Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN thị trường ngoại hối tìm hiểu hoạt động của thị trường ngoại hối việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.54 KB, 22 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI - TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG
CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
I.
NGOẠI HỐI
Sự ra đời của thị trường ngoại hối
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.
II.
2.1.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thị trường ngoại hối


Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối
Vai trò của thị trường ngoại hối
Nội dung hoạt động của thị trường ngoại hối
HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VIỆT NAM
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối
ở Việt Nam

1
2
2
2
3
5
7
8
9
9

2.2.

Quy định quản lý ngoại hối ở Việt Nam

12

2.3.

Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay

12


2.4.

Cơ chế và chính sách điều hành thị trường ngoại hối ở Việt Nam

13

2.5.

Giải pháp cho thị trường ngoại hối ở Việt Nam hiện nay

15

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

17
18


MỞ ĐẦU
Ít ai biết rằng, thị trường ngoại hối đã xuất hiện từ rất lâu. Ở thời điểm đó,
việc trao đổi mua bán ngoại tệ diễn ra khá đơn giản bởi vì quan hệ cung cầu.
Nhưng cho đến nay, nó dần trở nên phức tạp hơn, đồng thời cái nhìn về thị
trường tiền tỷ cũng ngày càng phổ biến hơn. Tại Việt Nam, thị trường ngoại hối
dù mới hình thành nhưng đang dần đi vào ổn định bất chấp nhiều rào cản.
Thị trường ngoại hối Việt Nam ln đóng một vai trị vơ cùng quan trọng
trong nền kinh tế. Góp phần đưa nền kinh tế nước nhà phát triển hơn nữa. Thị
trường này là cơ chế vô cùng hữu hiệu có thể đáp ứng được những nhu cầu mua
bán, trao đổi ngoại tệ. Là phương tiện giúp những nhà đầu tư có thể chuyển đổi

ngoại tệ ở trong các hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế. Ngoài ra, thị trường
này cịn có thể phục vụ cho những khát vọng kiếm lời của các nhà đầu tư. Là
công cụ giúp ngân hàng trung ương có thể thực hiện được những chính sách tiền
tệ. Điều này nhằm điều khiển nền kinh tế đi theo một mục tiêu mà chính phủ đề
ra. Cung cấp những cơng cụ để phịng ngừa, bảo hiểm những rủi ro về tỷ
giá. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề “Thị trường ngoại hối - tìm hiểu hoạt
động của thị trường ngoại hối Việt Nam” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.1. Sự ra đời của thị trường ngoại hối
Trong suốt 300 năm qua, đã có nhiều loại hình thị trường ngoại hối. Trong
lịch sử nước Mỹ, chỉ có những doanh nghiệp đa quốc gia, kinh doanh tại nhiều
nước tham gia trao đổi tiền tệ. Họ sử dụng thị trường ngoại hối để giảm rủi ro
đối với ngoại tệ. Họ có thể làm vậy bởi lúc bấy giờ giá đô-la Mỹ đã cố định với
giá vàng. Theo lịch sử giá vàng, vàng là kim loại duy nhất được Mỹ sử dụng để
hỗ trợ giá tiền tệ quốc gia.
Cuối Thế chiến thứ hai, hệ thống tiền tệ Bretton Woods tập trung vào khả
năng tự chủ tiền tệ trong nước và sự bình ổn tỷ giá với sự di chuyển tư bản tự
do. Vào năm 1973, sự sụp đổ của hệ thống này đã phá hủy sự bỉnh ổn và dễ
đoán của thị trường tiền tệ. Kết quả là sự biến động lớn đã dẫn tới việc tỷ giá (đi
kèm là cơ hội kiếm lời) gia tăng. Với sự phổ biến rộng rãi của Internet vào
những năm 1990, các ngân hàng và công ty nhỏ đã tạo ra mạng trực tuyến để
thông báo giá tự động và cho phép giao dịch tức thời [1, tr.190].
Sự tiến bộ về công nghệ và luật lệ đã sinh ra một loại hình môi giới mới
lần đầu tiên cho phép cá nhân giao dịch ngoại hối. Ngày nay, những nhà mơi

giới bán lẻ có mặt ở mọi nơi trên thế giới ảo, chiếm một phần lớn trong luồng
giao dịch ngoại hối.
Sự ra đời của thị trường ngoại hối gắn liền với nhu cầu giao dịch và trao
đổi ngoại tệ giữa các quốc gia nhằm phục vụ cho sự phát triển của ngoại thương
Ví dụ: trong quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Mỹ liên quan ít nhất đến
hai đồng tiền là USD và VND. Khi xuất khẩu hàng sang Việt Nam, mục tiêu của
công ty Mỹ là thu về USD, trong khi các công ty nhập khẩu của có VND. Do đó
thực tiễn của hoạt động xuất nhập khẩu địi hỏi một cơ chế nào đó nhằm giúp
các công ty Việt Nam đổi VND lấy USD để thanh tốn cho các cơng ty xuất
khẩu ở Mỹ và ngược lại khi các công ty Việt Nam xuất khẩu hàng hóa san Mỹ
hoặc bất kỳ nứơc nào khác thường thu về USD, nhưng công ty không thể sử
4


dụng USD mà phải dùng VND để chi trả lương hoặc thu nguyên liệu chế biến
hàng xuất khẩu. Khi đó công ty cần bán USD thu được từ xuất khẩu để lấy
VND. Các hoạt động trên đòi hỏi cần phải có một cơ chế nào đó giúp các cơng
ty chuyển từ đồng tiền minh đang có sang đồng tiền khác mình đang cần. Cơ
chế đó chính là thị trường ngoại hối.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi
ngoại tệ thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng
tiền này và đồng thời bán một đồng tiền khác. Như vậy, các đồng tiền được trao
đổi từng cặp với nhau. Ví dụ: USD/DEM ở các nước phát triển các quan hệ cung
cầu ngoại hối đều tập trung ở thị trường ngoại hối.
Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng, thông
qua thị trường liên hàng mọi giao dịch mua bán ngoại hối có thể tiến hành trực
tiếp với nhau. Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ
thống tổ chức khác nhau. Hệ thống hối đoái Anh - Mỹ và hệ thống hối đoái châu
Âu. Theo hệ thống Anh - Mỹ thì thị trường hối đối có tính chất biểu tượng, chỉ

giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới qua
các phương tiện thông tin hiện đại, tức là loại thị trường khơng qua quầy. Quan
hệ này có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp qua điện thoại.
Thị trường ngoại hối thực chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức
khơng phải là một văn phịng nơi mọi người ngồi lại với nhau mà đó là một
mạng lưới thơng tin liên lạc ngân hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết với
người môi giới ngoại hối. Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước
Anh) thì thị trường hối đối có địa điểm giao dịch nhất định và các giao dịch
diễn ra hàng ngày, những người mua bán ngoại hối đến đó để giao dịch và ký
hợp đồng, nhưng chủ yếu qua điện thoại, fax… Các thị trường ngoại hối lớn trên

5


thế giới gồm có: London, NewYork, Tok, Singapore, HongKong, Frankfurt…
với doanh số hàng ngày rất lớn [2, tr.78].
Đặc điểm của thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối mang tính quốc
tế. Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế do chênh lệch mức giờ của từng khu
vực, thị trường hoạt động gần như liên tục trừ ngày nghĩ truyền thống. Về mặt lý
thuyết, từ khi đóng cửa các thị trường Châu Âu, giao dịch có thể được tiến hành
ở New York, Tokyo.
Phạm vi hoạt động của thị trường ngoại hối của nó khơng chỉ dừng lại ở
một quốc gia mà mở rộng trên phạm vi quốc tế nhằm phục vụ cho các nhu cầu
mua bán, giao dịch về ngoại tệ. Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc tạo
điều kiện thực hiện các cuộc đàm thoại thế giới nhanh chóng và tức thời với tồn
bộ thị trường hối đoái đang mở cửa, dẫn đến việc quốc tế hoá việc yết giá nói
riêng và hoạt động của thị trường ngoại hối nói chung.
Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục. Thị trường hối đoái hoạt động
liên tục suốt ngày đêm 24giờ/ngày trên các khu vực khác nhau của thế giới.
Khơng có địa điểm cụ thể. Các giao dịch mua bán được thực hiện thông

qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi
tính. Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai
trị làm ngoại tệ. Ngôn ngữ sử dụng trên thị trường rất ngắn gọn, mang nhiều
quy ước nghiệp vụ rất khó hiểu với người thường.
Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn. Giá cả hàng hố của
thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình thành một cách hợp lý,
linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó, thị trường
ngoại hối rất nhạy cảm không chỉ với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm xã
hội., mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất mà cịn chịu sự
tác động của các sự kiện chính trị - xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh…
6


Hàng hóa của thị trường hối đối Hàng hóa được mua bán trên thị trường
hối đoái là ngoại hối. Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện
có giá trị dùng để thanh tốn giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của Luật
quản lý ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối không giống nhau. Về
cơ bản, ngoại hối gồm 5 loại sau:
Ngoại tệ là tiền của nước khác lưu thông trong một nước. Ngoại tệ bao
gồm: ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng. Ngoại tệ trong khi lưu thơng thanh
tốn quốc tế tồn tại dưới các hình thức của các phương tiện lưu thơng tín dụng.
Ví dụ séc, hối phiếu, điện chuyển tiền và thư chuyển tiền. Các phương tiện thanh
toán này thể hiện chủ yếu các quan hệ giữa các ngân hàng. Các ngân hàng
chuyển chúng cho các ngân hàng đại lý của mình ở nước ngồi. Nghiệp vụ thanh
tốn thực hiện bằng cách chuyển một số tiền từ tài khoản của ngân hàng ủy thác
vào tài khoản của ngân hàng nhận ủy thác. Sau đó số tiền này được ghi vào tài
khoản của người hưởng lợi quy định trên các phương tiện thanh tốn đó.
Ngoại tệ tín dụng là các phương tiện khơng có giá trị nội tại mà chỉ là dấu
hiệu của tiền tệ. Các ngoại tệ tín dụng là kết quả của hợp đồng mua bán hàng
hóa và nghiệp vụ của các ngân hàng tạo ra.

Các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh
phiếu, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, thẻ tín dụng, thư tín dụng ngân hàng. Các chứng khốn có giá trị bằng ngoại tệ: cổ phiếu, trái phiếu công ty, công trái
quốc gia, trái phiếu kho bạc.
Vàng, bạc, kim cương, ngọc trai, đá quý…được dùng làm tiền.
Tiền của Việt Nam dưới các hình thức sau: tiền của Việt Nam ở nước ngoài
dưới mọi hình thức khi quay lại Việt Nam, tiền Việt Nam là lợi nhuận của nhà đầu
tư nước ngồi tại Việt Nam, tiền Việt Nam có nguồn gốc ngoại tệ khác. Như vậy,
ngoại hối là những phuơng tiện thanh toán thể hiện dưới dạng ngoại tệ hoặc các
khoản phải thu, phải đòi bằng ngoại tệ kể cả vàng theo tiêu chuẩn quốc tế.
7


1.3. Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối
Các bên tham gia trên thị trường ngoại hối là các ngân hàng thương mại
cỡ lớn, người môi giới ngoại hối, ngân hàng trung ương và các công ty và nhà
đầu tư. Ngồi ra, cịn có các định chế tài chính khác như: các quỹ hưu trí, các
cơng ty bảo hiểm và cả cá nhân có vốn. Khu vực chính yếu trong thị trường hối
đoái là thị trường liên ngân hàng. Ở đó các ngân hàng có thể giao dịch trực tiếp
với nhau hoặc thông qua các nhà môi giới.
Các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng lớn
đến sự vận động của thị trường ngoại hối. Họ kinh doanh trên danh nghĩa thay
mặt cho khách hàng hay cho chính bản thân.
Ngân hàng tiến hành giao dịch ngoại hối với hai mục đích: Thực hiện kinh
doanh cho chính mình và cho khách hàng. Giao dịch kinh doanh cho chính
mình, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Chẳng hạn, ngân hàng sẽ cung cấp dịch
vụ bảo hiểm vốn cho các doanh nghiệp trước sự biến động của tỷ giá. Mặt khác,
đây là một nghiệp vụ để ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận bằng cách tận dụng thời
cơ “Mua rẻ - bán đắt”. Các ngân hàng thương mại áp dụng hai loại tỷ giá. Loại
tỷ gía bán bn áp dụng trên thị trường liên ngân hàng và tỷ giá bán lẽ áp dụng
đối với các giao dịch có doanh số nhỏ của khách hàng. Kết quả của hoạt động

này là ngân hàng thu phí. Các ngân hàng thương mại là hạt nhân của thị trường
hối đoái, giữ vai trị quan trọng trên thị trường hối đối. Các ngân hàng thương
mại lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngồi, họ kinh doanh ngoại hối là chủ
yếu, cịn các ngân hàng khác đóng vai trị phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh
dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này có nhiệm
vụ điều chỉnh mức dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau. Các ngân hàng
thương mại chủ yếu là mua đi bán lại các loại ngoại tệ hoặc là các giao dịch có
tính chất đầu cơ [3, tr.201].

8


Các ngân hàng trung ương Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ.
Ngân hàng và người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các Ngân hàng trung
ương đôi khi là thành phần cơ bản trên thị trường hối đối thơng qua hành vi can
thiệp trên thị trường. Các ngân hàng trung ương vẫn thường xuyên can thiệp vào
thị trường ngoại hối với hai tư cách:
Ngân hàng trung ương thực hiện việc mua bán ngoại tệ để cân bằng hoạt
động của các khách hàng của mình chủ yếu là các ngân hàng thương mại.
Giám sát hoạt động của thị trường trong khuôn khổ quy định của luật
pháp. Sự can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm để giúp nâng giá hoặc giảm
giá đồng tiền bản tệ khi nó ở mức có thể làm tổn hại đến chính sách tiền tệ quốc
gia hoặc để triệt tiêu hiện tượng đầu cơ trên thị trường.
Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ) Nhòm
thành viên này bao gồm những cơng dân trong và ngồi nước có nhu cầu mua
bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay,
đi cơng tác hay đi du lịch ở nước ngồi hoặc khi nhận được các khoản lợi tức
đầu tư hay chuyển tiền.
Các nhà môi giới ngoại hối Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán
ngoại hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí. Các nhà mơi giới nắm

vững tỷ gía của nhiều thị trường. Vì vậy, tại các trung tâm tài chính quốc tế
thường có một số nhà môi giới ngoại hối giúp các ngân hàng thương mại thực
hiện lệnh mua và bán ngoại hối, từ đó cung cấp tỷ giá chào bán và tỷ giá chào
mua cho khách hàng một cách nhanh nhất và ưu việt nhất và nhận một khoản
phí mơi giới. Có thể nói, các nhà môi giới là những trung gian giữa các ngân
hàng và là trung gian giữa ngân hàng và khách hàng, qua đó góp phần tích cực
vào hoạt động của thị trường bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận với nhau.
Các doanh nghiêp Các doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp có chức
năng kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này vừa là chủ thể có nhu
9


cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương mại quốc tế, vừa là chủ thể
cung ngoại tệ khi có các khoản thu về việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ… Các
doanh nghiệp này được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và
bán ngoại hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối.
1.4. Vai trò của thị trường ngoại hối
Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ. Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế
hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ phục vụ cho các hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Thể hiện:
Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính tồn cầu nên đáp ứng nhu
cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào đều có thể được đáp ứng
ngay lập tức. Khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ, sự tham dự của các
ngân hàng và các nhà đầu cơ đã góp phần giải quyết sự mất cân đối đó thơng qua
việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị trường hoặc thơng qua đầu cơ ngoại tệ.
Phịng chống rủi ro tỷ giá. Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp
dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên tỷ giá hối đối ln ln biến động. Sự biến động
của tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các cơng ty xuất nhập
khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, nguồn chi ngoại tệ trong
tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá hối đoái. Do

vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế những
rủi ro này. Thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn…của thị
trường ngoại hối sẽ giúp cho các cơng ty, doanh nghiệp phịng ngừa được rủi ro.
Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ. Các ngân hàng thương mại
tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính mình. Các
ngân hàng chủ yếu tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá (Acbít)
giữa các thị trường để thu lời qua việc mua ở thị trường này giá rẻ hơn và bán lại
ở thị trường kia giá cao hơn. Không chỉ có các ngân hàng mà các cơng ty, doanh
nghiệp và cá nhân cũng có thể thu lời thơng qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ.
10


Ngồi ra, thị trường ngoại hối cịn giúp các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục
vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự tính cao.
1.5. Nội dung hoạt động của thị trường ngoại hối
Thị trường tiền gửi là nơi thực hiện giao dịch vay và cho vay các loại
ngoại tệ với những thời hạn xác định kèm theo một khoản tiền gửi thể hiện qua
lãi suất. Tại thị trường này các ngân hàng và khách hàng của họ tiến hành các
giao dịch về ngân quỹ, tức là vay ngoại tệ thiếu và cho vay ngoại tệ thừa.
Thị trường tiền gửi chính xác Trên thị trường tiền gửi thõa mãn nhu cầu
vốn trong các hình thức vay - gửi các loại ngoại tệ khi có cung, cầu với bất kỳ
khối lượng nào và mức thời gian từ một ngày đến 5 năm hoặc lâu hơn.
Kỳ hạn chính xác: được ký cụ thể trong các hợp đồng giao dịch. Kỳ hạn
chính xác thể hiện thời hạn thanh toán đúng hạn và đến hạn (trả trước hoặc trả
sau đều chịu phạt lãi). Mức phạt lãi tùy thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng
và khách hàng và nhu cầu vốn trên thị trường.
Ở thị trường tiền gửi có hình thức vay vốn một ngày. Hình thức vay vốn
một ngày nhằm thỏa mãn vốn kinh doanh của chủ thể kinh tế. Thị trường tiền
gửi thông qua lãi suất. Lãi suất được hiểu là giá phải trả hay nhận được từ khoản
đi vay hay đi gửi bằng ngoại tệ. Như vậy, các mức lãi suất này xác định chi phí

hay thu nhập có liên quan đến việc sử dụng tiền (ngoại tệ) trong một thời gian
nhất định. Liên quan đến loại tiền và thời gian xoay quanh quy luật cung cầu lãi
suất trên thị trường được tính trên cơ sở năm thương mại và thơng báo dưới hình
thức phân số.
Có nghĩa là thị trường có thể bị tác động bởi các sự kiện kinh tế, chính trị
và tâm lý… thậm chí với mức độ lớn hơn thị trường giao ngay vì phần lớn các
nước phát triển đều sử dụng công cụ lãi suất để tác động đến một loạt các chỉ số
kinh tế và đặc biệt là tác động đến quan hệ giữa các đồng tiền với nhau. Chính vì
11


vậy mà chính sách biến động lãi suất do Mỹ thi hành tác động đến tỷ giá của
đồng Đôla Mỹ và các đồng tiền khác, vì thông qua ảnh hưởng tới việc chu
chuyển vốn làm biến động cung và cầu, mà lãi suất là giá cả của quyền sử dụng
vốn phụ thuộc rất lớn vào quan hệ cung cầu, buộc các lãi suất này cũng phải
thay đổi.
Thị trường mua bán ngoại tệ giao ngay. Thị trường này bao gồm thị
trường thỏa thuận tùy ý và thị trường giao dịch theo phiên ấn định. Về địa điểm
và thời gian. Thị trường thỏa thuận tùy ý khơng có địa điểm cụ thể, thời gian
24/24 h. Thị trường theo phiên giao dịch tại phòng lớn. Về tỷ giá: Thỏa thuận
tùy ý, mỗi giao dịch hay mỗi hợp đồng áp dụng một tỷ giá và tỷ giá này không
công bố. Theo phiên ấn định: Tỷ giá do người tổ chức phiên đưa ra [4, tr.92]
II. HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối ở
Việt Nam
Thị trường ngoại hối đã xuất hiện từ rất lâu, từ thuở sơ khai của thị trường
này, việc trao đổi ngoại tệ diễn ra khá dễ dàng. Nhưng càng về sau, nó càng trở
nên phức tạp. Cụ thể hơn, ở Việt Nam, thị trường này đang dần đi vào ổn định,
mặc dù vẫn cịn khơng ít các rào cản.
Từ năm 1989, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương là

phát triển một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; phát triển kinh
tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa
nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ. Nhằm bôi trơn và thúc đẩy kinh tế đối
ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu, thì việc hình thành và đưa
vào hoạt động thị trường ngoại hối ở Việt Nam là cần thiết. Quá trình hình thành
và phát triển trường ngoại hối Việt Nam có thể tóm tắt như sau:
* Giai đoạn trước 1991: Đặc trưng của giai đoạn trước 1991 Việt Nam
phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngồi đều thông
qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối.
12


Trước yêu cầu đổi mới, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 53/HĐBT về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp
thành hai cấp, bao gồm:
Ngân hàng Nhà nước.
Hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng Trung Ương thực hiện chức năng
quản lý vĩ mơ, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng…
Hệ thống Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ
và tín dụng; trong đó, chỉ có duy nhất Ngân hàng Ngoại thương được phép hoạt
động và kinh doanh ngoại hối, thanh tốn quốc tế và mở tài khoản ở nước ngồi;
các ngân hàng khác chỉ được hoạt động trong nước.
Như vậy, cho đến thời điểm sau khi có Nghị định 53/HĐBT, thì một thị
trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam vẫn chưa được hình thành.
Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, ngày 18/10/1988, Hội đồng
Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối”.
Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần
Nghị định 161 là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngân hàng nhà nước thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh

doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy
định của ngân hàng nhà nước. Ngân hàng thương mại là cơ quan được phép kinh
doanh ngoại hối. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng
liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam,
các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu
ngoại tệ đều phải được ngân hàng nhà nước - Trung ương Việt Nam cho phép”
[5, tr.45].
Có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại
hối đã được dỡ bỏ. Từ nay, các ngân hàng thương mại nói chung muốn kinh
doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để ngân hàng nhà nước cấp phép. Đây được
13


xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị
trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh
tranh của thị trường.
* Giai đoạn từ 1991 đền 1994: Ngày 16/8/1991, Thống đốc ngân hàng
nhà nước đã ra Quyết định 107-NH/QĐ, ban hành Quy chế hoạt động của Trung
tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được
thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Như vậy có
thể nói, năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng
một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam.
Qua thời gian hoạt động từ 16/8/1991 đến 1/12/1994, một số nét chính về
hoạt động của hai Trung tâm có thể nêu ra như sau:
Bước đầu hình thành phương thức xác định tỷ giá tương đối linh hoạt
thông qua việc cân đối cung cầu ngoại tệ tại Trung tâm.
Qua hoạt động của hai Trung tâm đã tạo ra tập quán, kiến thức kinh doanh
ngoại hối cho ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại và các tổ chức
kinh tế.
Ngân hàng nhà nước đã từng bước hồn thiện chính sách quản lý vĩ mô về

tỷ giá, cũng như khâu tổ chức, điều hành hoạt động thị trường ngoại hối.
* Giai đoạn từ 1994 đến 2004: Trước nhu cầu phát triển một thị trường
ngoại hối hoàn chỉnh hơn ở Việt Nam, Thống đốc ngân hàng nhà nước đã quyết
định chấm dứt hoạt động của hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh từ 1/12/1994 để nhường chỗ cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Ngày 20/10/1994, Thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết
định 203/QĐ-NH thành lập Thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng (Interbank) và
ban hành Quy chế tổ chức & hoạt động của Interbank, đánh dấu bước ngoặt lịch
14


sử trong quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam
theo chuẩn mực quốc tế.
* Giai đoạn 2004 đến nay: Kể từ ngày 8/12/2004, Quyết định số
1452/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước điều chỉnh giao dịch
hối đối của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối đã chính thức
có hiệu lực thi hành và thay thế Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN7 về Quy chế
giao dịch hối đoái năm 1998.
Mở rộng quyền được giao dịch ngoại tệ.
Thị trường được đảm bảo an toàn hơn.
Từ đây thị trường ngoại hối Việt Nam trở nên sơi động hơn, linh hoạt,
thơng thống, tự chủ và an toàn hơn.
2.2. Quy định quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Theo Hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam, ban hành bởi Ngân hàng nhà nước vào ngày
26/6/2019, Đối tượng mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bao gồm
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhà đầu tư nước ngoài tham gia họp đồng BCC, nhà đầu tư nước ngoài
trực tiếp thực hiện dự án PPP trong trường hợp không thành lập doanh nghiệp dự
án. Các đối tượng nêu trên mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp theo quy định sau:

Mở tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một ngân hàng được
phép để thực hiện các giao dịch.
Chỉ được mở 1 tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng loại ngoại tệ.
Trường hợp thực hiện đầu tư bằng đồng Việt Nam, được mở 01 (một) tài
khoản vốn đầu tư trực tiếp.
15


Những thay đổi về tính pháp lý của việc giao dịch ngoại hối tại Việt Nam
theo thông tư này đã cho thấy một sự thả lỏng và ủng hộ từ nhà nước với các
nhà đầu tư giao dịch forex, cho thấy một sự chuyển biến tích cực trong việc đưa
ra chính sách của nhà nước. Tuy nhiên, cũng vẫn có những hạn chế, quy tắc mà
các nhà đầu tư cần tuân thủ nhằm bảo vệ chính nhà đầu tư giao dịch và thị
trường nước nhà.
2.3. Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay
Trong năm vừa qua, Việt Nam sở hữu dự trữ ngoại hối cao nhất từ trước
đến nay. Chúng đạt đến con số hơn 100 tỷ USD. Ở nước ta, tỷ giá đồng đô la
khá ổn định mặc dù nền kinh tế tồn cầu có nhiều biến động.
Hiện nay, thị trường ngoại hối Việt Nam lại có sự phát triển mạnh mẽ
vượt bậc. Nhiều chuyên gia đánh giá, chúng thực sự đã đi vào mức ổn định. Hầu
hết các ngân hàng đều chấp nhận thực hiện giao dịch cho khách hàng có nhu
cầu. Nhà nước cũng chú trọng cải thiện cơ chế quản lý tỷ giá với những thơng
điệp rõ ràng cụ thể. Từ đó khiến người dân tin tưởng hơn, giảm thiểu rõ rệt vấn
đề tâm lý giữ tiền ở nhà. Người ta đã bắt đầu biết nhiều hơn về lĩnh vực này,
thậm chí là nhiều nhóm đã bắt đầu tham gia vào đường đua.
Thế nhưng, thị trường này chưa thực sự phát triển hoàn hảo. Cụ thể: Dù
thị trường ngoại hối quốc tế có hàng trăm sản phẩm về giao dịch ngoại hối.
Nhưng, tại Việt Nam Forex vẫn chưa đầy đủ. Tỷ trọng về tổng khối lượng giao
dịch kỳ hạn, tương lai vẫn chưa thực sự cao.
2.4. Cơ chế và chính sách điều hành thị trường ngoại hối ở Việt Nam

Thị trường ngoại hối có phát triển hay không do ảnh hưởng bởi rất nhiều
yếu tố khác nhau. Nhưng ở Việt Nam quan trọng nhất là cơ chế và chính sách
điều hành thị trường ngoại hối của Ngân hàng Trung ương.

16


Ở thị trường hối đoái Việt Nam, do nền kinh tế còn quá kém, nên Ngân
hàng nhà nước còn ấn định mức tỷ giá giao dịch và chỉ cho phép giao dịch biến
động +/-5% /năm.
Mặt khác, cơ quan điều hành thị trường cũng chỉ cho phép các tổ chức, cá
nhân xuất nhập khẩu hàng hóa hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ chính đáng
mới được giao dịch và phải xin phép với các thủ tục rườm rà.
Hiện nay, thị trường vẫn chưa thực sự mở cửa, cho phép các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng được tham gia thị trường ngoại tệ, đa dạng hóa sản phẩm,
dịch vụ kinh doanh ngoại hối, đơn giản hóa các thủ tục cấp phép.
Đánh giá về thị trường ngoại hối Việt Nam sau 31 năm (kể từ năm 1990)
hoạt động vẫn thuộc loại kém phát triển. Đó là do chất lượng quản lý không cao,
thiếu thống nhất, các quy định lỏng lẻo, tạo điều kiện cho những hành vi vi
phạm về quản lý. Một số thực trạng về vấn đề quản lý ngoại hối:
Đối với giao dịch vãng lai: Việt Nam đã tự do hóa việc chuyển đổi ngoại
tệ và thanh tốn đối với hầu hết các giao dịch loại này. Nhưng các quy định về
hồ sơ, chứng từ trên thực tế còn rất rườm rà.
Đối với các giao dịch vốn: Văn bản cao nhất về vấn đề này là Nghị định
63/NĐ-CP của chính phủ chỉ nêu chung chung về việc cho vay, thu hồi nợ nước
ngoài được thực hiện theo quy định riêng của pháp luật và cho đến nay vẫn chưa
có văn bản nào quy định cụ thể về cho vay, thu hồi nợ nước ngoài của doanh
nghiệp.
Hoạt động đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam hoặc của Việt
Nam ra nước ngồi: cũng khơng có cơ sở pháp lý đủ mạnh để thực thi và thực

tế là các nhà đầu tư gián tiếp ra nước ngoài phải “lách” bằng cách thông qua
việc mua các trái phiếu, giấy tờ có giá phát hành ở nước ngồi hay ngân hàng
nhà nước đầu tư từ nguồn dự trữ ngoài hối.
17


Cơ chế điều hành tỷ giá:
Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam do ngân hàng trung ương quy định dựa trên
kết quả giao dịch trong ngày trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng Việt Nam và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng
thương mại không được lớn hơn +/- 0,25% so với tỷ giá chính thức. Mức dao
động cho phép (biên độ). Biên độ của tỷ giá mà SBV quy định được nới rộng
dần theo thời gian trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới của kinh tế Việt
Nam. Ban đầu tỷ giá là cố định, sau đó tỷ giá có biên độ dao động từ mức +/0.25%; +/-0.3% … và hiện nay +/- (3%-5%).
Giá cả các loại tiền tệ phụ thuộc vào mức cung và cầu trên thị trường của
chính nó và các loại tiền tệ khác nữa. Tuy nhiên, về cơ bản tỷ giá phụ thuộc vào
tình hình kinh tế của các quốc gia. Khi một quốc gia tăng trưởng kinh tế tốt, xuất
khẩu mạnh hơn các nước liên đới thì nguồn ngoại tệ thu về dồi dào làm cho nội
tệ lên giá và tỷ giá giảm và ngược lại. Vậy tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào Xuất
Nhập Khẩu ròng (NX) của 1 quốc gia. Khi NX > 0 thì tỷ giá giảm và ngược lại.
Một quốc gia phát triển tốt thì mức độ giao dịch diễn ra sơi động và thị trường
hối đối càng có điều kiện phát triển tốt hơn.
Ngồi ra, các yếu tố như lãi suất, lạm phát tác động đến tỷ giá hối đoái
theo hai hướng ngược nhau. Khi lãi suất tăng thì cầu về nội tệ sẽ tăng làm cho
đồng nội tệ tăng giá nên tỷ giá sẽ giảm và ngược lại. Đối với lạm phát khi lạm
phát tăng, thì giá cả hàng hóa trong nước sẽ tăng làm cho xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng, lượng cung tiền trong nuớc tăng lên làm cho giá trị nội tệ sẽ giảm hay
tỷ giá sẽ tăng.
Mức dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương cũng có tác động đến tỷ
giá hối đoái. Khi dự trữ ngoại hối tăng thì cung ngoại tệ trên thị trường giảm và

tỷ giá sẽ tăng do ngoại tệ tăng giá.

18


Chi tiêu ngân sách của chính phủ cũng tác động rất lớn đến tỷ giá hối
đoái. Khi ngân sách thâm hụt do chính phủ chi tiêu nhiều thì giá cả hàng hóa
dịch vụ sẽ tăng làm cho xuất khẩu giảm nên tỷ giá sẽ tăng.
Các quy định về giao dịch mua bán trên thị trường ngoại hối cũng tác
động đến mức cung cầu tiền tệ các nước. Nếu quy định thơng thống tự do thì sẽ
có nhiều người giao dịch mua bán và thị trường sẽ hoạt động hiệu quả khơng
nghiêng về phía cung như thị trường ngoại hối Việt Nam.
Cuối cùng, các loại công cụ , dịch vụ trên thị trường càng đa dạng phong
phú thì thị trường ngoại hối càng phát triển.
2.5. Giải pháp cho thị trường ngoại hối ở Việt Nam hiện nay
Đã đến lúc Việt Nam cần xây dựng một cơ chế pháp lý, thiết chế theo
hướng khẳng định thị trường ngoại hối phát triển theo cung cầu, các biện pháp
đảm bảo an tồn thơng qua việc cho phép cơ quan có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp phong toả việc chuyển tiền hoặc tài sản của cá nhân, tổ chức có liên
quan đến các lĩnh vực như khủng bố, rửa tiền bất hợp pháp.
Cần có quy định tương đối thơng thống về thị trường ngoại hối với đối
tượng tham gia thị trường và các công cụ của thị trường.
Từng bước nới lỏng các giao dịch vốn bằng việc nhấn mạnh đến việc
quản lý và giám sát các luồng vốn ngoại tệ vào ra thông qua hệ thống ngân hàng
được phép, thông qua các tài khoản ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép áp
dụng cho từng loại hình giao dịch vốn.
Quy định rõ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoai đối với lợi nhuận, nguồn
thu hợp pháp, quyền được chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển về nước.

19



Các luồng vốn đầu tư ra nước ngoài cũng cần được lựa chọn mở rộng
từng bước theo thứ tự đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp để áp dụng các biện
pháp quản lý phù hợp.
Một vấn đề quan trọng khác là hoạt động vay, trả nợ nước ngoài và cho vay
thu hồi nợ nước ngoài cần được thống nhất quản lý theo từng nhóm đối tượng, áp
dụng các cơ chế kiểm sốt thơng qua cấp phép, quy định tổng hạn mức, đăng
ký,... Đồng thời, Việt Nam cần thể hiện rõ lập trường kiên định và các biện pháp
cụ thể trong việc từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ hồn tồn hiện tượng đơ la
hố, hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Một cơ chế tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của Nhà nước cũng là điều cần
hướng tới trong thị trường ngoại hối theo hướng mở cửa, chuẩn hoá theo thơng
lệ quốc tế.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thúc đẩy các nghiệp vụ phái sinh
phát triển hơn nữa bằng giải pháp hợp lý.
Đồng thời, các ngân hàng cũng nên nâng cao tính thị trường cho những
giao dịch ngoại hối. Nhanh chóng giải quyết hiệu quả nguồn ngoại tệ tồn đọng ở
các doanh nghiệp xuất khẩu. Và, thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh tốn
thay vì chỉ đang chú tâm vào đơn vị USD như hiện tại. Đương nhiên, khơng thể
thiếu việc gia tăng tính “trực tiếp” của các hợp đồng giao dịch. Khắc phục tình
trạng nhờ bên thứ ba môi giới khi cần trao đổi điều khoản mà không thực sự gặp
nhau. Cuối cùng cũng là quan trọng nhất, là cần thúc đẩy các sản phẩm phái sinh
phát triển.

20


KẾT LUẬN
Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở lên mạnh mẽ. Sự

hội nhập kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trưởng mở là nhu cầu khách
quan có tính qui luật với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với
kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc hình thành và phát triển thị trường ngoại hối
Việt Nam một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết.
Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành
từng bước phát triển. Trước hết, đó là: chính sách quản lý ngoại hối đang dần
được hoàn thiện phù hợp hướng phát triển kinh tế thị trường mở, những nhân tố
thị trường ngày càng trở lên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái,
bước đầu đã đưa một số các giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như:
giao dịch giao ngay, giao dich kỳ hạn, giao dịch hoán đổi và giao dịch quyền
chọn tiền tệ. Mặc dù với những bước đi đầu tiên, nhưng thị trường ngoại hối
Việt Nam đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại hối cho các ngân hàng thương
mại, đồng thời cung cấp công cụ hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro ngoại hối đối
với các công ty xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, thị
trường ngoại hối Việt Nam còn rất non trẻ và sơ khai xét về trình độ quy mô
hoạt động cũng như kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Chính vì vậy,
nghiên cứu những vấn đề về thị trường ngoại hối nói chung và thị trường ngoại
hối Việt Nam nói riêng có ý nghĩa quan trọng, từ đó có cái nhìn tổng quan để
xây dựng chính sách quản trị cho phù hợp.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trang Hòa (2018), Thị trường ngoại hối - Nhứng yếu tố rủi do
cho thị trường ngoại hối Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Kiều (2015), Thị trường ngoại hối và các giải pháp
phịng ngừa rủi ro, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Mùi (2018), Lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Tiến (2019), Tài chính quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
5. Lê Văn Tư (2016), Ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Thống kê,
Hà Nội.

22



×