quốc gia một cách có hiệu
quả, Nhà nước phải thống nhất quản lý, bảo vệ rừng. Trong đó, quản lý rừng
là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật Nhà nước và các biện
pháp mang tính kinh tế, hành chính, dân sự và cả cưỡng chế trong những
trường hợp cần thiết đến hành vi của các cá nhân, tổ chức trực tiếp tham gia
hoặc có liên quan đến các q trình phát triển, khai thác rừng và các sản vật
từ rừng nhằm bảo vệ và phát triển rừng vì lợi ích của Nhà nước và của tồn
xã hội.
Thuật ngữ quản lý có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau như
là sự giữ gìn, trơng coi, bảo vệ, điều khiển, chỉ đạo, tác động, tổ chức…Vì

vậy, có thể thấy, quản lý nhà nước đối với rừng là một nội dung có tính chất
bao trùm, trong đó bao gồm cả phát triển rừng, bảo vệ rừng và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về Luật lâm nghiệp, Luật đất đai...
Để quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, Nhà nước phải thực
hiện đồng bộ các nội dung để ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, kiểm tra, thanh tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về


Luật lâm nghiệp, Luật đất đai. Xử lý vi phạm pháp luật là một nội dung quan
trọng của quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng. Tuỳ thuộc vào hành
vi vi phạm được pháp luật xác định chế tài (hình sự, dân sự, hành chính, kỷ
luật…) và tính chất, mức độ của hành vi đó mà các chủ thể có thẩm quyền sẽ
tiến hành các biện pháp và các thủ tục cần thiết để truy cứu trách nhiệm pháp
lý tương ứng nhằm trừng phạt vi phạm, khôi phục trật tự pháp lý bị xâm hại
và khắc phục các hậu quả do vi phạm đó gây ra.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhu cầu gỗ, lâm sản rất lớn,
trong khi dân số ngày càng tăng, công tác quản lý, bảo vệ rừng của các lực
lượng chức năng, đặc biệt là lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, lực lượng
kiểm lâm còn hạn chế khiến cho các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
gia tăng một cách đáng kể cả về số lượng, tính chất, mức độ. Vì vậy,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý rừng cần gắn bó chặt chẽ với việc bảo
đảm trật tự pháp luật (pháp chế xã hội chủ nghĩa). Chỉ thị số 13-CT/TW ngày
12/01/2017của ban Bí thư; Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 08/08/2017của
chính phủ về thực hiện chỉ thị số 13-CT/TW, Luật Lâm nghiệp; Nghị định số
156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Lâm nghiệp, Nghị định, thơng tư có liên quan...Các chỉ
thị số: 12/2003/CT-TTg của thủ tướng chính phủ “ về việc tăng cường các
biện pháp cấp bách quản lý bảo vệ rừng”.Chỉ thị số: 30-CT/TU ngày
26/3/2015 của Tỉnh Ủy Lâm Đồng;Kế hoạch số 25/KH-TU ngày 31/3/2018
của tỉnh ủy Lâm Đồng V/v thực hiện chỉ tịnh số 13-CT/TW; Nghị quyết số:

03-NQ/HU ngày 29/12/2015 của ban chấp hành Đảng bộ huyện Bảo Lâm
khóa V về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý, bảo vệ
phát triển rừng giai đoạn 2015-2020 và những năm tiếp theo. xác định cơ sở
lý luận cần thiết cho hoạt động của các cơ quan chức năng, nhất là ở mỗi cấp
chính quyền địa phương và cơ quan kiểm lâm trong việc chủ động phân cấp,
kiện tồn tổ chức, bố trí cán bộ, công chức hợp lý, tham mưu cho hiệu quả
cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp, chương trình, dự án để
quản lý, bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn, đặc biệt là phải gắn việc xử lý các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực này với việc thực hiện các chương trình, dự
án để ổn định đời sống cho nhân dân, giải quyết nguyên nhân cơ bản dẫn đến
phá rừng, huỷ hoại rừng trên phạm vi nhiều địa phương hiện nay.
b. Cơ sở pháp lý về Luật lâm nghiệp và xử lý vi phạm pháp luật về Luật lâm
nghiệp.
Năm 1991, lần đầu tiên Nhà nước ta ban hành một văn bản luật điều
chỉnh thống nhất các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
Sau 13 năm thực hiện, văn bản này đã khơng cịn đáp ứng được các u cầu
quản lý và phát triển rừng thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu, rộng vào các quan hệ quốc tế trong


khu vực và thế giới. Vì vậy, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội ban hành
Luật số 29/2004/QH11 về bảo vệ và phát triển rừng (gọi tắt là Luật bảo vệ
và phát triển rừng); Đến ngày 15 tháng 11 năm 2017; Quốc hội ban hành Luật
số: 16/2017/QH14 (gọi là Luật lâm nghiệp) trong đó quy định hai nhóm vấn
đề là quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng và quyền, nghĩa vụ của chủ
rừng. Đồng thời, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2017 cũng quy định
những hành vi bị nghiêm cấm để làm cơ sở cho việc xác định chế tài cụ thể
đối với các hành vi vi phạm.
Hiện nay, với các vi phạm hành chính trong quản lý, bảo vệ rừng được
xử lý theo Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2019 về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp. Nghị định này còn xác
lập cơ sở pháp lý cho việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội
phạm (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) và
tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 176)). Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện vi phạm, các đối tượng thường không chỉ dừng lại ở các hành
vi vi phạm trên mà có thể kéo theo các vi phạm khác (hình sự, hành chính,
dân sự, kỷ luật). Vì vậy, q trình xử lý thường hết sức phức tạp, bởi khơng
chỉ xác định đúng vi phạm, áp dụng đúng chế tài, đảm bảo thực thi quyết
định vì sự nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa mà cịn
phải đảm bảo cả các u cầu về chính trị-xã hội, ổn định an ninh, trật tự địa
phương trước mắt cũng như lâu dài.
Bảo vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ của Nhà nước và là nghĩa vụ
của toàn dân, trong đó lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng và lực lượng
Kiểm lâm là nòng cốt. Tổ chức và hoạt động của lực lượng Chuyên trách
bảo vệ rừng và lực lượng Kiểm lâm được quy định tại Nghị định số
01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 về Kiểm lâm và lực lượng Chuyên trách
bảo vệ rừng. Điều 73, 74, 103, 104 Luật lâm nghiệp. Theo đó, lực lượng
kiểm lâm có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc bảo vệ rừng, khai thác rừng,
sử dụng rừng, lưu thông, vận chuyển, kinh doanh lâm sản; đấu tranh phòng,
chống các hành vi vi phạm pháp luật về Luật lâm nghiệp; đồng thời có
quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành
vi vi phạm hành chính, khởi tố, điều tra hình sự đối với những hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự và pháp luật về tố tụng hình
sự. Trong xử phạt vi phạm hành chính, lực lượng kiểm lâm thực hiện thẩm
quyền theo quy định tại Điều 26 Nghị định của Chính phủ số 35/2019/NĐCP. Ngồi ra, lực lượng kiểm lâm cịn có nhiệm vụ tun truyền, vận động
nhân dân bảo vệ và phát triển rừng; phối hợp với đơn vị chủ rừng nhà nước,
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xây dựng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho
lực lượng quần chúng bảo vệ rừng.



Bên cạnh đó, theo quy định tại Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày
16/11/2019 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật lâm
nghiệp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý tồn bộ tài ngun rừng và tài nguyên
đất lâm nghiệp của quốc gia thuộc phạm vi địa bàn của tỉnh, thành phố; Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh về việc để xảy ra phá rừng trái phép, cháy rừng, mất
rừng, sử dụng đất lâm nghiệp sai mục đích ở địa phương; Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
về việc để xảy ra phá rừng trái phép, cháy rừng, mất rừng, sử dụng đất lâm
nghiệp sai mục đích ở địa phương.
c. Đường lối, quan điểm xử lý
Đường lối, quan điểm xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý rừng, bảo
vệ rừng liên quan đến đối tượng là người dân tộc thiểu số là:
+ Phải kết hợp chặt chẽ giữa việc phát hiện kịp thời, ngăn chặn vi
phạm, tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật với tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục nhân dân và tạo các điều kiện thuận lợi cho nhân dân ổn định về
đời sống vật chất, tinh thần để ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn và giúp đỡ lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng, kiểm lâm
trong quản lý, bảo vệ rừng.
+ Áp dụng đúng các quy định pháp luật để xử lý nhưng có tính đến các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân người vi phạm, điều kiện, hồn cảnh
kinh tế, trình độ dân trí.
+ Xử lý nghiêm các đối tượng tổ chức, cầm đầu, chủ mưu, kích động,
lơi kéo, rủ rê đồng bào dân tộc thiểu số phá rừng làm rẫy. Nhanh chóng thực
hiện các biện pháp ngăn chặn vi phạm tiếp diễn, huy động lực lượng và các
nguồn lực một cách hiệu quả để khắc phục các hậu quả do vi phạm pháp luật.
d. Kinh nghiệm xử lý, giải quyết các vi phạm pháp luật do người dân tộc
thiểu số thực hiện

Trên cương vị Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Bảo Lâm, để xử lý các
vi phạm pháp luật do người dân tộc thiểu số thực hiện trên địa bàn một cách
có hiệu quả cần phải:
+ Phát huy vai trị của chính quyền cơ sở, đặc biệt là của kiểm lâm
viên phụ trách địa bàn tại xã Lộc Bắc, Lộc Bảo và Lực lượng Chuyên trách
bảo vệ rừng, các cộng tác thuyết phục người dân tham gia bảo vệ rừng và
PCCCR và hưởng lợi một cách hợp pháp tài nguyên rừng.
+ Tích cực vận động trưởng thơn, già làng, những người có uy tín
trong bn giúp đỡ kiểm lâm lực lượng Chun trách bảo vệ rừng, tuyên
truyền, vận động, thuyết phục để người vi phạm không tiếp tục vi phạm nữa;
đồng thời, nhận thức rõ trách nhiệm pháp luật vì đã có hành vi vi phạm. Tập


trung tham mưu cho chính quyền xã đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết
các vấn đề liên quan đến đời sống vật chất, nhu cầu sản xuất, canh tác của
người dân.
+ Áp dụng chế tài xử lý trên cơ sở tạo cơ hội và các điều kiện để đối
tượng có thể thực hiện được.
2.3. Phân tích ngun nhân và hậu quả.
Bất kỳ một sự việc nào xảy ra trong đời sống xã hội đều có những
nguyên
nhân của nó. Việc phân tích ngun nhân của tình huống này sẽ giúp cho
chúng
ta xây dựng được các phương án giải quyết có hiệu quả, mang tính khoa học

đúng pháp luật.
Tình huống vi phạm pháp luật của Ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo,
K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều là một điển hình về hoạt động phá rừng làm rẫy,
trồng sắn, trồng ngô, trồng cây lâu năm như điều, hồ tiêu, cà phê…ở một số
địa phương, trong đó có địa bàn tỉnh........ Trên cơ sở các quy định pháp luật

hiện hành, có thể xác định các vi phạm của hộ gia đình Ơng K’Vríp, K’Vrẹp,
K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều như sau:
Với diện tích rừng sản xuất bị chặt phá để lấy đất canh tác là 11.200
m2, gồm 6 người do ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm,
K’Vrều đã thực hiện hành vi phá rừng trái pháp luật. Theo quy định tại Điều
20 Nghị định của Chính phủ số 35/2019/NĐ-CP thì Hành vi chặt, đốt, phá
cây rừng, đào, bới, san ủi, nổ mìn; đắp đập, ngăn dịng chảy tự nhiên, xả chất
độc hoặc các hành vi khác gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ mục đích gì (trừ
hành vi quy định tại Điều 13 của Nghị định này) mà không được phép của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị xử phạt như sau:
Xử lý hành vi quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản
5, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 và khoản 10 Điều này Nghị định số
35/2019/NĐ-CP.
Loại rừng mà ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều
chặt phá là rừng sản xuất, có diện tích từ trên 1.500m 2 đến dưới 2000m2 thì
bị áp dụng hình thức xử phạt là phạt tiền (hình thức xử phạt chính); tịch thu
lâm sản, cơng cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính (hình thức
phạt bổ sung); bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng lại rừng
(biện pháp khắc phục hậu quả). Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 20 Nghị
định số 35/2019/NĐ-CP, vi phạm của các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo,
K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều không cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều
175 Bộ luật hình sự năm 1999.
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 20 Nghị định số


35/2019/NĐ-CP, ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều
đều bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Theo quy định thì khung
tiền phạt là từ 25.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 57, Điều 8 và Điều 9 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012, vi phạm của ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều

có cả tình tiết tăng nặng (vi phạm nhiều lần, tiếp tục thực hiện hành vi vi
phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó) và
giảm nhẹ (vi phạm vì hồn cảnh khó khăn mà khơng do mình gây ra, vi
phạm do trình độ lạc hậu). Vì vậy, trong quyết định có thể áp dụng tình tiết
tăng nặng, cũng có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ hoặc khơng áp dụng để
xác định mức trung bình của khung tiền phạt.
Các lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng và kiểm lâm viên thực thi
công vụ đã lựa chọn phương án hành động hợp lý, vừa đảm bảo yêu cầu của
pháp luật trong việc lưu giữ căn cứ cho việc đấu tranh, xử lý vi phạm (lập
biên bản về vi phạm hành chính), vừa bảo tồn được lực lượng trong trường
hợp lực lượng mỏng, khơng đủ điều kiện để xử lý triệt để vi phạm. Đồng
thời, tiến hành tham mưu, sử dụng các biện pháp quản lý mềm dẻo để tác
động đến nhận thức, thái độ của đồng bào nhằm từng bước tạo sự chuyển
biến về hành vi chấp hành pháp luật.
2.3.1. Nguyên nhân.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm trên trong đó
phải kể
đến một số nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau:
a.Nguyên nhân khách quan.
Thứ nhất, thể chế pháp lý trong quản lý, bảo vệ rừng và xử phạt các
hành vi phá rừng làm rẫy còn nhiều hạn chế.
Hiện nay phá rừng trái phép dưới nhiều hình thức và mục đích khác nhau
đang diễn ra rất phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quyền cũng
như cơ quan chức năng trong vấn đề quản lý. Đây là vấn đề mang tính xã hội
cao, để giải quyết vấn nạn này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của
một ngành, một lĩnh vực mà cần có những giải pháp tổng hợp với sự tham
gia của nhiều ngành chức năng. Những năm vừa qua, nhiều chính sách hỗ
trợ của Nhà nước đã được thực hiện như chương trình 327,661, 449, 30a,
Chi tra DVMTR (dịch vụ môi trường rừng)… đã có tác động tích cực, góp
phần thay đổi bộ mặt nông thôn trong vùng song vẫn chưa giải quyết được

triệt để nạn phá rừng. Với việc đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về
quản lý bảo vệ rừng trong những năm gần đây, nhận thức của đa số người
dân về hành vi này đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều người dân đã biết phá
rừng trái phép là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ gây hại về môi trường. Tuy
nhiên, do tác hại của phá rừng không diễn ra ngay nên người dân thường chỉ


thấy cái lợi trước mắt mà không quan tâm đến cái hại lâu dài. Hơn nữa, các
hình thức xử phạt và chế tài của luật pháp vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ sức
răn đe, việc xử lý vi phạm gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp người
vi phạm là người dân tộc thiểu số, đời sống khó khăn, khơng có khả năng
chấp hành các quyết định xử phạt, dẫn đến nhiều vụ việc không xử lý triệt
để, do vậy tính giáo dục và răn đe chưa được đề cao. Chính vì vậy, tình trạng
phá rừng trái phép vẫn tiếp tục xảy ra dưới mọi hình thức.
Mặc dù theo quy định của pháp luật hành vi phá rừng làm rẫy có
khung tiền phạt khá cao (so với mức sống và thu nhập của đồng bào dân tộc
thiểu số) nhưng khó có thể đảm bảo thực hiện được khi lực lượng chuyên
trách bảo vệ rừng, kiểm lâm mỏng, thường không phát hiện kịp thời vi
phạm, khi người dân đã trồng cây, canh tác, sản xuất (thường tiến hành vào
ban đêm hoặc theo dõi quy luật hoạt động của lực lượng bảo vệ rừng, kiểm
lâm để trốn tránh) thì gần như “sự đã rồi”. Vì vậy việc ngăn chặn và xử lý lại
càng khó khăn hơn. Dần dần, dẫn đến hiện tượng “nhờn” luật. Đây cũng là
nguyên nhân chính làm gia tăng tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng một
cách ồ ạt của nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, điều kiện sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại các vùng núi cao, vùng
sâu, vùng xa, gắn bó mật thiết với rừng, đất rừng và thường có tập quán sinh
sống là du canh, du cư, đốt rừng làm rẫy, săn bắn thú rừng. Phần lớn người
dân không biết chữ, không biết tiếng phổ thông, tâm lý tự ti dân tộc nên
thường sống khép kín. Khi Nhà nước quản lý rừng một cách chặt chẽ để

phục vụ cho việc khai thác và phát triển rừng lâu dài vì lợi ích chung của
tồn xã hội thì trực tiếp tác động đến đời sống của người đồng bào dân tộc
thiểu số. Họ không thể sống theo tập quán canh tác cũ, nếp sinh hoạt cũ mà
phải chấp hành pháp luật về Luật lâm nghiệp, Luật đất đai... Điều này rất
khó khăn khi bản thân họ trình độ văn hố thấp, các kỹ thuật canh tác, sản
xuất, trồng trọt, chăn nuôi còn rất lạc hậu, nên kết quả sản xuất thường là
năng suất không cao, chất lượng thấp. Các điều kiện tiếp cận thơng tin hạn
chế khiến đồng bào càng ít nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng, nhất là không nắm được cơ
hội để tham gia vào các chương trình, dự án của Nhà nước, của địa phương
về phát triển rừng, giao đất, giao rừng…Vì vậy, để mưu sinh, một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số vẫn sống theo tập quán cũ, thậm chí phá rừng, đốt
rừng làm rẫy, tiếp tay cho lâm tặc vận chuyển lâm sản…
Trong khi đó, áp lực về dân số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng
cơ học, di cư tự do từ nơi khác đến, đòi hỏi cao về đất ở và đất canh tác,
những đối tượng này chủ yếu là những hộ nghèo, đời sống gặp nhiều khó
khăn, sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng. Nhận thức về bảo


vệ rừng cịn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá rừng kiếm kế sinh nhai, lấy đất
canh tác hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để phá rừng hoặc khai
thác gỗ, lâm sản trái phép.
Mặt khác, do cơ chế thị trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản
tăng cao, nhu cầu về đất canh tác các mặt hàng này cũng tăng theo, nên đã
kích thích người dân phá rừng để lấy đất trồng các loại cây có giá trị cao
hoặc bn bán đất, sang nhượng trái phép. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới, nhiều cơng trình xây dựng,
đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây áp lực lớn đối với rừng
và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động phá rừng,
khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.

Thứ ba, năng lực quản lý và bảo vệ rừng của nhiều chủ rừng và cơ
quan chức năng còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc ngăn chặn các
hành vi phá rừng làm rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số.
Do quyền hạn của các công ty lâm nghiệp là chủ rừng trong công tác
quản lý, bảo vệ rừng hầu như khơng có, chỉ được phép ngăn chặn và báo cáo
xin ý kiến, do đó hạn chế về nhiều mặt đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng của các cơng ty lâm nghiệp cịn chưa
được coi trọng, chưa có chế độ ưu đãi phù hợp dù trên thực tế họ là lực lượng
chính để giữ rừng. Vì vậy, gánh nặng công tác quản lý, bảo vệ rừng dồn lên
vai lực lượng kiểm lâm. Trong khi đó, lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị pháp
lý chưa rõ ràng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, lạc hậu. Chế độ chính
sách cho lực lượng kiểm lâm chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Tại
một số địa phương, tiền ưu đãi nghề nghiệp đối với kiểm lâm còn chậm được
thanh toán. Về tổ chức, biên chế lực lượng quản lý bảo vệ rừng chưa được sắp
xếp ổn định, cho nên nguồn kinh phí chi trả tiền lương cho lực lượng chuyên
trách bảo vệ rừng chưa có. Thực tế cho thấy, ở những vùng trọng điểm phá
rừng nếu chỉ có lực lượng kiểm lâm khơng thể giải quyết dứt điểm. Trình độ
chun mơn nghiệp vụ cịn hạn chế (nhất là nghiệp vụ vận động quần chúng),
một số công chức kiểm lâm dao động trước khó khăn, thậm chí có biểu hiện
tiêu cực.
Công tác đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, giáo dục đạo đức phẩm chất
cho đội ngũ bảo vệ rừng nhất là lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, lực
lượng kiểm lâm chưa được coi trọng đúng mức, nên chưa có cơ sở vật chất
cho việc đào tạo, huấn luyện. Mặt khác, cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ
rừng hết sức khó khăn. Những năm qua nguồn đầu tư cho bảo vệ rừng chủ
yếu từ chương trình 661, nhưng chỉ được 5% cho xây dựng cơ sở hạ tầng, vì
vậy các cơng trình phịng cháy, chữa cháy rừng, cơng trình nghiệp vụ khác
được xây dựng khơng đáp ứng được yêu cầu bảo vệ rừng bền vững. Tỷ trọng
vốn đầu tư của xã hội cho công tác bảo vệ rừng không đáng kể.



b.Nguyên nhân chủ quan.
Một là, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế
chính sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người dân, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số chưa nhận thức đầy đủ
tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng, nên vẫn tiếp tục phá rừng,
có nơi cịn tiếp tay, làm th cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền…
Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức
chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà
nước về rừng và đất lâm nghiệp. Ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích
cục bộ, đã làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng,
khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị
xử lý nghiêm túc. Có địa phương sau một thời gian thực hiện các biện pháp
kiên quyết ngăn chặn tình trạng phá rừng cịn có biểu hiện thỏa mãn với
thành tích, khơng duy trì hoạt động thường xun, do vậy tình trạng phá
rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích
rừng được giao. Một số đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thơng đồng,
tiếp tay cho hành vi phá rừng. Các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và các tổ
chức khác có diện tích quy mơ nhỏ nên khơng thể tự tổ chức lực lượng bảo
vệ rừng được giao. Các diện tích rừng chưa có chủ, thuộc trách nhiệm quản
lý của Uỷ ban nhân dân xã, nhưng chưa có cơ chế để chính quyền cấp xã
thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả.
Bốn là, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút
các nguồn lực cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ
ràng, khi rừng bị mất, chủ rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) phải
chịu trách nhiệm trực tiếp. Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù
hợp với thực tiễn, lại chưa được các địa phương thực hiện nghiêm túc. Công
tác quy hoạch, kế hoạch thiếu tính khoa học, chưa đồng bộ với các quy

hoạch khác như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất đai,... nên
quy hoạch không được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên bị phá vỡ. Công
tác giao, cho thuê rừng, đất rừng, khoán bảo vệ rừng chưa quan tâm đến đối
tượng đồng bào dân tộc thiểu số, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất rừng còn rất chậm, theo dõi việc sử dụng đất rừng sau khi giao, cho thuê
chưa thường xuyên. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các
chương trình, dự án (chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo; các
chương trình 327;135; 132 và 134; 120; 661; 30a…).
Năm là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ
rừng. Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa
phương chưa thật sự có hiệu quả, cịn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm


phá rừng trái phép chưa có phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý
các vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết, cịn có những quan điểm khác
nhau của các cơ quan chức năng ở một số địa phương.
2.3.2. Hậu quả.
Tình huống nêu trên đây là một trong số những vụ việc vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng diễn ra hàng ngày, phổ biến
trong nền kinh tế hiện nay. Tình trạng này đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn thiệt hại cả về tinh thần đối với
những người dân đang tin tưởng vào tính cơng bằng của pháp luật. Khi một
vụ việc phá rừng xảy ra thì thiệt hại đầu tiên đó là nguồn tài nguyên rừng bị
suy giảm, rừng bị tàn phá nặng nề mà khơng có cơ quan quản lý biết để
phòng ngừa và ngăn chặn. Đến khi phát hiện ra thì khơng cịn khả năng ngăn
chặn mà chỉ tốn tiền của xã hội vào đầu tư xây dựng lại những cây con, điều
này khơng những tốn tiền mà cịn tốn cơng trồng, chăm sóc, trơng nom mới
mong khơi phục được như hiện trạng cũ.
a.Về phía xã hội.
Hành vi phá rừng của đồng bào dân tộc thiểu số nếu không được ngăn

chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh sẽ làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt
một cách nhanh chóng, tạo cơ hội cho lâm tặc phá rừng, khai thác rừng trái
phép. Khi tài nguyên rừng bị mất đi sẽ khó hoặc khơng thể khơi phục lại
được. Các nguồn gen quý hiếm, cần được bảo tồn sẽ bị thiệt hại, bị mất đi.
Rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh
thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo
vệ di tích lịch sử, văn hố, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch,
kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ mơi trường. Vì vậy, khi xâm hại đến các
nhóm đối tượng của rừng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nơi sinh sống của nhiều
loài động thực vật rừng, các di tích lịch sử văn hố, danh lam thắng cảnh,
các lợi ích trong du lịch, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế-xã hội…
Khi diện tích rừng bị thu hẹp sẽ kéo theo các vấn đề về biến đổi khí hậu, ảnh
hưởng đến đất đai và sức khỏe của con người…
b.Về phía Nhà nước.
Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của Nhà nước. Vì
vậy, khi rừng bị xâm hại thì ảnh hưởng lớn đến các nguồn lực (nhân lực, vật
lực, tài lực) mà Nhà nước đã, đang và sẽ đầu tư cho sự nghiệp này. Mặt
khác, khi các ảnh hưởng về môi trường, khí hậu, đất đai do mất rừng ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất của người dân thì Nhà nước phải tổ chức khắc
phục hậu quả. Với các vi phạm pháp luật phát sinh trong quản lý, bảo vệ
rừng cũng khiến Nhà nước phải đầu tư về nhân lực, về phương tiện, cơng cụ,
tài chính, về cơ chế, chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho các lực
lượng quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm.


Các vi phạm pháp luật về Luật lâm nghiệp còn khiến cho Nhà nước mất đi
các nguồn thu từ thuế, từ du lịch, dịch vụ, xuất khẩu các sản phẩm lâm nghiệp,
đồng thời phải tăng nhập khẩu các sản phẩm lâm nghiệp để đáp ứng nhu cầu
trong nước. Đồng thời, q trình giải quyết các vi phạm có thể khơng đảm bảo
được sự kết hợp hài hồ giữa chính trị và pháp lý nên sẽ tiềm ẩn những nguy cơ

không nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội tại các địa phương, có
thể dẫn đến việc các thế lực thù địch lợi dụng gây chia rẽ dân tộc.
2.4. Xác định mục tiêu xử lý tình huống.
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước quản lý
bằng pháp luật, thông qua pháp luật như là công cụ để thực hiện quyền lực
nhà
nước và là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mọi hành
vi vi phạm pháp luật đều phải được xem xét và xử lý trên cơ sở các quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo tính công minh, khách quan, giũ vững an
ninh trật tự, an tồn xã hội và bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Trong tình huống này cần xác định rõ mục tiêu xử lý là xác định hành
vi phá rừng trái pháp luật trên và hành vi cố tình vi phạm của các tổ chức, cá
nhân liên quan trên cơ sở các quy định của pháp luật về luật lâm nghiệp,
Luật đất đai…nghị định 35/2019/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực lâm nghiệp. Để giải quyết tình huống trên cho thấu tình
đạt lý, khơng trái với những quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền lợi
của các bên thì cần đề cập đến các mục tiêu chính sau:
+ Giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật, đảm bảo tính
nghiêm minh, khách quan. Tránh những suy nghĩ tiêu cực, không hợp tác
của người vi phạm trong việc thi hành các mức xử phạt của cơ quan chức
năng đưa ra.
+ Cần làm rõ tình huống trên là hành vi vi phạm do tổ chức thực hiện
hay
do cá nhân để có hình thức xử phạt hợp lý. Nếu là tổ chức vi phạm thì mức
phạt sẽ bằng 02 lần mức phạt do cá nhân vi phạm với cùng một hành vi vi
phạm và mức độ vi phạm (theo điều 20 trong Nghị định 35/2019/NĐ-CP quy
định về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp
+ Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự, kỷ cương

phép
nước;
+ Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và thực thi đúng pháp luật cho
toàn
xã hội;


+ Bảo vệ lợi ích chính đáng cho nhà nước, tổ chức xã hội và công dân;
+ Giải quyết hài hịa giữa tính pháp lý, lợi ích kinh tế xã hội và của
cơng
dân thể hiện tính cơng bằng, dân chủ, văn minh trong mối quan hệ xã hội.
+ Để giải quyết vụ việc trên cần căn cứ các quy định sau của pháp
luật:
*Luật Lâm nghiệp ngày 15 tháng 11 năm 2017;
*Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012;
*Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về
quản lý
thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm;
*Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ về quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp.
2.4.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống trên là nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật trong xử lý vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ rừng,
đồng thời làm cho người dân nhận thức đúng trách nhiệm, loại bỏ phong tục,
tập quán lạc hậu, du canh du cư, ổn định đời sống và tham gia vào sự nghiệp
quản lý, bảo vệ, phát triển rừng.
2.4.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số phương án cụ thể
như sau:
a. Phương án 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối với vợ chồng ơng Ha Kien

bằng hình thức xử phạt cảnh cáo.
Điểm mạnh của phương án này là phát huy tác dụng của giáo dục,
thuyết phục đối với người dân tộc thiểu số vốn thật thà, chất phác, ngay
thẳng, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Nếu xử phạt tiền thì khơng thể đảm
bảo thực hiện được quyết định xử phạt mà cịn có thể gây bất đồng lớn tại
địa bàn. Việc áp dụng hình thức phạt cảnh cáo có tác dụng: vừa thể hiện thái
độ khơng đồng tình với các hành vi vi phạm, vừa thể hiện chính sách nhân
đạo, khoan hồng của Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, yêu
cầu về chính trị sẽ đạt được. Mặc dù các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo,
K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều vi phạm có tình tiết giảm nhẹ nhưng hành vi diễn
ra nhiều lần trước khi bị phát hiện (dù chưa bị xử lý lần nào), vi phạm khơng
thuộc loại nhỏ, lại có cả tình tiết tăng nặng nên nếu áp dụng cảnh cáo thì
khơng phù hợp về mặt pháp luật và tính dăn đe. Đây cũng chính là nhược
điểm của phương án này.
b. Phương án 2. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật
gắn với tuyên truyền, vận động, giáo dục và tạo điều kiện cho các ơng
K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều chấp hành quyết định xử


phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính của các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng,
K’Liềm, K’Vrều có cả tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ. Vậy phải áp dụng các
tình tiết đó như thế nào để quyết định xử phạt là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong đảm bảo sự kết hợp hài hồ yếu tố chính trị, pháp luật trong xử
lý vụ việc. Sự vi phạm của các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng,
K’Liềm, K’Vrều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết pháp luật (do điều kiện cư
trú, sinh sống, kinh tế) và trình độ nhận thức cịn lạc hậu. Đây cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến hành vi phá rừng, không chấp hành yêu cầu của người
thi hành công vụ, lôi kéo nhiều người tham gia vào việc vi phạm. Vì vậy, cần
xem tình tiết vi phạm do trình độ lạc hậu là cơ bản. Theo đó, chỉ áp dụng

mức phạt là 25.000.000 đồng/ người (mức tối thiểu của khung tiền phạt) đối
với các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều. Đồng thời
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc trồng lại rừng.
Do đó, ưu điểm của phương án này là đảm bảo kết hợp hài hồ nhất yếu
tố chính trị với yếu tố pháp lý. Vừa thể hiện được sự nghiêm minh của pháp
luật, có giá trị phòng ngừa và đấu tranh chung với các vi phạm pháp luật trên
địa bàn, vừa thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước với vi phạm
của đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, kết hợp với tun truyền, giáo dục
pháp luật cho các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều
để thấy được sự linh hoạt trong áp dụng pháp luật của Nhà nước vì lợi ích của
mình, nhưng cũng để răn đe các đối tượng khác cố ý xâm hại đến rừng. Tuy
nhiên, phương án này có nhược điểm rất lớn là số tiền phạt quá cao, biện pháp
khắc phục hậu quả khó có thể được đảm bảo nếu khơng có các biện pháp cần
thiết từ phía các cơ quan chức năng, trong đó có chính quyền xã và lực lượng
kiểm lâm địa bàn.
2.4.3. Lựa chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý tình huống
a. Lựa chọn phương án giải quyết.
Trong hai phương án trên, mỗi phương án đều có những ưu, nhược
điểm nhất định. Việc thực hiện phương án 1 dễ dàng trong triển khai thực
hiện nhưng không thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật, khơng có
tác dụng ngăn chặn tình trạng phá rừng trái pháp, có thể dẫn đến hệ quả
“nhờn” pháp luật. Trong khi đó, phương án 2 cho phép áp dụng đúng pháp
luật nhưng để đảm bảo tính khả thi thì cần mềm dẻo trong q trình triển
khai thực hiện. Có như vậy mới giúp đồng bào dân tộc thiểu số hiểu được
mục tiêu của các chính sách, pháp luật của Nhà nước là phục vụ nhân dân
chứ không nặng về trừng trị.
Với những lập luận này, tiểu luận lựa chọn phương án 2 là phương án
tối ưu để giải quyết tình huống.
b.Tổ chức thực hiện phương án tối ưu.



Để thực hiện được phương án tối ưu (phương án 2), cần tiến hành theo
các trình tự cụ thể như sau:
* Truyên truyền,Vận động, thuyết phục trưởng thôn cùng đến nhà các
ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều để u cầu đến cơ
quan kiểm lâm giải quyết vi phạm.
Thông thường ở các cộng đồng dân tộc thiểu số, vai trò của trưởng
thơn, trưởng bản, già làng…rất lớn. Vì vậy, trước hết cần thuyết phục trưởng
thôn buôn ủng hộ lực lượng kiểm lâm trong xử lý hành vi vi phạm của các
ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều Sau đó, cùng
trưởng thơn bn đến nhà các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng,
K’Liềm, K’Vrều giải thích cho họ rõ các quy định của Luật lâm nghiệp; các
hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực này; chế tài xử phạt đối với hành vi vi
phạm của các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều.
Q trình vận động, thuyết phục phải trên tinh thần vì lợi ích của họ,
khơng bài xích, khơng áp lực để họ hiểu ra hành vi của mình là sai trái. Từ
đó, thuyết phục họ ký vào các biên bản vi phạm để làm cơ sở cho việc xử lý.
Sau đó, hẹn họ đến trụ sở của cơ quan kiểm lâm để giải quyết. Nhắc nhở họ
trong thời gian chờ xử lý không được tiếp tục thực hiện vi phạm nếu khơng
sẽ khơng được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước.
* Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Bảo Lâm ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm,
K’Vrều.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính,
ra quyết định xử phạt các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm,
K’Vrều bằng hình thức phạt tiền, mức tối thiểu là 25.000.000 đồng/ người và
buộc các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều phải trồng
lại rừng. Quyết định xử phạt sau khi được ban hành phải giao cho các ơng
K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều trong thời gian 3 ngày,
kèm theo cơng tác thuyết phục, động viên để các ơng K’Vríp, K’Vrẹp,

K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều yên tâm chấp hành quyết định xử phạt.
* Áp dụng các quy định pháp luật để kéo dài việc thực hiện quyết định
xử phạt cho các ông K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều.
Do điều kiện hồn cảnh khó khăn về kinh tế. Hạt trường có thể quy
định ngày có hiệu lực khác so với ngày ký quyết định xử phạt để kéo dài
thời gian cho gia đình các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm,
K’Vrều có thể đảm bảo thực hiện quyết định nhưng tối đa không quá 1 năm
kể từ ngày quyết định được ban hành (bởi nếu quá thì sẽ hết thời hạn thi
hành quyết định xử phạt).
Sau đó, căn cứ vào tình hình thực tế, khi đến thời hạn thực hiện, nếu
các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều, chưa thể đảm


bảo thực hiện quyết định xử phạt thì cần hướng dẫn ông thực hiện thủ tục
xin nộp tiền phạt nhiều lần. Theo quy định tại Điều 27 Nghị định của Chính
phủ số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính năm 2008 thì thời hạn nộp tiền phạt nhiều lần không quá mười hai
tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực; số lần nộp tiền phạt tối đa
không quá 03 lần và mỗi lần nộp tiền phạt tối thiểu không dưới một phần ba
(1/3) tổng số tiền phải nộp phạt. Số tiền chưa nộp phạt phải chịu lãi suất
không kỳ hạn được tính từ thời điểm quyết định xử phạt có hiệu lực.
Như vậy, việc thực hiện quyết định xử phạt của các ơng K’Vríp,
K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều có thể được kéo dài trong 2
năm. Ở lần nộp tiền phạt cuối có thể áp dụng quy định về hỗn chấp hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hạt kiểm lâm cần phối hợp (bằng
con đường công văn) với Uỷ ban nhân dân xã Lộc Bắc để giúp các ơng
K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều soạn đơn đề nghị Hạt
trưởng hỗn chấp hành quyết định xử phạt, có xác nhận của Uỷ ban nhân

dân xã Lộc Bắc về điều kiện gặp hồn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế.
* Tham mưu cho chính quyền địa phương giúp đỡ gia đình các ơng
K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều trong thời gian thực hiện
quyết định xử phạt.
Kiểm lâm viên địa bàn cần tham mưu cho UBND xã Lộc Bắc tổ chức
thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định về Luật lâm nghiệp, Luật đất
đai, thông qua hệ thống truyền thanh cơ sở cho toàn thể nhân dân trên địa
bàn. Đồng thời, ký hợp đồng nhận khốn DVMTR cho hộ gia đình các ơng
K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều. Cử cán bộ hướng dẫn
gia đình các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều hoặc
khi có lớp tập huấn kiến thức về sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư
nghiệp kết hợp; làm nương rẫy, định canh, thâm canh, luân canh, chăn thả
gia súc theo quy hoạch, kế hoạch thì mời hộ gia đình các ông trên cùng tham
gia học tập để nâng cao hiểu biết.
Bên cạnh đó, UBND xã cần chỉ đạo ban, đồn thể, các thơn, bn xây
dựng và thực hiện quy ước quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; tổ chức và huy
động lực lượng quần chúng trên địa bàn phối hợp với lực lượng Chuyên
trách bảo vệ rừng, kiểm lâm, công an, quân đội trên địa bàn phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những hành vi xâm hại rừng.
Hạt kiểm lâm cũng cần phối hợp với phịng nơng nghiệp huyện, Công
ty TNHH MTV lâm nghiệp ........ (đơn vị chủ rừng nhà nước) để giúp đỡ các
hộ ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hoàng, K’Liềm, K’Vrều về giống cây
trồng nhằm tạo điều kiện cho ông khắc phục hậu quả (trồng lại rừng). Phối


hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tạo cơ hội cho các ơng K’Vríp,
K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều tham gia vào các chương trình
nhân đạo, hưởng các chính sách đãi ngộ dành cho hộ nghèo, hộ đói. Đồng
thời, chỉ đạo kiểm lâm viên địa bàn bồi dưỡng năng lực để các ơng K’Vríp,
K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều tham gia vào lực lượng kiểm

lâm với vai trò là cộng tác viên kiểm lâm. Trong thời gian chấp hành quyết
định xử phạt, tạo điều kiện cho các ông được phép khai thác một số sản vật
từ rừng phù hợp với quy định của pháp luật.
* Kết thúc việc xử phạt.
Sau khi các ơng K’Vríp, K’Vrẹp, K’Wéo, K’Hồng, K’Liềm, K’Vrều
chấp hành xong quyết định xử phạt, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm cần chỉ đạo
cán bộ kiểm lâm lưu giữ toàn bộ hồ sơ vụ vi phạm hành chính để quản lý,
theo dõi. Đồng thời, tiến hành rút kinh nghiệm cho các lần xử lý tiếp theo.
PHẦN 3: KẾT LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Những năm qua công tác bảo vệ rừng đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, nhận thức về rừng được nâng cao, quan điểm đổi mới xã hội hóa
về lâm nghiệp đã được triển khai thực hiện có hiệu quả; hệ thống pháp luật
về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hồn thiện; chế độ chính sách lâm
nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong lâm
nghiệp, giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng và quyền hưởng lợi từ rừng
được ban hành và bước đầu đi vào cuộc sống. Nhà nước đã tăng cường đầu
tư thơng qua nhiều chương trình, dự án đã tác động tích cực vào bảo vệ
rừng. Vai trò trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành và chính
quyền các cấp được nâng cao hơn, các tổ chức xã hội đã có những nỗ lực
tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng... Tuy nhiên, rừng vẫn bị tàn
phá do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết và
do phong tục, tập quán lạc hậu của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số.
Bên cạnh nhiều biện pháp cương quyết như tổ chức các đợt truy quét lâm
tặc, giải tỏa các tụ điểm phá rừng trái phép, ngăn chặn chuyển đổi mục đích
sử dụng đất lâm nghiệp ngoài quy hoạch, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực lâm nghiệpcịn có những biện pháp mang tính tổ chức, kinh tế để việc
thực hiện pháp luật về Luật lâm nghiệp, Luật đất đai mang tính bền vững,
gắn việc thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự xã hội trên phạm vi cả nước.

3.2. Kiến nghị.
Để hạn chế và giải quyết có hiệu quả các hành vi vi phạm các quy
định Luật lâm nghiệp, Luật đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số đang nổi
lên hiện nay, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề sau:
3.2.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước.


Đối với Đảng cần đẩy mạnh việc thực hiện chỉ thị số 13-CT/TW ngày
12/01/2017của ban Bí thư.Chỉ thị số: 30-CT/TU ngày 26/3/2015 của Tỉnh
Ủy Lâm Đồng;Kế hoạch số 25/KH-TU ngày 31/3/2018 của tỉnh ủy Lâm
Đồng V/v thực hiện chỉ tịnh số 13-CT/TW; Nghị quyết số: 03-NQ/HU ngày
29/12/2015 của ban chấp hành Đảng bộ huyện Bảo Lâm khóa V về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý, bảo vệ phát triển rừng
giai đoạn 2015-2020 và những năm tiếp theo, các nghị quyết liên quan đến
xố đói, giảm nghèo, giảm khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt
là vấn đề quản lý, bảo vệ rừng tại những nơi có liên quan mật thiết đến cuộc
sống đồng bào dân tộc thiểu số để lãnh đạo thực hiện có hiệu quả cơng tác
quản lý, bảo vệ rừng của Nhà nước trong mối quan hệ hài hoà với các chính
sách dân tộc.
Đối với Chính phủ cần đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết số
71/NQ-CP ngày 08/08/2017của chính phủ về thực hiện chỉ thị số 13-CT/TW,
Luật Lâm nghiệp; Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, Nghị
định, thơng tư có liên quan...Các chỉ thị số: 12/2003/CT-TTg của thủ tướng
chính phủ “ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách quản lý bảo vệ
rừng”. và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, quy
chế, quy trình, quy phạm, các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật về bảo
vệ và phát triển rừng và tổ chức chỉ đạo việc thực hiện. Hướng dẫn và chỉ
đạo thực hiện việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích
sử dụng rừng; lập và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất để trồng rừng.

Tổ chức và chỉ đạo thực hiện việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát
triển rừng. Ban hành một số chính sách về kinh phí cho hoạt động nghiệp vụ,
tiền lương, chế độ thương binh, liệt sỹ, cơ chế sử dụng vũ khí, cơng cụ hỗ
trợ để trấn áp lâm tặc. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ
rừng, đầu tư xây dựng các Trung tâm huấn luyện, đào tạo chuyên ngành cho
lực lượng bảo vệ rừng; trang bị phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác hiện
trường cho các lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng, lực lượng Kiểm lâm
trên toàn quốc, trước mắt tập trung đầu tư cho các lực lượng Chuyên trách
bảo vệ rừng, lực lượng Kiểm lâm ở những vùng trọng điểm; ứng dụng khoa
học công nghệ, tin học, GIS, viễn thám vào công tác quản lý bảo vệ rừng,
theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp; thiết lập và sử dụng có hiệu quả
mạng máy tính chun ngành; xây dựng phần mềm quản lý, theo dõi diễn
biến tài nguyên rừng và các vụ vi phạm Luật lâm nghiệp. Xây dựng cơ chế
về đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ rừng từ các tổ chức, cá nhân
được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng. Hợp tác quốc tế để thu hút các
nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế cho công tác


bảo vệ rừng.
3.2.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng.
Đối với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần thực hiện các
giải pháp để đổi mới tổ chức lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng, lực lượng
kiểm lâm theo Luật lâm nghiệp để lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng, lực
lượng kiểm lâm gắn với chính quyền, với dân, với rừng, thực hiện chức năng
tham mưu cho chính quyền địa phương, tổ chức bảo vệ rừng, bảo đảm chấp
hành pháp luật trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí kiểm lâm địa bàn
ở 100% các xã có rừng để tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác
quản lý nhà nước về lâm nghiệp, theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng; kịp thời
phát hiện, ngăn chặn ngay từ đầu những vụ vi phạm. Từng bước tăng biên

chế cho lực lượng kiểm lâm để bảo đảm định mức bình qn 1.000ha rừng
có 1 kiểm lâm. Đồng thời, tăng cường trang thiết bị cho kiểm lâm gồm các
phương tiện hoạt động phù hợp với địa bàn rừng núi, hệ thống thơng tin liên
lạc, thiết bị phịng cháy, chữa cháy rừng. Đánh giá nhu cầu đào tạo về quản
lý bảo vệ rừng, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chun mơn nghiệp vụ
và chính trị cho các đối tượng. Xây dựng chiến lược đào tạo về bảo vệ rừng
đến năm 2025. Tổ chức các chương trình trao đổi kinh nghiệm về công tác
quản lý, bảo vệ rừng.
Đối với chính quyền tỉnh....... cần có các chính sách thiết thực để hỗ
trợ nâng cao đời sống người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số như đẩy
mạnh việc giao rừng và đất lâm nghiệp, khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia
đình, cộng đồng dân cư sống chủ yếu bằng nghề lâm nghiệp; đồng thời hoàn
thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ rừng. Sớm
hoàn thành chủ trương giải quyết đất ở, đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng
bào dân tộc đang gặp nhiều khó khăn, gắn với các chương trình mục tiêu
quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình định canh định cư, quy hoạch
và tổ chức thực hiện các dự án ổn định vùng kinh tế mới để người dân có thu
nhập từ sản xuất, sớm ổn định cuộc sống, giảm bớt sự lệ thuộc vào thu nhập
từ các hoạt động khai thác rừng trái pháp luật...Rà soát ổn định diện tích
canh tác nương rẫy theo phong tục tập quán của đồng bào ở một số khu vực,
từng bước chuyển sang phương thức canh tác thâm canh, cung cấp giống cây
trồng phù hợp với lập địa, có hiệu quả kinh tế cao và hướng dẫn kỹ thuật cho
đồng bào. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho đồng bào tương
đương với thu nhập từ canh tác quảng canh nương rẫy hiện nay, trong thời
gian 3 đến 5 năm, cung cấp giống cây rừng và một số vật tư cần thiết khác
cho đồng bào dân tộc tại chỗ để chuyển căn bản họ sang trồng rừng, đồng thời
cho họ được hưởng 100% sản phẩm từ rừng.
Trong khuôn khổ tình huống cũng như thời gian hạn hẹp, những tài
liệu tham khảo hạn chế, nên chỉ mới nêu lên thực trạng tình hình vi phạm



các quy định về Luật lâm nghiệp dừng lại trên một phạm vi nhỏ ở địa
phương. Thơng qua tình huống này phần nào nói lên được những khó khăn,
thuận lợi, những hạn chế những tiêu cực hiện đang di ễn ra thực tế ngồi xã
hội. Mong tìm ra được những giải pháp, những biện pháp tạo một hướng giải
quyết thích hợp trong điều kiện thực tiễn hiện nay trên địa bàn huyện Bảo
Lâm tỉnh........ Chắc chắn trong quá trình đề xuất cịn nhiều thiếu xót mong
q thầy, cơ giáo thơng cảm giúp đỡ bổ sung thêm để bài tình huống hoàn
chỉnh và chặt chẽ hơn./.
Trân trọng --***--

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, chỉ thị số 13-CT/TW
ngày 12/01/2017của ban Bí thư.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số TW 7
khóa XII về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước;
3. Chính phủ; Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ về
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp.
4. Chính phủ; Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 ban hành quy
định về Kiểm lâm và lực lượng Chuyên trách bảo vệ rừng..
5. Chính phủ, Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 quy định chi tiết
một số điều thi hành Luật lâm nghiệp;
6. Chính phủ, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính năm 2008;
7. Chính phủ; Luật tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
8. Chính phủ; Chỉ thị 12/2003/CT-TTg của thủ tướng chính phủ;
9. Quốc hội, Luật số 16/2017/QH14 ngày 15 tháng 11 năm 2017 về Luật lâm

nghiệp;
10. Quốc hội; Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012;
11. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 phê
duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020;
12. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày
02 tháng 7 năm 2002 về xử lý vi phạm hành chính;


×